QUÊ TÔI và NHỮNG ÂN T̀NH
(Phan Xuân Sinh)
Thành phố Đà Nẵng có hai cái
chợ, hai cái chợ nầy đều mang mỗi một
cái tên cộc lốc, nếu không để chữ
"chợ" ra phía trước th́ hai cái tên đứng
chơ vơ nghe rất lạ tai: "Hàn" và
"Cồn". Nghèo quá ngay cả cái tên tiêu biểu cho
sự sinh sống của toàn dân trong thành phố, nắm
ngay cái bao tử của mọi người mà cũng không
được thêm một chữ nữa cho êm tai. Thấy
tội nghiệp nên dân ngoài tôi ghép thêm chữ
"chợ" cho văn chương, nên gọi là
"Chợ Hàn" và "Chợ Cồn". Tôi c̣n nhớ
khi c̣n nhỏ, mỗi lần về quê tại làng Kim
Bồng, mấy người đứng dưới
ruộng hay đi trên đường, có quen hay không quen
cũng đều chào hỏi như thân t́nh và sau câu chào bao
giờ cũng hỏi một câu: "Ở Hàn 'dề'
đó hả?". Như vậy theo tôi tự hỏi, th́
ngày xưa xứ Đà Nẵng được gọi là xứ
Hàn chăng? "Bên ni Hàn, ngó qua bên tê Hà Thân, nước xanh
như tàu lá ..". Hồi đó được ở ngoài
Hàn mà về quê thật là vinh dự. Mấy đứa
nhỏ cùng tuổi đi chăn ḅ thấy chúng tôi về
làng th́ thèm thuồng, nh́n rớt mắt. Dân thành phố mà
lỵ, chơi ǵ chúng nó cũng nhường và bày vẽ
tận t́nh. Thật tội nghiệp.
Chợ Hàn nằm vỏn vẹn
trong một "blốc", phía trước
đường Độc Lập, phía sau đường
Bạch Đằng, bên phải đường Trần
Hưng Đạo và bên trái đường Đồng Khánh. Ngày
xưa má tôi cũng có một sạp bán hàng xén trong chợ.
Má tôi mất khi tôi c̣n rất nhỏ. Sau nầy bà Ngoại
tôi thỉnh thoảng hay dẫn tôi xuống chợ Hàn, th́
được mấy d́ bán hàng trong chợ bồng tôi lên
ngồi trên sạp hàng, mua đồ cho ăn. Có d́ ôm tôi vào
ḷng thủ thỉ: "Ngoan nghe con, để má về phù
hộ. Tội nghiệp mồ côi mẹ chưa đầy
một tuổi, trời thương t́nh nuôi nấng".
Ngôi chợ nầy đă để lại trong ḷng tôi
biết bao là ân t́nh. Sau nầy khi lớn lên, tôi cũng
thường đến thăm d́ Tùng ở Chợ Hàn,
người bạn thân của má tôi ngày xưa. Lúc nào
gặp tôi, d́ Tùng cũng khóc, cũng xem tôi như thuở
c̣n bé tí.
Vào khoảng thập niên 60, Đà
Nẵng có cái lệ là chiều thứ bảy thiên hạ
rần rần đổ ra đi "bát phố", trai
thanh gái lịch đủ mặt, cũng chỉ đi ḷng
ṿng mỗi một "blốc" đường.
Muốn t́m người quen hay bạn bè th́ chiều thứ
bảy đứng phía trước mặt Chợ Hàn,
thế nào cũng gặp. C̣n nếu không, sợ đứng
lâu mỏi chân th́ ngồi ở quán cà phê gần Thông Tin
ở đường Yên Báy, người ḿnh muốn
gặp phải đi ngang qua đó. Nói vậy đủ
biết Đà Nẵng lúc đó dân số cũng không đông
lắm, đường sá vẫn c̣n vắng vẻ chứ
không như bây giờ. Dân chúng cũng thảnh thơi, ung
dung dạo phố, cái ăn, cái mặc, nó không quấn bên
đít nên cũng c̣n hưởng được chút tao nhă
của một thời thịnh trị. Tụi tôi c̣n là
học sinh, xe đạp khóa lại, đặt ở
bờ tường Thông Tin, rồi đi dạo phố. Đi
cả buổi lúc nào về trở lại chỗ cũ
lấy xe, xe vẫn c̣n nguyên vẹn chứ không bay mất.
Như vậy, đủ biết t́nh trạng trộm
cắp trong thành phố chưa là mối lo lắng cho dân
chúng.
Tuổi choai choai của tụi
tôi thuở đó, quanh đi quẩn lại có đồng
nào cũng chỉ chụm đầu vào mấy tiệm cà
phê. Các tiệm cà phê mà tụi tôi hay la cà nhiều nhất là
Ngọc Lan, Diệp Hải Dung, Hạ, cà phê vỉa hè Thông
Tin, b́nh dân hơn th́ rúc vào phía sau Chợ Cồn uống cà
phê Phán. Sau nầy thêm các quán Thạch Thảo, Danube v.v..
Đầu tóc bờm sờm như các hiền triết,
thuốc lá hút liên miên. Mấy ai biết hiện sinh là cái
quái ǵ, tạo cho ḿnh cảnh chán đời, sống
vội vàng .. tức là theo phong trào hiện sinh của
mấy ông bà triết gia bên Tây như Jean Paul Sartre, Albert
Camus v.v.., đồ đệ trung thành mà mấy ai biết
các tổ sư đó nói ǵ, viết ra sao đâu. Các ông mà
biết được, chắc đau khổ cho cái
triết học đầy "trí tuệ" của ḿnh,
bị cái đám trẻ tỉnh lẻ như tụi tôi
đem ra xài một cách phung phí như vậy. Có điều
lúc đó sống như vậy nhưng ít ai hư hỏng
như lúc sau nầy. Đất nước thanh b́nh, vùng quê yên
tĩnh, thành phố có nhộn nhịp nhưng không xô
bồ, hỗn loạn. Giềng mối đạo
đức vẫn c̣n được tôn trọng, nề
nếp gia đ́nh vẫn mực thước "tôn ti
trật tự". Nói đến chuyện nầy, tôi
nhớ lại khi ba tôi c̣n đi dạy học, tôi c̣n
nhỏ. Mỗi năm gần đến ngày tết, cha
mẹ của học tṛ đem quà lễ đến
biếu thầy ăn tết, giàu biếu nhiều, nghèo
biếu ít. Nhưng ai ai cũng giữ lệ đó.
Người mang con gà, người mang một "ang"
nếp, bánh mứt. Gia đ́nh có ǵ mang tới biếu
thầy thứ đó, với những lời biết
ơn tận đáy ḷng, không màu mè kiểu cách: "Nhờ
Thầy mà con tôi có vài chữ bỏ bụng", "Chút
quà mọn lấy thảo, để tỏ tấm ḷng
biết ơn Thầy" v.v.., biết bao lời chân thành,
mộc mạc, của những con người ít học,
nhưng vẫn giữ được cái đạo
nghĩa từ ngàn xưa để lại, họ trân quư và
xem đó như khuôn vàng thước ngọc. Hai cha con không
biết làm ǵ hết với số quà lớn lao đó,
phải đem biếu lại cho bà con lối xóm.
Ở thành phố, học sinh
đi ngoài đường gặp thầy giáo ngả nón
chào, đó là điều tất nhiên. C̣n ở vùng quê th́ sao
? Học sinh đi về cùng đường với
thầy, tất cả đều đứng lại
nhường đường cho thầy đi
trước. Đang chơi trên đường hay trên bờ
ruộng, trông thấy bóng thầy từ đằng xa là
phải nép qua bên đường, giở nón cúi đầu,
rạp người xuống, chờ thầy bước
tới hô to: "Dạ, chào thầy". Mới cách đây
chỉ vài chục năm, bây giờ giữa xứ
người mà nói lại những thứ nầy, như
kể chuyện ngàn năm trước. Ai c̣n b́nh tâm
để nhớ lại những h́nh ảnh thật
dễ thương, chất đầy văn hóa như
vậy. Đất nước ta thiếu ăn quanh năm,
nhưng không thể nào thiếu văn hóa được.
Đó là điều tự hào cho dân tộc, nhưng cũng
phải buồn ḷng cho những giá trị đó, dần
dần bị loại ra khỏi con người ngay cả
trên đất nước. Thầy đau ốm, học
tṛ thay nhau đến thăm. Có người, trút ống
tiền để dành, chỉ đủ mua cho thầy vài
quả trứng gà, một hai trái cam để thầy
tẩm bổ, mau lành bệnh.
Tấm ḷng của học tṛ
với thầy như vậy, c̣n thầy đối
với học tṛ th́ sao ? Nh́n thấy sự lo lắng
của ba tôi trong những năm c̣n đi dạy
đối với học tṛ, ông xem tất cả như con
ruột của ḿnh vậy. Mỗi ngày điểm danh,
thiếu vắng ai là ông phải điều tra cho ra lư do
nghỉ học. Ông rất nghiêm khắc với những
đứa học tṛ trốn học đi chơi, dùng
những biện pháp "cấm túc" để trừng
phạt những người ương ngạnh lêu
lỏng. Nhưng ông rất bao dung và giúp đỡ cho
những học sinh của ông phải nghỉ học vài
ngày v́ lư do mưu sinh để giúp đỡ gia đ́nh. Ông
t́m tới nhà buổi tối để đưa bài vở
thiếu, và nếu cần ông giảng lại những ǵ mà
người đó chưa hiểu. Sau nầy, khi tôi lớn
lên, khi cha con ngồi nói chuyện về những năm ông
c̣n đi dạy. Đôi mắt ông sáng rực, vui sướng
khi kể cho tôi nghe trách nhiệm và ao ước lớn lao
của người thầy: "Tâm trạng của
người thầy giáo giống như tâm trạng của
người lái đ̣. Người lái đ̣ có bổn
phận đưa khách qua sông và bến bờ có sẵn
để cặp bến. C̣n người thầy giáo
đưa học tṛ của ḿnh qua sông, nhưng không có
bến bờ. Thầy giáo phải t́m cho học tṛ ḿnh
một bến bờ suông sẻ, vinh quang để
đưa đến đó. Trách nhiệm của
người thầy, luôn luôn gắn liền đời sống
của học tṛ ḿnh, trên con đường thiên lư mà
họ sẽ đi qua của cuộc đời". Đẹp biết bao,
một nhân sinh quan tuyệt vời của những thầy
giáo Việt Nam thuở đó. Làm sao chúng tôi quên
được công lao dạy dỗ của các thầy.
Trong bài "Đà Nẵng của
tôi", tôi đă viết cách đây 3 năm trên tờ báo
Sông Thu của Hội Ái Hữu Quảng Nam tại Georgia, và
sau được đăng trên Đặc San Quảng Đà
của anh Thái Tú Hạp. Trong đó tôi có kể tên các
người thầy cũ của tôi, trong đó có thầy
Lê Chương, người dạy Việt văn của
Trường Sao Mai Đà Nẵng trong những năm
đầu tiên vào trung học. Năm vừa rồi, tôi
nhận được lá thư của thầy
Chương từ Việt Nam gửi qua, do tờ Saigon
Times của anh Thái Tú Hạp chuyển lại (v́ thầy
không biết địa chỉ của tôi, nên nhờ ṭa báo
chuyển lại). Thầy đă đọc được
những ḍng của tôi viết về các thầy cũ,
trong đó có tên thầy. Thầy không ngờ rằng trong
thời buổi mà mọi đạo lư đều
được đảo lộn, mọi giá trị lễ
nghĩa xem như thừa thải, thế mà có đứa
học tṛ cũ c̣n nhắc lại tên các thầy cô giáo
với ḷng biết ơn và kính trọng. (Bài báo do người
em ruột của thầy ở San Jose chuyển về cho
thầy). Đọc thư thầy, tôi cảm động
rớt nước mắt. Không ngờ, hơn 38 năm
thầy vẫn c̣n nhớ tên tôi, nhớ vóc dáng của tôi
trong số hàng ngàn môn sinh mà thầy đă dạy. Hiện
nay thầy Chương trên 80 tuổi, đang cư ngụ
tại 101 Nguyễn Thái Học, Hội An. Ước ao
của tôi là có dịp trở về quê cũ, thăm
lại thầy Lê Chương của tôi để
được hầu chuyện cùng thầy. Thầy và tṛ
bây giờ tóc đă bạc.
Mùa hè năm 1972, tôi bị
thương nằm tại Tổng Y Viện Duy Tân.
Thầy Phạm Ngọc Vinh (bút hiệu là Hoàng Vinh), lúc
đó thầy đang làm nghị viên Hội Đồng Tỉnh,
đến thăm thương bệnh binh, nằm trên
giường bệnh tôi vẫn chào thầy, thầy
đếm ôm tôi. Sau năm 1975 thỉnh thoảng tôi cũng
gặp thầy tại Sài G̣n. H́nh như thầy phụ
trách dịch thuật cho một cơ quan báo chí th́ phải.
Vợ con của thầy đều ở Mỹ, cho nên
trông thấy đời sống của thầy cũng có
vẻ an nhàn không vất vả như các thầy khác.
Mới đây, người
thầy cũ mà tôi gặp lại trên đất Mỹ
trong dịp ra mắt sách của nhà văn Hà Kỳ Lam
tại Philadelphia là thầy Nguyễn xuân Nghệ. Thầy
Nghệ trước đây là hiệu trưởng của
trường Tây Hồ, Đà Nẵng. Ai là học sinh thuở
đó ở Đà Nẵng, dù không học ở trường Tây
Hồ cũng đều biết thầy, đều nghe
tiếng thầy. Ngày xưa thầy dạy lư hóa và là con
người mực thước. Học sinh chúng tôi vừa
sợ mà cũng vừa nể phong cách của thầy.
Rất tiếc, hôm đó sau khi thủ tục ra mắt sách
xong th́ thầy ra về sớm, chưa có dịp hầu
chuyện với thầy nhiều. Có dịp đến
Philadelphia lần khác thế nào tôi cũng t́m đến
thăm thầy.
Thế hệ của tôi chưa
già lắm, để đủ vốn liếng nói
đến chuyện "Tứ Thư, Ngũ Kinh", và
cũng không c̣n quá trẻ để không hiểu giá trị
to lớn của người thầy. Chúng tôi cũng không
phải sống vào buổi giao thời của hai nền
văn hóa đông tây, thế hệ nầy thuộc lớp
cha chú của chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng c̣n được
hấp thụ một phần nào của cái "tiên học
lễ, hậu học văn", và nhất là "tôn
sư giữ đạo" mà người xưa đă
nhồi nhét vào đầu óc chúng tôi một cách kỹ càng,
như một thứ cẩm nang. Nó đă thấm nhuần
trong máu, trong thịt của thế hệ chúng tôi. Khi
nghĩ về các thầy dạy cũ, tự nhiên trong ḷng
tôi toát lên một sự kính trọng và nể nang. Chính v́ cái
quan niệm "nhất tự vi sư, bán tự vi
sư" đó, mà những người trong thế hệ
chúng tôi, khi phải gặp lại thầy cũ của ḿnh
vẫn đứng thẳng người, cúi đầu chào
một cách cẩn trọng dù bây giờ tất cả
đều đă già, tất cả mái đầu của
thầy tṛ đều bạc phơ như nhau. Nếu các
thầy tôi c̣n sống th́ tuổi đời cũng khá cao.
Chúng tôi không có quyền đ̣i
hỏi một điều ǵ ở các thầy. Chúng tôi
chỉ biết ḿnh phải giữ lễ với các
thầy đúng mức chưa ? Một lần Nguyễn
Tiến Long, người bạn học cùng lớp với
tôi tại hai trường Tây Hồ và Sao Mai. Long sau nầy
là đại úy không quân đóng tại Đà Nẵng, (hiện
cư ngụ tại San Jose). Như bao nhiêu người khác
thuộc diện sĩ quan, Long cũng đi học tập
mất mấy năm và sau khi trở về bán thuốc lá
lẻ dọc đường. Long gặp lại thầy
P.T.M (nhạc sĩ) lúc trước dạy chúng tôi tại
trường Tây Hồ, ghé vào mua thuốc. Thầy P.T.M
dạy nhạc, tác giả nhiều bản nhạc nổi
tiếng tại Miền Nam trước 75. Long cúi
đầu chào thầy, thầy hỏi Long lúc trước
làm ǵ mà bây giờ phải ra bán thuốc lá lẻ. Long thành
thật thưa với thầy là đại úy Không quân. Nghe
xong thầy rồ máy xe chạy mất. Long sững sờ,
không biết ḿnh đă xúc phạm ǵ để thầy
phải hoảng sợ như vậy. Khi kể cho tôi nghe
chuyện nầy, Long có vẻ đau khổ và ê chề. Tôi
vỗ vai an ủi nó: "Các thầy nghĩ sao
về tụi ḿnh tùy ư, riêng tụi ḿnh th́ không
được phiền trách ǵ các thầy cả". Nói ra điều
nầy, tôi thấy có một cái ǵ đó vừa chua xót,
vừa đắng họng. Long gật đầu và tự
nhiên vui hẳn lên. Sau nầy Long cho tôi biết, thầy P.T.M
đang làm Trưởng Pḥng Thông Tin Văn Hóa Quận 4, Sài
G̣n. Không biết tin nầy có đúng không. (Khi tôi đang
viết những ḍng chữ nầy, th́ tôi được
tin do một người trước đây học Đại
Học Vạn Hạnh, cho biết thầy PTM đang
bị chấn thương mạch máu năo, tê liệt
nửa thân người. Nghe tin nầy tôi cũng cố
gắng liên lạc với bạn bè trước đây có
học với thầy PTM, để cùng nhau giúp cho thầy
cái ǵ đó, cho thầy vui trong lúc bệnh hoạn).
Thế hệ của chúng tôi
rất đau ḷng cho cái chuyện bên nầy, bên kia.
Chuyện ư thức hệ nầy đă gây ra biết bao
nhiêu tan nát từ gia đ́nh đến xă hội. Nó ảnh
hưởng trầm trọng đến giáo dục,
nhiều khi thầy tṛ đứng về hai phía chống
đối nhau. Đó là thảm trạng chung của
đất nước, thế nhưng tôi chưa bao
giờ thấy cảnh học tṛ tố cáo thầy,
học tṛ chỉ điểm để bắt thầy. Dù
lúc đó chúng tôi cũng biết một số thầy
hoạt động hoặc có cảm t́nh với bên kia.
Trong lúc giảng bài có thầy đề cao phe bên kia, có
thầy có những lời lẽ hằn học với
chính quyền Miền Nam, thế nhưng học tṛ tụi
tôi không dám hé răng. Sau nầy có thầy ly khai vào trong
bưng hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng
như thầy Hạp dạy Việt văn, thầy H.A
dạy Anh văn. Thầy H.A. là người nổi
tiếng dạy môn Anh văn mà Đà Nẵng lúc ấy ai
cũng biết. Một người bạn học cùng
lớp với tôi, sau nầy làm đại đội
trưởng thuộc Địa Phương Quân, Tiểu khu
Quảng Nam. Một hôm anh nầy được lệnh
dẫn đại đội làm an ninh cho buổi họp
của Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn bên,
người trưởng phái đoàn Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam tại Quảng Nam lúc ấy là
thầy H.A. Phản ứng tự nhiên của một
người học tṛ khi gặp lại thầy cũ, anh
bạn tôi cúi đầu chào thầy A. Anh quên đi một
điều rất hệ trọng là giữa lúc đó
thầy A. là phe đối nghịch, là kẻ thù của
của chính quyền Miền Nam mà anh đang phục
vụ. Không biết thầy A. lúc đó nh́n thấy một
sĩ quan thuộc hàng ngũ Quốc Gia, cúi đầu chào
ḿnh không ? Và nếu biết, thầy nghĩ ǵ về hành
động nầy ? Kể ra chuyện nầy để
nói lên tấm ḷng kính trọng thầy trong thế hệ
của chúng tôi. Sau nầy tôi lại biết thêm có thầy
Vĩnh Linh, khi tôi c̣n học ở Sao Mai thầy dạy
toán, thầy cũng thuộc thành phần khuynh tả
hạng nặng. Khi mất Miền Nam, người ta
thấy thầy làm việc cho chính quyền sau nầy.
Trong một tỉnh nhỏ,
mọi chuyện xẩy ra đầu tỉnh, cuối
tỉnh biết ngay. Cho nên người con gái nào đẹp
là cả phố đều biết. Trong lớp tôi thuở
đó có chị Hoàng Kim Uyên, rất đẹp, sau nầy
thành Á Hậu Việt Nam. Chị lúc đó đă nổi tiếng.
Trong thành phố ai cũng biết chị. Mấy anh
học lớp lớn, cứ lạng qua lạng lại
trước lớp tôi cốt ư nh́n chị Kim Uyên. Đang
học mà có ai đi ngang qua là cả lớp nh́n ra ngoài
(thầy giáo hay dùng từ "lo ra" để chỉ
hiện tượng nầy). Đó là cái bực ḿnh nhất của
các thầy đang dạy. Nhưng biết làm sao, khi mà các
cây si muốn chiêm ngưỡng người đẹp.
Hồi đó tôi đi học, có cô bạn tên là Mai Thị
Liên học cùng lớp. Liên ở cùng đường
với tôi, nên mỗi lần đi học chúng tôi cùng đi
chung với nhau. Tôi không biết có một anh học hơn
tôi hai lớp, thích Liên mà không dám hé răng. Một hôm anh
đó đến chận tôi lại giữa
đường, tát cho tôi mấy bạt tai với cái
tội là đi chung đường với người anh
yêu. Sau nầy lớn lên, tôi lại gặp anh trong một
trường hợp thật hi hữu. Đang ngồi uống
rượu với mấy bạn cùng đơn vị
tại quán nhậu đường Lê Đ́nh Dương Đà
Nẵng, anh và một người bạn tôi bước
vào. Tôi đứng dậy bắt tay người bạn.
Khi đưa tay ra bắt tay anh, tôi và anh nh́n nhau
ngượng ngùng. Thế nhưng chúng tôi cũng mời hai
người cùng ngồi chung một bàn. Khi ly rượu
đầu tiên rót mời anh, anh đứng dậy
đến bên tôi và anh xin mọi người
được nói vài lời. Đó là lời xin lỗi tôi v́
sự hiểu lầm, háo thắng của cái tuổi
mới lớn, mà anh đă làm thương tổn
đến tôi. Bây giờ gặp lại tôi tại đây,
anh xin mọi người cho anh được uống
một ly rượu phạt, để tạ lỗi cùng
tôi. Tôi đứng dậy bắt tay và ôm anh vào ḷng. Tuổi
trẻ của tụi tôi thời đó sao dễ
thương, dễ tha thứ quá. Ai cũng đeo lên trên
ḿnh nỗi lo sợ của chiến tranh, nên giận nhau,
thù hằn nhau làm ǵ cho mệt xác. Cái ǵ đă qua th́ cho nó
trôi qua luôn. Tự nhận lỗi, tự nhận h́nh
phạt và mọi người xem nhau chẳng có ǵ xẩy
ra. Sau đó vài tháng , tôi nghe được tin người
bạn tôi cho biết, anh đă hy sinh tại chiến
trường Quảng Trị.
Khi tôi c̣n học trung học
đệ nhất cấp, tôi thường vào Hội An
để đàn đúm với mấy ông thi sĩ tí hon
của Hội An thuở đó như: Nguyễn Đăng
(chết sớm), Kiều Uyên, Lê văn Trung, Hạ Đ́nh Thao,
Vũ Đức Sao Biển, Lê xuân Phượng, Nguyễn
văn Hùng, Đỗ Hơn, Thái Tú Ḥa (em ruột anh Thái Tú
Hạp), Lê Ngọc Sỏ, Ngô Thi, Nguyễn Thang, Trần
văn Thân v.v.. và một vài người nữa. Thơ th́
chẳng ra tṛ trống ǵ, nhưng cà phê và thuốc lá hút
hơi nhiều. Chính cái chuyện thơ văn lẩm
cẩm nầy xẩy ra một vụ làm chấn
động giới học sinh Hội An hồi đó. Không
biết có ai thù ghét tố cáo là nhóm học sinh nầy
đang hoạt động cho Cộng Sản, khiến cho
ông Thiếu tá Nguyễn Văn Giai, Tiểu Khu Phó Nội An
làm một cuộc bố ráp bắt mấy ông thi sĩ
trẻ con nầy nhốt hết. (Thiếu tá Nguyễn
Văn Giai, sau nầy lên Chuẩn Tướng và Tư
Lệnh Sư Đoàn 3, bị ra Ṭa Án Binh v́ tội "Sư
Đoàn 3 chạy làng"). Thiệt t́nh th́ ông Giai cũng
biết thứ học tṛ nầy chỉ phá làng phá xóm cho
vui, làm thơ cua gái, chứ biết ǵ mà phe nầy phe
nọ. Nên ông ra lệnh nhốt đầu vài tuần cho
bỏ cái thói "thi sĩ dỏm", đánh cho mỗi ông
vài hèo rồi thả về đi học. Ông Giai có biết
rằng, mấy thằng nầy sau đều trở thành
sĩ quan quân đội Cộng Ḥa cả. Và cũng có
thằng trở thành thi sĩ thứ thiệt. Thời gian
đó, quê hương cũng c̣n thanh b́nh, tiếng súng
chỉ nổ những vùng thật xa trong rừng trong núi,
c̣n phần nhiều th́ làng mạc sống trong cảnh thái
b́nh. Tôi hay qua vùng Bàn Thạch (quê hương của các ông
bạn Vũ Đức Sao Biển, Lê Ngọc Sỏ và
Kiều Uyên của tôi), tôi chưa bao giờ thấy làng quê
nào đẹp như vậy. Nhà của Kiều Uyên phía sau
có một ḍng sông nhỏ, có chiếc cầu ván và vài cây
dừa thật nên thơ. Tôi thường ở lại
chơi cả mấy tháng hè. Đó là quê hương thật êm
ả và trù phú mà đă để lại trong tôi những
kỷ niệm thật đẹp. Đầu năm 1972, tôi có
dịp hành quân qua vùng Bàn Thạch. Từ trên trực
thăng nhảy xuống, tôi không thể nào tưởng
tượng được chỉ mới có mấy
năm, làng nầy biến thành một cảnh hoang tàn
đổ nát. Chợ Bàn Thạch bị xé đôi bởi
một ḍng sông mới, không h́nh dung nổi được
nơi đây đă từng là vùng sầm uất, là nơi
đầu mối buôn bán.
Phía sau nhà của Kiều Uyên có
một ḍng sông nhỏ chảy ṿng qua chợ Bàn Thạch.
Vào những buổi tối mùa hè tôi, Kiểu (Kiều Uyên)
và Sỏ, thỉnh thoảng có Hợi (Vũ Đức Sao Biển),
thường ngồi trên chiếc cầu ván phía sau nhà
Kiểu, ôm đàn hát nghêu ngao chơi. Phải công nhận
rằng Hợi lúc ấy hát thật hay. Mỗi lần
ở bên nầy ngồi trong bàn rượu, có ai đó hát
các ca khúc của Hợi như "Thu hát cho
người", "Hát trên đồi Tăng Nhơn
Phú" là tôi nhớ lại Hợi và các bạn tôi khi c̣n
ở Bàn Thạch. Sau năm 75, Hợi vẫn c̣n đi
dạy, nhưng v́ mức lương thầy giáo không
đủ sống, nên có viết cho một vài tờ báo
ở Sài G̣n. Tôi, Ngô Thi và Hợi thỉnh thoảng cũng
gặp nhau, rủ nhau đi uống vài ly bia hơi, hay dẫn
nhau qua quán cà phê gần chỗ tôi làm, ngồi tán gẫu.
Năm 1961, lúc đó tôi học
lớp đệ ngũ trường Tây Hồ. Trong
cuộc thi thơ của Ty Thông Tin Đà Nẵng, tôi
được giải nh́ (không có giải nhất). Hồi
đó thi ǵ cũng không có giải nhất để nói lên
rằng giải nhất không ai vói tới cả. Phần
thưởng chở về bằng xe xích lô, v́ đủ
thứ đồ lỉnh kỉnh mà Ty Thông Tin xin
được ở các hiệu buôn, bán ǵ họ cho thứ
đó. Chỉ có một thứ c̣n giữ được
cho tới bây giờ là tấm h́nh card postal của Photo
Huỳnh Sau chụp tặng. Photo Huỳnh Sau cho một cái
phiếu chụp h́nh không tính tiền để tặng
người trúng giải. Tiệm kem Diệp Hải Dung
tặng cho một phiếu ăn kem trị giá 10 ly kem ba
màu. Tôi dẫn đám bạn học cùng lớp vào ăn
"free". Tôi nhớ nhân viên của Ty Thông Tin bắt tôi
phải thắt cà vạt khi nhận giải thưởng.
Người trao giải cho tôi là Thi Sĩ Trần Gia
Thoại (cha của Sử gia Trần Gia Phụng đang
ở Canada). Ông thấy tôi nhỏ (mới 14 tuổi) nên ṿ
đầu tôi và lấy trong cặp của ông ra tặng tôi
một tập thơ của ông. Tôi c̣n nhớ tập
thơ in khổ lớn với lời đề tặng
trang trọng. Tôi giữ tập thơ nầy trong tủ
sách đến năm 1975. Chính Quyền mới vào tịch
thu tủ sách của tôi, trong đó có tập thơ nầy.
Điều ngạc nhiên của tôi lúc ấy là những
người lên lănh giải thưởng đều là
học sinh. Dĩ nhiên các anh đó đều học
lớp lớn hơn tôi, chững chạc hơn tôi (trong
số nầy có một người đang làm thơ
tại hải ngoại), chỉ có tôi là c̣n bé con. Tôi không
thấy người lớn nào dự thi hoặc nhận
giải thưởng lúc ấy. Như vậy đủ
biết trong thế hệ của tụi tôi (trên
dưới 10 tuổi), người làm thơ nhiều
nhất, họ là những người làm văn đàn
Miền Nam có những nét đặc thù và sung măn. Lực
lượng cầm bút đáng kể và hùng hậu nhất
cho đến bây giờ.
Ngày trước khi c̣n đi
học, tôi có quen với một người bạn gái
sống ở Hội An. Quê của cô bạn tôi ở Trà
Kiệu (một làng Công Giáo biệt lập ở Quận
Duy Xuyên). Khi quen tôi hứa rằng sẽ đến thăm
Trà Kiệu một lần cho biết, từ ngă ba Nam
Phước đi lên về phía tây khoảng 8 cây số.
Thế mà lúc đó, tôi không biết bận bịu thứ ǵ
mà hứa măi với cô bạn, tôi vẫn chưa bao giờ
đặt chân đến Xứ Đạo nên thơ đó.
Một lần khi c̣n trong Quân Đội, đơn vị tôi có
cuộc hành quân trên đoạn đường từ
Quận lỵ Duy Xuyên lên Trà Kiệu, thế nhưng khi
đơn vị tiến đến chỉ c̣n cách Trà
Kiệu một cây số th́ được lệnh rút quân.
Thế là măi măi đến sau nầy tôi chưa bao giờ
đặt chân đến Trà Kiệu, mặc dù chung quanh Trà
Kiệu đơn vị của tôi đă dẫm nát gót
giầy. Trong Chiến Tranh, Trà Kiệu là một nơi yên
ổn và an ninh nhất, trong lúc đó các làng chung quanh đă
bị quân Giải Phóng chiếm hết, kể cả
văn Pḥng Quận Duy Xuyên cũng thường bị
tấn công, cũng thường bị chiếm. Các viên
chức trong Quận, buổi tối thường
đến Trà Kiệu ngủ nhờ v́ đó là nơi an
toàn nhất trong quận. Các giáo dân thay phiên nhau canh gác
cẩn mật. Từ khi cô bạn gái đi lấy
chồng là tôi không c̣n hứng thú đặt chân đến
Trà Kiệu. Cho đến sau nầy tôi vẫn chưa
biết Trà Kiệu ra sao, nhà thờ Núi nổi tiếng
đẹp tôi vẫn chưa được nh́n thấy.
Sau nầy tôi sinh sống tại
Sài G̣n, v́ sinh kế tôi ít có dịp về lại Đà Nẵng.
Mỗi khi trở về tôi lại nghe tin người
nầy, người kia về sự thay đổi ḷng
dạ một cách sống sượng - khi đất
nước thay ngôi đổi chủ - (dĩ nhiên những
người nầy không xa lạ ǵ với tôi). Tôi lại
đau khổ và chán nản, cho nên tôi ít muốn về
để nh́n những khuôn mặt thân thuộc tự nhiên
trở thành xa lạ. Ai cũng có quyền chọn lựa
đường lối chính trị của ḿnh, thà rằng
ḿnh theo bên kia, hoặc bên nầy một cách dứt khoát, th́
chẳng nói làm ǵ. Đằng nầy có những kẻ chạy
theo ăn có, gió thổi chiều nào, phất cờ theo
chiều đó mới gọi là thức thời. Quan
niệm sống như vậy đủ làm cho người
khác thấy ghê tởm, thế nhưng lại có kẻ
hợm hĩnh, vênh váo, trong lúc bạn bè thân thuộc đang
dở sống dở chết, th́ họ lại phây phây.
Những kẻ trở cờ nhanh chóng như vậy, làm cho
ḿnh đâm ra sợ hăi cho t́nh đời, và rất ngán
ngẩm cho cuộc sống. Những kẻ chẳng
biết thế nào là lư tưởng, chỉ biết
quyền lợi là họ làm bất cứ chuyện ǵ,
kể chi tới liêm sỉ hay đạo đức. Trong
số nầy cũng có bạn bè thân thuộc của tôi.
Chính v́ lư do đó, tôi ít muốn trở về lại quê
cũ. Tôi biết điều của tôi nghĩ hoàn toàn sai
lầm, nhưng sao tôi vẫn không chịu được,
nh́n thấy sự thật bẽ bàng mà bạn bè tôi,
người thân tôi đang gánh chịu. Bây giờ ở bên
nầy muốn về thăm lại, th́ thấy muôn ngàn
cách trở.
Mỗi năm, những bạn bè
cùng học một lớp với tôi ngày xưa,
thường tổ chức một bữa tiệc tất
niên tại hai nơi Sài G̣n và Đà Nẵng. Thỉnh thoảng
có các thầy cũ của chúng tôi tham dự. Tôi ao
ước sẽ có dịp về giữa lúc đó,
để nh́n thấy các bạn tôi ngày xưa, bây giờ
đă trở thành ông nội, bà ngoại. Được kêu tên,
được gọi với nhau mấy tiếng
"mầy, tau", để các con, các cháu chúng tôi
đứng trố mắt ngạc nhiên cho sự xưng hô
"trẻ trung" như vậy. Được đi trên
những con đường mà ngày xưa chúng tôi
thường đi lại nhiều lần, được
ngồi trên ghế đá bờ sông Hàn ban đêm, để
thấy mấy cô bán chè nhịp nhàng đ̣n gánh trên vai.
Nơi đó, không có tiện nghi, không có vật chất
đầy đủ như tôi đang sống ở
đây, nhưng tôi vẫn thích, vẫn quư mến.
Cách đây vài hôm, phóng viên của
tờ "The Boston Globe" có đến phỏng vấn
tôi về việc "Những suy nghĩ của
người cầm bút hải ngoại". Một
điều mà tôi đă lặp đi lặp lại măi trong
ba giờ đồng hồ phỏng vấn là khắc
khoải của tôi, lo lắng của tôi và suy nghĩ
của tôi về quê hương Việt Nam, đă chiếm
hầu hết thời gian trong đời sống hằng
ngày của tôi. Tôi kể lại một mẩu chuyện mà
trước đây tôi gặp phải. Năm 1972, tôi đi
hành quân Diều Hâu bằng trực thăng tại vùng Phù
Kỳ. Khi máy bay chở chúng tôi trở về, tôi trông
thấy một mái nhà tranh chơ vơ giữa đồng
không mông quạnh, giữa vùng oanh kích tự do. Tôi liên
lạc với cấp chỉ huy cho trung đội tôi
được đổ xuống nơi ấy để
xem có ai sinh sống tại đó không ? Khi tôi vào trong nhà, tôi
thấy có vợ chồng hai ông bà cụ. Tôi mang họ lên
máy baỵ đem họ về ở tại trại
định cư, nơi đó Chính Phủ cất nhà
sẵn, đầy đủ phương tiện sinh
sống tối thiểu, và được cấp phát
lương thực, để tránh khỏi vùng lửa
đạn. Để ông bà cụ không c̣n đường
trở về, tôi bèn phá hủy căn nhà tranh ấy.
Thế mà hai tuần sau, tôi có dịp hành quân bằng
trực thăng đi ngang qua chỗ đó. Tôi nh́n thấy
trên nền nhà mà tôi phá hủy, đă mọc lên một
ngôi nhà tranh mới. Bao nhiêu năm tôi suy nghĩ măi về
chuyện nầy, cho đến khi tôi qua được
tới Mỹ nhiều đêm nằm trăn trở,
nhớ nhà, nhớ quê. Bỗng dưng, tôi mới hiểu
được tâm trạng của ông bà cụ. Họ không
dễ ǵ dứt khoát ra khỏi nơi chôn nhau cắt
rốn, không dễ ǵ bứng họ ra khỏi mảnh
đất hương hỏa của ông bà. Có chết, th́
cũng chết trên nền nhà cũ, máu của họ thấm
xuống cây cỏ trong vườn. Cái quan niệm chơn
chất đơn giản ấy, quả thật có một
cái ǵ đó rất siêu h́nh mà người Mỹ không thể
nào hiểu được. Tâm trạng của tôi cũng
gần giống như vậy. Sống ở đây
nhưng bao giờ tôi cũng nghĩ về quê hương,
nhớ nhà, nhớ bạn bè thân thuộc, nhớ từng
góc phố con đường v.v.. nơi chốn đó,
đă sinh tôi ra, đùm bọc tôi, nuôi tôi lớn khôn. Khó có
thể quên được những ân t́nh mà quê hương
tôi đă trọn vẹn dành cho tôi, cưu mang tôi trong
suốt quảng đời khó khăn nhất. Tôi mong
rằng bà con bên quê nhà được sống trong an b́nh,
đứng thẳng người không chịu luồn cúi
dưới bất cứ thế lực nào, nhận lănh
những ân sủng của thượng đế ban cho
trong công bằng, bác ái. Niềm tin đó luôn luôn cháy trong
người tôi một cách mănh liệt và dữ dội.
PHAN XUÂN SANH
(Sưu Tầm Liên
Mạng chuyển)