ĐỌC MỘT
CUỐN SÁCH .. (*) HỌC MỘT CUỘC CHIẾN !
(Phan Nhật Nam)
Năm 2005 vừa qua, sách "Khi
Đồng Minh Tháo Chạy" của tác giả Nguyễn
Tiến Hưng đă đạt tới số bán kỷ
lục trong một thời gian dài (kéo dài suốt hơn
nửa năm 2005) do đă được phát hành đúng
thời điểm 30 năm mất Miền Nam (30 tháng
Tư, 1975-2005), và được đánh giá là đáp
ứng thích đáng đối với câu hỏi (từ
Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại
nói riêng, của người Việt nói chung) luôn cần
được trả lời, giải thích: Tại sao
Miền Nam đă sụp đổ nhanh chóng đến
như vậy ?
Riêng với chúng tôi, tập
thể những người lính, công nhân, viên chức Chính
Phủ Việt Nam Cộng Ḥa (1955-1975) và gia đ́nh là
những đối tượng chịu tác động
trực tiếp, trước nhất của giai
đoạn kể trên trong suốt thời gian dài kể
từ đầu thập niên 1960 (khi chính quyền, quân
đội Mỹ bắt đầu tham dự trực
tiếp vào t́nh thế Miền Nam), mà hội chứng
khắc nghiệt đến nay vẫn c̣n di hại, tác
động .. Khi Đồng Minh Tháo Chạy (cùng với The
Palace Files của chung tác giả) quả thật chưa là
trả lời đầy đủ cho câu hỏi
(đơn giản nhưng cực độ khắc
nghiệt, cuối cùng nêu trên), dẫu tác giả thủ
đắc sở học chuyên môn cao, đă nắm giữ
những tư liệu tối mật (trong bang giao
Việt-Mỹ) qua những chức vụ quan trọng trong
chính quyền VNCH vào thời điểm quyết
định trước 1975. Vẫn có một
điều ǵ chưa được nói hết.
Nay, Việt Nam Cộng Ḥa 10 Ngày
Cuối Cùng của Trần Đông Phong cũng
được đọc với tính cách, thái độ t́m
hiểu cẩn trọng tương tự -Bởi Lịch
Sử luôn cần được giải thích chính xác và
trung trực- Do đă là một hoàn tất không thể
sửa đổi, điều chỉnh mà Nỗi Đau
1975 không là của riêng ai. Hơn thế nữa, Trần
Đông Phong đă viết nên cuốn sách với Tấm Ḷng
Người Lính QLVNCH như lời đề tặng chân
thành của ông nơi trang đầu, dẫu ông chỉ là
người hoạt động nơi những
"mặt trận im lặng", ở hậu
trường chính trị Miền Nam.
Dù nhan đề chỉ giới
hạn trong "Mười Ngày Cuối Cùng", nhưng
cuốn sách chứa đựng nhiều dữ kiện,
nguồn tài liệu, những mưu định, ẩn
số chính trị, ngoại giao, quân sự chồng chéo, tác
động hỗ tương -Điều nầy là nguyên
do gây nên hậu quả kia. Hoặc chính nó là hệ quả
của những nguyên nhân sẵn có từ trước, và
tiếp tục tác động theo một chu kỳ mới
với đối tượng mới- Có khả năng
giải thích đủ và đúng cuộc chiến Việt
Nam mà đến bây giờ vẫn là một vấn nạn
chưa thể có trả lời chung nhất đối
với tất cả các phe lâm chiến. Nhưng bởi yêu cầu
của bài viết (với mục tiêu là "những
vấn đề quân sự"); từ quan điểm
của một quân nhân, chúng tôi buộc phải giới
hạn nội dung tŕnh bày chỉ căn cứ trên những
sự kiện, biến cố quân sự có liên quan trực
tiếp đến vận mệnh của Miền Nam,
cả Việt Nam qua chọn lựa cẩn trọng
bắt buộc người lính phải áp dụng như
trong buổi hành quân -Huống ǵ đây là cuộc hành quân
chung kết của "10 Ngày Cuối Cùng"
Trần Đông Phong đưa
chúng ta đi xa hơn biến cố Tháng Tư 1975,
đến tận nguồn khởi đầu bi kịch
Miền Nam, với những vận động chính trị
ở những nơi ngoài lănh thổ VNCH nhưng gây nên
những hệ quả quân sự quân sự tại Việt
Nam .. Bắt đầu từ Washington vào mùa thu năm 1974,
từ Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1974, tại Hà
Nội và tại Sài G̣n cũng vào tháng 12 cùng năm. Và
cuối cùng, xa hơn nữa là từ Bắc Kinh vào năm
1971 .. Những sự kiện thoạt đầu kể
như chẳng có dính dáng ǵ đến Việt Nam mà chỉ
có liên hệ đến người Nga gốc Do Thái,
nhưng thật sự liên quan trực tiếp với sinh
mệnh của toàn dân tộc Việt chứ không riêng
đối với Miền Nam. Cuốn sách cũng
đưa chúng ta vào thời điểm cuối cùng của
Miền Nam.
Tại Sài G̣n, từ những ngày
đầu tháng 4, 1975 Cựu Bộ Trưởng Thông Tin
Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhă nay giữ chức vụ
cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam
Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu đă có mặt tại
Singapore theo lời mời của Thủ Tướng Lư
Quang Diệu. Cá nhân cố vấn Nhă rất ái mộ nhà lănh
đạo họ Lư bởi vị nầy đă thành công
trong quá tŕnh cai trị (dẫu bị phê phán là độc
tài, độc đảng theo thói tục của chính
giới Tây Phương) bằng việc thực hiện
cho người dân Singapore những điều mà chế
độ cộng sản hứa hẹn "sẽ có
nơi địa đàng trần thế". Thủ
Tướng Lư vào thẳng vấn đề:
"Đừng để mất th́ giờ vô ích, tôi
mời ông tới đây bởi kết thúc (ở Việt
Nam) sắp xẩy đến. Rockefeller vừa hỏi ư
kiến tôi cũng như những vị lănh đạo Á
Châu khác, liệu chúng ta có cách ǵ để đưa ông
Thiệu ra đi hay không."
Hóa ra chuyến viếng thăm
không chính thức các nước Đông Nam Á của Phó
Tổng Thống Mỹ Rockefeller nhân dịp viếng lễ
tang người lănh đạo cuối cùng của thế
hệ Thế Chiến thứ Hai, Thống Chế
Tưởng Giới Thạch vừa qua (5 tháng 4) là
để thông báo điều: "Đă đến lúc
chính phủ Mỹ cần thay người cầm quyền
ở Nam Việt Nam". Thủ Tướng Lư không nói
thêm điều ǵ khác -việc "ai" sẽ thay thế
ông Thiệu là vấn đề của Sài G̣n với
những người như Đại Tướng Minh,
Khiêm, hoặc Cựu Phó Tổng Thống Kỳ .. Ông
chỉ thúc giục cố vấn Nhă: "Hăy khẩn báo cho
ông anh của ông như thế mà thôi. Riêng ông nên ở
lại đây. Đừng về lại Sài G̣n, tôi sẽ lo
liệu cho gia đ́nh ông ra khỏi nước.
Người Mỹ cũng đă xếp đặt sẵn
một nơi cho ông Thiệu lưu trú". Không biết
cuộc mạn đàm đă được thâu băng,
cũng như nơi Dinh Độc Lập máy ghi âm mật
(do văn pḥng CIA Sàig̣n gài) luôn hoạt động, Nhă thông
báo liền cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin
chẳng mấy phấn khởi nầy; một phần ông
cố vấn cũng đă hiểu ra thực tế:
"giới quân nhân, những tư lệnh chiến
trường đă không c̣n tin tưởng nơi ông
tổng thống vốn xuất thân từ quân đội
nầy nữa." Lời thông báo của Phó Tổng
Thống Rockefeller không là ư kiến riêng của người
lănh đạo ở Ṭa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh
thực tế về quyết định của giới
lănh đạo Mỹ đối với t́nh thế chính
trị chung cho toàn vùng Đông- Nam Á.
Ngày 12 tháng 4 Nam Vang thất
thủ, người lănh đạo Sirik Matak cùng tất
cả bộ trưởng của chính phủ Long Boret
(chỉ trừ một người) là những nạn nhân
đầu tiên của cách hành h́nh man rợ hơn cả
thời trung cổ do đám đao phủ Kmer Đỏ
hành quyết. Họ không chết do bất ngờ, v́ không
lường được tính ác ghê rợn của lực
lượng cộng sản Khmer mà hơn ai hết, vị
cố vấn chính trị của tổng thống Campuchia
đă có lá thư tuyệt mệnh gởi đến
Đại Sứ Dean John của Hoa Kỳ với lời
lẽ khẳng quyết bi tráng như sau: "Kính gởi
Ngài Đại Sứ và các Bạn .. Tôi chân thành cảm
ơn lá thư ngài chuyển tới với đề
nghị giúp tôi phương tiện đi đến vùng
tự do .. Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ
đi một cách hèn hạ như thế được ..
Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất
nước Hoa Kỳ có được nhiều
điều hạnh phúc dưới cơi trời nầy.
Nếu tôi có phải chết th́ cũng chết trên
đất nước mà tôi vô cùng yêu quư dẫu cho
đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai
chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ
phạm một lỗi lầm là đă tin vào ngài và tin vào
những người Bạn Mỹ". Lời báo
động của người thân cận Hoàng Đức
Nhă cùng t́nh thế bi thảm của Campuchia, lẫn thực
tế tuyệt vọng của miền Nam khi pḥng tuyến
Phan Rang (mà cũng không bao giờ đă là một tuyến
pḥng thủ vững chắc được bởi
đấy là một vùng đất có thể tiếp
cận đến bởi bất cứ hướng
tiến quân nào, kể cả h́nh thái bao vây, chia cắt)
bị tan vỡ buộc Tổng Thống Thiệu phải
hiểu ra rằng: Những lá thư bảo đảm
của Tổng Thống Nixon với những lời
trịnh trọng .."Tự do và độc lập
của Việt Nam Cộng Ḥa luôn là mục tiêu tối
thượng của chính sách đối ngoại của
nước Mỹ. Tôi hằng dốc sức thực
hiện mục ấy suốt cuộc đời chính
trị của bản thân" đă không c̣n mảy may có giá
trị, v́ người viết như gịng chữ (cho là
thực tâm kia) đă đi ra khỏi Ṭa Bạch Ốc
với t́nh cảnh của kẻ "phạm tội"
sau vụ Watergate. Người thay thế ông, tổng
thống không do dân cử, Henry Ford lại bị trói
buộc toàn diện bởi Nghị Quyết Xử Dụng
Vũ Lực Chiến Tranh đă được quốc
hội phê chuẩn từ tháng 11, 1973, cho dù Tổng
Thống Nixon đă dùng quyền phủ quyết bác bỏ.
Nghị quyết nầy thật
sự là phần hiện thực hiến định
của đạo luật cắt bỏ quỹ
"Hoạt động tác chiến" vốn được
dùng để yểm trợ cho chiến cuộc Đông
Dương -Tất cả điều khoản, đạo
luật nầy đă được lưỡng viện
Quốc Hội Mỹ phê chuẩn thi hành sau khi kư Hiệp
Định Paris (27 tháng 1, 1973) và Thông Cáo Chung của Kissinger
cùng Lê Đức Thọ, ngày 13 tháng 7 cùng năm để
"thúc đẩy các bên kư kết thi hành hiệp
định "Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam
(sic)."
Người gọi là Tổng
Thống Việt Nam Cộng Ḥa, tên Nguyễn Văn
Thiệu, nhất quyết không để thân phận ḿnh
kết thúc tang thương oan khốc như t́nh cảnh
của Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, cũng
không muốn "hiển thánh vị quốc vong thân" trước
ṇng súng của binh đội cộng sản. Ông dư
biết "những kẻ thù chính trị -thật sự
chỉ do xung đột quyền lực- chứ chung
một chiều hướng chính trị cầu lợi"
sẽ không để cho ông yên thân; ông lại càng ngao ngán
t́nh đời v́ Cựu Phó Tổng Thống Kỳ đă
xuất hiện lại với một khẩu P38 cặp kè
bên hông hiện thực lời răn đe "phải làm
một cái ǵ .. và Sài G̣n sẽ là một Stalingrad" như
trong lần nói chuyện ở Trường Chỉ Huy Tham
Mưu tại căn cứ Long B́nh.
Nhưng cốt yếu đối
với người "bạn Mỹ", người
bạn mà vị chính khách Campuchia Sirik Matak bên nước
láng giềng kia đă phẫn uất kêu lên lời tán thán
-Nguyễn Văn Thiệu phải ra tay trước-
Vất bỏ gánh nặng mà ông cho là "vô lư" với
luận cứ: "Người Mỹ đ̣i hỏi chúng
ta làm một việc bất khả thể. Tôi đă
từng nói với họ: Các ông đ̣i chúng tôi làm một
việc mà các ông không làm nổi với nửa triệu quân
hùng mạnh, với những viên chỉ huy tài giỏi, và
tiêu hơn 300 tỷ (Mỹ-kim) trong hơn sáu năm .. Rồi
bây giờ tương tự như các ông chỉ cho tôi 3
đồng, bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất, thuê pḥng
khách sạn 30 đồng một ngày, ăn bốn, năm
miếng bíp-tếch, uống bảy, tám ly rượu vang
mỗi ngày. Đấy là một chuyện hết sứ vô
lư."
Sau khi so sánh cuộc chiến
đấu của một dân tộc với cách thức
đi ăn tiệc với giá biểu "kỳ
cục" kể trên, ông cao giọng tố cáo người
bạn quư không e dè: ".. các ông để mặc chiến
sĩ chúng tôi chết dưới mưa đạn pháo.
Đấy là một hành động bất nhân của
một đồng minh nhân." Ông chát chúa lập lại:
"Từ chối giúp một đồng minh và bỏ
mặc họ là một hành vi bất nhân." Những
giới chức cao cấp của Ṭa Đại Sứ
Mỹ ở đường Thống Nhất (đối
diện với Dinh Độc Lập, nơi ông tổng
thống đang nói cho buổi truyền h́nh trực
tiếp) theo dơi đủ nội dung của bài nói
chuyện với những lời lẽ nặng nề
như trên -Bài nói chuyện của một người
đang cơn nóng giận chứ không phải ngôn ngữ
ngoại giao của một vị nguyên thủ quốc gia,
một chính khách lănh đạo. Tuy nhiên, người Mỹ
luôn là một người "bạn tốt". Họ
đă chuẩn bị cho ông một nơi an toàn và cách ra
đi kín đáo (cũng không thể kín đáo hơn), thích
hợp với "danh dự của một vị nguyên
thủ" v́ dù ǵ ông cũng đă giúp họ cởi bỏ
gánh nặng chiến tranh qua lần rút quân có vẻ "coi
được" ra khỏi Việt Nam theo điều khoản
Hiệp Định Paris sáu-mươi ngày sau 27 tháng 1, 1973.
Đồng minh không hề tháo chạy như cách nói của
Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng.
Ngày 21/4/75, ông Nguyễn Văn
Thiệu ra đi sau một màn bàn giao chức vụ
tổng thống đến Phó Tổng Thống Trần
Văn Hương với bài diễn văn đầy
kịch tính như vừa kể trên. Số phận của
một quốc gia gọi là Việt Nam Cộng Ḥa c̣n
lại Mười Ngày -Không phải "Mười Ngày
Rung Chuyển Thế Giới" của John Reed viết
về Cách Mạng 1917 của Nga- Nhưng mười ngày
để chờ đợi cái chết ắt đến
cùng lần thật chết quê hương -Cái chết
chậm, chắc chắn ngấm vào từng phần thân
thể, xuyên suốt trong ḷng như một thứ chất
độc cực mạnh như lời từ chối bi
tráng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Trần
Văn Hương "Kẻ Sĩ Cuối Cùng của
Miền Nam"- (Cũng của một thời đại
hư hoại toàn thế giới theo cách gọi của
Trần Đông Phong khi viết về Người) khi
Đại Sứ Mỹ ngỏ lời đưa cụ ra
khỏi nước, buổi chiều ngày 29 tháng 4 khi Sài G̣n
đang vỡ bùng giữa tiếng nổ của
đại pháo và động cơ những đoàn trực
thăng di tản, máy bay vơ trang yểm trợ bảo vệ
.. "Thưa Ngài Đại Sứ, tôi biết t́nh
trạng hiện nay rất là nguy hiểm .. Nay ông
đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất
cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đă suy nghĩ
kỹ và quyết định dứt khoát ở lại
nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng
sản vào được Sài G̣n, bao nhiêu đau khổ
nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng Miền
Nam. Tôi là người lănh đạo đứng hàng
đầu của họ, tôi t́nh nguyện chia xẻ
với họ một phần nào niềm đau đớn
tủi nhục, nỗi thống khổ của
người dân mất nước."
Nhưng không chỉ một ḿnh Con
Người Cao Thượng Trần Văn Hương,
cũng không phải là người lính nơi trận
địa tàn cuộc nơi Cầu Xa Lộ, ở Ngă
Tư Bảy Hiền .. Mà là hằng loạt tướng
lănh giữ chức tư lệnh đại đơn
vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp: Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn
Tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên
Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn
Hữu Thông, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long ..
Người không chỉ chết một ḿnh, mà với toàn
gia đ́nh cùng một lần quyết tử -Chị
Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân chết
với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô
quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh,
bào huynh của gia đ́nh niên trưởng Hà Thượng
Nhân (Trung Tá Phạm Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền
Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế
hệ: ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân
Lục Chiến của Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu
Tùng đồng tự sát nơi Băi Mỹ Khê, Đà Nẵng
cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của
Huỳnh Văn Thái cùng nổ chung một lần lựu
đạn; những sinh viên sĩ quan hai khóa cuối cùng
Trường Vơ Bị Quốc Gia vào trận địa
với mũ đại lễ mang từ Đà Lạt
xuống c̣n đeo trên ba lô; những em nhỏ tuổi 12, 14
của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu .. Tất
cả cùng chung lần hiến tế khi Tổ Quốc Lâm
Tử sáng 30 tháng Tư, 1975 .. Ánh chớp thanh quang của
anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đă rung
mờ nhật nguyệt, hiện thực lần Núi Sông cùng
khóc với Con Người. Và Người cùng một
lần sống măi với Quê Hương.
Thượng đế ban cho con
người Sự Sống nhưng Người quyết
định lần chết cho chính bản thân. Người
trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá
vinh diệu. Người Việt Nam -Những Con
Người ở Miền Nam đă hiện thực
điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt
đêm đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa
vũng lửa chiến tranh, sau lần sụp vỡ 30/4
trên đại dương, sâu rừng già ba nước
Đông Dương trên đường vượt biên xuyên
suốt hai thập niên 70-80 .. Mà cũng là toàn dân tộc
đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như
một sự cùng đành.
Chúng tôi không nói điều tán
tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội
dung. Chúng tôi xác tín với giá máu của mỗi người
anh em đă, đang hằng hằng lâu dài gánh chịu
tại hôm nay, khi đọc cuốn sách VIỆT NAM CỘNG
H̉A 10 NGÀY CUỐI CÙNG với Cơn Hấp Hối kéo dài 31
năm chưa có dấu hiệu chấm dứt. Và lời
cuối cùng -Cám ơn Người Bạn Trần Đông
Phong đă cho chúng ta biết một lần tương
đối đầy đủ: Hóa ra làm Người
Việt Nam là phải chịu những đau thương
uất hận như thế.
Ngày Vỡ Mặt
Trận Xuân Lộc-Long Khánh
Ba-mươi mốt
năm sau
(22/4/1975-2006)
PHAN NHẬT NAM
(*) Trần Đông Phong, Việt
Nam Cộng Ḥa 10 Ngày Cuối Cùng; NXB Nam Việt, CA - USA 2006)
(Sưu Tầm Liên
Mạng chuyển)