NHỮNG NGƯỜI
ĐI T̀M TỔ QUỐC
(Trần Trung
Đạo)
(Cảm nghĩ
chung sau khi đọc các nhật kư của Nguyễn Văn
Thạc, Đặng Thùy Trâm, Trần Vàng Sao và Tiêu Dao
Bảo Cự)
Yêu nước. Tổ quốc.
Dạo này, mỗi khi nghe ai nhắc hay tự ḿnh nghĩ
đến hai chữ này, tôi cảm thấy lo lắng
hơn là rung động. Lư do cũng dễ hiểu.
Mấy tháng qua tôi đọc khá nhiều nhật kư có
kết cục quá buồn, nào là hai cái chết thảm
thương của anh Nguyễn Văn Thạc, chị
Đặng Thùy Trâm, nào là cảnh sống trong trù dập
đọa đày như anh Trần Vàng Sao, anh Tiêu Dao
Bảo Cự. Tất cả cũng tại ḷng yêu
nước cuồng nhiệt mà ra.
Tôi đọc nhật kư của
anh Nguyễn Văn Thạc trên chuyến bay từ California
về lại Boston. Nhật kư dày 296 trang, tính cả
phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2
tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến
trang cuối cùng ở Ngă Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6
năm 1972. Ngồi nh́n những cụm mây bay bên ngoài ô
cửa nhỏ không thể không liên tưởng đến
số phận của tuổi trẻ Việt Nam trong
cuộc chiến. Quăng đời anh Thạc quá ngắn và
chấm dứt một cách oan uổng. Anh đặt tên
nhật kư là "Chuyện đời" nhưng
được thay bằng "Măi măi tuổi hai
mươi".
Khi chết anh Nguyễn Văn
Thạc chưa tṛn hai mươi tuổi. Không giống
như chị Thùy Trâm, anh Thạc viết nhật kư như
anh thú nhận "ước mơ thầm kín" của
anh là trở thành nhà văn. Cũng v́ tập làm nhà văn
nên văn trong nhật kư của anh không có được
nét hồn nhiên như của chị Thùy Trâm. Anh tả
cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971
anh tả trong nhật kư: "Cơn gió thổi từ phía
đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù
thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường .. Con
trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những ṿng
sóng h́nh tṛn tỏa rộng chung quanh .. Sự sống
hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà
chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt
nắng h́nh quả trứng lăn nghiêng"; hay ngày 4 tháng
2 năm 1972, thay v́ ghi lại những ǵ xảy ra trong ngày,
anh tả một cơn gió mùa: "Cả rừng bạch
đàn vặn ḿnh. Những cây bạch đàn thân nâu lốm
đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon
dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những
mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần
phật những tấm tăng đă cũ. Gió reo vù vù
.." Đại loại là như thế.
Ngoại trừ t́nh yêu say
đắm dành cho chị Như Anh, anh Thạc là sản
phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xă hội
chủ nghĩa tại Việt Nam. Anh không có dịp đi
Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà
Nội, học tập lư luận chính trị từ các bài
diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn
Đồng, đọc truyện dịch của các tác
giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm
Tiến Duật, ngoài ra không có một nguồn tư
liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một
phần cũng v́ ở tuổi của anh sự gần
gũi và va chạm với xă hội c̣n khá ít.
Thần tượng tuổi
trẻ của anh là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đă
tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng
Paven ! Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần
tượng Paven của anh: "Dạo ấy Paven mới
24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đă sống say
sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên
lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn
Buđionni anh đă đi khắp miền đất
nước. Cuộc sống của anh là một ḍng mùa xuân
bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc
sống của người Đảng viên trẻ
tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ
Hồng quân. Ḿnh thèm khát được sống như
thế. Sống trọn vẹn đời ḿnh cho
Đảng, cho giai cấp."
Ước mơ của chàng thanh
niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là
được sống như Paven. Chẳng lẽ anh không
biết một số rất lớn anh hùng dân tộc
Việt Nam, đă sống, chiến đấu và hy sinh cho
độc lập tự do của đất nước
trong khi c̣n rất trẻ và đời họ là những
bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh
chàng thanh niên Ukraine kia hay sao ? Là sinh viên Đại học
Tổng hợp Hà Nội và đă từng là học sinh
giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết
Trần Quốc Toản, Cao Thắng, Phạm Hồng Thái
v.v.. là ai, rất tiếc anh
không được uốn nắn để sống theo
những tấm gương trung liệt đó.
Trong mùa hè đỏ lửa năm
1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải
bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà
Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực
chung quanh Cổ thành Quảng Trị đă trở thành
những băi chiến kinh hồn, nhưng trong nhật kư ngày
4 tháng 4 năm 1972, anh hănh diện chép lại bản tin
của đài phát thanh Hà Nội: "Đài phát thanh
truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của
tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế
ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đă diệt
5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy
- Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đă phải mở
thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến
thắng của miền Nam anh hùng." Anh tin một cách
chân thành rằng những tin tức đó là thật.
Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản
tin chiến sự của đài Hà Nội trong suốt
cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất
nhân mạng của quân đội miền Nam ít nhất
cũng bằng nửa dân số miền Nam.
Lớn lên trong một gia đ́nh
nghèo khó, đông con và một xă hội cách ly về mặt
thông tin với thế giới bên ngoài, những hiểu
biết của anh v́ thế không những chỉ là một
chiều mà c̣n bị đóng khung trong những bức
tường, những giới hạn và khái niệm anh
phải thuộc nằm ḷng khi cần th́ đem ra áp
dụng. Trong nhật kư ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi nghĩ
về tương lai ḿnh, anh trích ngay câu nói của Lê
Duẩn thay cho câu giải đáp: "Thanh niên hăy lấy
sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh
phúc cao cả nhất của đời ḿnh, đừng
để cho t́nh cảm cách mạng nguội lạnh v́
những tính toán được mất cho cá nhân." Và
như thế anh yên tâm đi tiếp và không cần phải
thắc mắc ǵ thêm.
Anh Thạc có yêu nước không ?
Tôi tin là có. Nhưng t́nh yêu nước của anh không phát
xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi
mà được dạy để yêu nước theo
quan điểm giai cấp. Anh viết trong bài thi học
sinh giỏi văn miền Bắc, in trong phần cuối
của nhật kư: "Được mang ng̣i bút của
ḿnh phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục
lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ
thuật hiện thực xă hội chủ nghĩa, đă
tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân
tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng
đường lối văn nghệ, chính trị của
Đảng". Thật giống hệt như nội dung
các đề cương văn hóa của Đảng. Anh
Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói
chi đến mâu thuẫn, giữa Tổ quốc và
Đảng, giữa ư thức dân tộc nhân bản và
chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị.
Đọc bài văn đoạt giải nhất này
để thấy bộ máy tuyên truyền của
Đảng không những có khả năng điều
khiển hành động mà c̣n có thể sai khiến cả
nhận thức của anh. Trong nhật kư ngày 15 tháng 11
năm 1971 anh viết: "Thằng Mỹ, nó thế nào ?
Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất
của ta - cái day dứt nhất trong ta là khi nào
được vào miền Nam, vào Huế, Sài G̣n - xọc lê
vào thỏi tim đen thủi của quân thù". Anh không
biết "Thằng Mỹ, nó thế nào" và vẫn
muốn "xọc lê vào thỏi tim đen thủi"
của nó. Khủng khiếp thật.
Dù sao, với tuổi 19, 20, anh
Thạc chẳng có lỗi ǵ. Tiếng hót của anh, dù hay
dù dở, cũng chỉ là tiếng hót của một con
chim công nghiệp như hàng ngàn, hàng vạn con chim công
nghiệp được Đảng tập luyện
từ khi vừa đạp vỏ trứng bước ra.
Nền giáo dục Cộng sản ở xứ nào cũng
vậy. Mức độ tuy có khác nhau đôi chút nhưng
mục đích vẫn giống nhau. Đọc câu chuyện
Bắc Hàn sau đây chúng ta sẽ thông cảm tại sao anh
thích thành Paven hơn mơ làm Trần Quốc Toản. Tháng
4 năm 2003, một chiếc xe lửa ở Bắc Hàn không
may chạy trật đường rầy và đụng
vào một ṭa nhà lớn, cả xe lửa lẫn ṭa nhà
đều bốc cháy, hàng trăm khách trong xe, người
trong ṭa nhà vừa chết vừa bị thương, kêu la,
rên rỉ. Thế nhưng khi những người dân
Bắc Hàn ở chung quanh tới cứu, họ đă
cố t́m cách dập tắt ngọn lửa đang
đốt cháy tấm chân dung lớn của Kim Chính
Nhật treo trên toà nhà trước khi cứu chữa những
người bị thương đang thoi thóp trong xe hay
sắp chết cháy trong nhà. Câu chuyện này cũng
được b́nh luận trên tạp chí uy tín nhất nh́
thế giới, The Economist số tháng Chạp năm 2004
chứ không phải là sản phẩm tưởng
tượng của CIA hay một tổ chức chống Cộng
nào.
Đọc câu chuyện trên
hẳn chúng ta không khỏi tự hỏi nếu
định nghĩa con người là sinh vật biết
suy nghĩ, th́ con người ở Bắc Hàn có c̣n nên
gọi là người hay không ? Họ có chút ǵ gọi là
tư duy độc lập không ? Độc giả
miền Bắc đọc đoạn văn trên chắc
không khỏi hú hồn. Hăy thử tưởng tượng,
nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 và miền Bắc
vẫn tiếp tục sống dưới chế
độ vô sản chuyên chính th́ đời sống và tŕnh
độ nhận thức của người dân miền
Bắc ngày nay sẽ khác bao nhiêu so với những
người dân Bắc Hàn đáng thương kia ?
Trang nhật kư cuối cùng ghi ngày
25 tháng 5 năm 1972: "Kẻ thù không cho tôi ở lại -
Phải đi - Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật kư
này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ
viết nốt những ǵ lớn lao mà tôi đă trải qua
từ khi xa nó, xa cuốn Nhật kư thân yêu đầu tiên
của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở
lại - Ai sẽ thay tôi viết tiếp những ḍng này ?
Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang
giấy c̣n lại đằng sau sẽ toàn là những ḍng
vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống
trải và bí ẩn như những trang giấy này."
Anh đă không trở lại và
những trang giấy c̣n lại của cuốn nhật kư
cũng không phải là những ḍng vui vẻ đông đúc
như anh muốn. Anh ngă xuống dưới chân Cổ
thành Quảng Trị. Cũng bên chân thành cổ đó, máu
của nhiều thanh niên miền Nam cũng đă đổ
xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng.
Tôi chợt nhớ đoạn thơ của nhà thơ quân
đội miền Nam Tô Thùy Yên, tự đối đáp
với người lính Cộng sản, có thể đang
chĩa súng lên chiếc trực thăng của anh đang
bay ngang khu vực Phá Tam Giang:
V́ sao ngươi
tới đây ?
Hỡi gă cộng quân
sốt rét, đói
Xích lời nguyền
sinh Bắc, tử Nam.
V́ sao ta tới đây
?
Ḷng xót xa, thân xác
mỏi ṃn,
Dưới mắt
ngươi làm tên lính ngụy.
Ví dầu ngươi
bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt
im
Chuyện cũng thành
vô ích.
Ví dầu ngươi
gục
V́ bom đạn
bất dung
Thi thể chẳng ai
thâu
Nào có chi đáng
kể.
Nghĩ cho cùng,
nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc
ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này
đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há
chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, Phá Tam Giang
ngày rày đâu đă cạn ?
Ta phá lên cười,
ta phá lên cười
Khi tưởng
tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cơi âm nào
ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi
thỏa tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai
thật sự hy sinh
Cho tổ quốc
Việt Nam - một tổ quốc ?
("Chiều trên Phá
Tam Giang", TÔ THÙY YÊN)
Tôi đă viết một bài về
nhật kư
của chị Đặng Thuỳ Trâm và như đă hứa trong bài viết, tôi sẽ không
phân tích ǵ thêm nhật kư của chị, hăy để
chị ngủ yên với giấc mơ xanh và t́nh yêu
nước đậm đà dù trên thế gian này con
người đang lợi dụng cái chết của
chị. Chỉ tội nghiệp mẹ của chị,
cụ bà Doăn Ngọc Trâm. Ba mươi năm sau vẫn c̣n
một bà mẹ Việt Nam sang tận nước Mỹ xa
xôi để khóc cho đứa con gái thân yêu bỏ ḿnh trong
cuộc chiến. Phóng viên Betsy Blaney của hăng thông tấn
Associated Press đă viết và được BBC trích
dẫn: ''Bà Doăn Ngọc Trâm 82 tuổi quỳ xuống và
khóc khi lần đầu tiên bà cầm những ǵ c̣n
lại trong cuộc đời con bà: hai cuốn nhật kư
viết trước khi cô bị giết trong chiến tranh
Việt Nam. Với đôi tay run rẩy, mẹ của bác
sỹ phẫu thuật Bắc Việt Đặng Thùy Trâm
ấp một cuốn nhật kư lên trái tim bà." Một bà
cụ thuộc giai cấp tiểu tư sản, từng
bị các nhà lư luận chủ nghĩa Marx-Lenin kết án
như là thành phần nghiêng ngửa, gió chiều nào theo
chiều ấy, bỗng dưng trở thành bà mẹ anh
hùng. Giống như cụ bà Nguyễn Thị Thứ ở
ngoài quê tôi, trong tháng ngày c̣n lại của đời ḿnh,
cụ bà Doăn Ngọc Trâm lại phải cười
tươi, hănh diện trước cái chết oan ức,
thảm thương của con gái ḿnh. Tuy nhiên, nếu ai
tinh tế gắn một chiếc máy thu âm nhỏ
dưới những bụi hoa trên mộ chị
Đặng Thuỳ Trâm, sẽ nghe cụ bà nói ǵ với
chị về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khác với hai cuốn nhật kư
của anh Thạc và chị Thuỳ Trâm, nhật kư Tôi bị
bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao và nhật kư Tôi bày
tỏ nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự là của hai
người lớn lên ở miền Nam và đều c̣n
sống.
Nhà thơ Trần Vàng Sao tên
thật Nguyễn Đính, sinh năm 1941, đậu tú tài
năm 1961 rồi vào Đại học Huế. Anh tham gia
các hoạt động công khai trong thành phố dưới
sự chỉ đạo của Thành uỷ Huế, tích
cực trong phong trào sinh viên Huế như rải truyền
đơn, vận động sinh viên xuống
đường tranh đấu. Tháng 6 năm 1965, v́ bị
lộ nên tổ chức đưa anh lên rừng công tác
tại Ban tuyên huấn Thành uỷ Huế. Năm 1970, anh
bị thương và được đưa ra Bắc
chữa trị. Sau thời gian ra Bắc không lâu, những
suy nghĩ riêng tư của anh về Đảng đă
bị các "đồng chí" của anh đọc
được và báo cáo lên cấp trên. Từ đó, anh
đă trải qua những ngày tháng trù dập vô cùng thê
thảm. Từ một nhà thơ dùng tên lá cờ làm bút
hiệu anh trở thành một kẻ bị mọi
người khinh bỉ, xa lánh, tàn tệ đến
mức, như anh kể, ai cũng gọi anh là
"hắn" hay "thằng Đính", chỉ có
"một thằng bé bị thần kinh gọi tôi
bằng chú". Đọc cách giải thích văn thơ
của những cán bộ hỏi cung anh để thấy
mức độ cuồng tín của họ không thua ǵ
người dân Bắc Hàn chữa lửa trong câu chuyện
kể trên.
Ba của nhà thơ Trần Vàng Sao
mất năm anh 7 tuổi, mẹ anh buôn thúng bán bưng
nhiều khi phải đi xin tôm cá dọc bờ biển
để nuôi 5 người con. Nhà thơ lớn lên trong
t́nh thương và cả trong tiếng thở dài nửa
khuya của mẹ, để rồi hai mươi năm
sau anh mang thao thức đi vào cuộc chiến bằng t́nh
yêu nước đậm đà như anh viết trong bài
thơ "Bài thơ của một người yêu
nước ḿnh", ngày 19 tháng 12 năm 1967:
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc
mỗi to,
Sao hôm nay ḷng thấy
chật
Như buổi sáng mùa
đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm
nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt
mỏi, rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên
cành chim không hót
Khoảng vắng mùa
thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất
nước này những buổi mai
Không ai cười
không tiếng hát trẻ con
Đất đá
cỏ cây ơi
Ḷng vẫn
thương mẹ nhớ cha
Ăn quán nằm
cầu
Hai hàng nước
mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu
trời khấn Phật, tai qua nạn khỏi
Tôi yêu đất
nước này áo rách
Căn nhà dột phên
không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong
từng hơi thở
Ḷng vẫn
thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm
ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất
nước này như thế
("Bài thơ
của một người yêu nước ḿnh", TRẦN
VÀNG SAO)
Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự tên
thật là Bảo Cự, sinh năm 1945 tại Huế. Trong
thời gian năm 1966, anh là một trong những
người lănh đạo hàng đầu của phong trào
thanh niên sinh viên Huế. Anh được kết nạp
vào Đảng năm 1974 và sau năm 1975 là Ủy viên
thường trực của Hội Văn nghệ tỉnh
Lâm Đồng và là Phó Tổng Biên tập tạp chí Langbian. Nhà
văn Tiêu Dao Bảo Cự bị khai trừ ra khỏi
Đảng sau chuyến đi vận động trí
thức kư tên vào kiến nghị đ̣i Đảng Cộng
sản Việt Nam phải thực thi dân chủ. Từ
đó anh bị Đảng trù dập, bắt giam và
quản chế như đă được anh ghi lại
trong nhiều bài viết cũng như trong nhật kư
"Tôi bày tỏ".
Bốn mươi năm sau,
từ những ngày sôi sục những năm 1965, 1966 ở
Huế, nh́n lại quăng đường các anh đi qua và
những chọn lựa mà các anh đă chọn. Kết
quả đă được chứng nghiệm bằng
thực tế của đất nước và bằng
chịu đựng của bản thân các anh. Đúng hay sai,
lư tưởng hay nông nổi, đối với các anh
cũng đă qua rồi. Không ai có thể sống bằng
quá khứ. Vâng, thế c̣n tương lai ? Lịch sử có
thể không tái diễn nhưng trong từng hoàn cảnh
sự trùng hợp vẫn có thể xảy ra. Bài học các
anh học sẽ c̣n được nhắc lại
nhiều lần. Nhắc không phải để nguyền
rủa, không phải để kết án mà để
thế hệ mai sau biết sự quan trọng của
những chọn lựa của một đời
người.
Tôi đọc rất nhiều
nhận xét, phê phán các anh và những người trí thức
khác ở miền Nam đă bỏ vào bưng để
trở thành đảng viên Cộng sản, tiếp tay mang
đạn Liên Xô, ḿn Trung Cộng, súng AK Tiệp Khắc
về giày xéo mảnh đất miền Nam. Tôi nhớ trong
tác phẩm Tù binh và ḥa b́nh, xuất bản ở Sài G̣n
khoảng năm 1974, nhà văn Phan Nhật Nam kể lại
cảnh các "lănh tụ sinh viên" Trịnh Đ́nh Ban,
Trần Thị Lan v.v. ngồi chờ bên gốc cao su ở
phi trường Lộc Ninh để được trao
trả về phía bên kia. Anh Phan Nhật Nam viết
đoạn đó rất cảm động. Anh không giận
hay trách móc những tù binh gốc sinh viên anh sắp sửa
được trao trả mà cảm thông cho sự bồng
bột tuổi trẻ của họ nhiều hơn.
Thật vậy, thời sôi nổi trong giảng
đường đại học, trên đường
phố Sài G̣n đă là dĩ văng, giữa rừng cao su
Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố đang
bước vào một cuộc đời mới ở
một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con cá bị
vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác,
rụt rè, sợ hăi. Họ không c̣n là bè bạn của
nhau, không c̣n gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà sẽ
là đồng chí. Đồng chí cũng đồng
nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và ḍ xét lẫn nhau.
Họ hối hận không ? Họ thật sự có phải
là Cộng sản không ? Họ có phân biệt
được, dù chỉ là căn bản, những
điểm khác nhau giữa xă hội mà họ vừa
bỏ lại và xă hội mà họ đang t́m đến
không? Không ai hỏi và họ cũng sẽ không trả
lời thật với ḷng. Có những tâm sự, sống
giữ kín chết mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ
với ai.
Hồi xưa tôi cũng có cái nh́n
khắt khe về những người bỏ đi. Các anh
có quyền biểu t́nh, có quyền chống độc tài,
chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng
khi bỏ đi sang hàng ngũ của những người
ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường
học, đặt ḿn trên quốc lộ, các anh đă
phản bội quyền sống trong hoà b́nh của nhân dân
miền Nam. Giống như những đứa con lớn
lên trong một gia đ́nh nghèo, có bà mẹ bịnh tật,
có người cha say rượu hay đánh đập con
cái và c̣n một bầy em nhỏ dại. Thay v́ khuyên răn
người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho
đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng
những đă bỏ đi mà c̣n dắt kẻ gian về
đốt phá nhà ḿnh. Một bài hát rất hay, Cơn mê
chiều, Thái Thanh hát trước năm 1975 mà sau này tôi
mới biết tên tác giả là Nguyễn Minh Khôi, oán trách
những đứa con được nuôi dưỡng
từ khi mang nặng đẻ đau chỉ để
lớn lên mang gươm đao vào xóm làng:
Chiều nay không có em,
mưa non cao về dưới ngàn
Đàn con nay lớn
khôn mang gươm đao vào xóm làng
Chiều nay không có em,
xác phơi trên mái lầu
Một ḿnh nghe
buốt đau, xuôi Nam Giao t́m bóng ḿnh
Đường
nội thành đền xưa ai tàn phá ?
Cầu Tràng Tiền
bạc màu loang gịng máu
Hương Giang
ơi thuyền neo bến không người qua đ̣
Một lần thôi
nhưng c̣n măi ..
Vâng, một lần thôi nhưng c̣n
măi. Cầu Tràng Tiền có thể nối lại,
đường thành nội có thể sửa sang nhưng
vết thương Mậu Thân sẽ hằn sâu suốt
nhiều ngàn năm sau lịch sử.
Giống như anh Trần Vàng Sao
và anh Tiêu Dao Bảo Cự, tôi cũng yêu đất
nước ḿnh. T́nh yêu nước là t́nh cảm tự nhiên
chứ chẳng có ǵ để gọi là khoe khoang. Thế
hệ chúng tôi bước vào cuộc đời sau Hiệp
định Geneva. Giống như những kẻ
bước vào rạp hát sau khi vở bi kịch đă
mở màn, không c̣n chỗ ngồi và cũng không có ai dẫn
dắt, chúng tôi phải tự ṃ mẫm mà đi. Nh́n lên sân
khấu chỉ thấy toàn máu chảy thịt rơi,
đồng ruộng hoang vu, nhà tan cửa nát. Chúng tôi đi
t́m tổ quốc ḿnh trong bóng đêm dày đặc của
chiến tranh và thù hận. Chung quanh chúng tôi có kẻ khóc than
nhưng cũng có kẻ cười thoả măn. Và như
thế, chúng tôi lớn lên với rất nhiều câu
hỏi.
Một trong những câu hỏi là
tại sao có khá nhiều trí thức bỏ miền Nam theo
Cộng sản. Chẳng lẽ họ không biết
những ǵ đă xảy ra ở Tiệp Khắc, ở
Hungary ? Chẳng lẽ họ chưa đọc diễn
văn của Nikita Khrushchev tại Đại hội
Đảng Cộng sản Liên-xô lần thứ 20 mà
bản tiếng Anh, trước năm 1975 đă để
ngay trên giá của Thư viện Quốc gia ? Chẳng
lẽ họ không biết chế độ Cộng sản
là chế độc độc tài, độc đảng,
kiểm soát con người từ đồng lương,
chén gạo cho đến từng cây kim sợi chỉ? Người ta thường nói
chọn lựa nào cũng kèm theo đó một sự hy sinh.
Nhiều trí thức già, trẻ ở miền Nam hy sinh
cả cuộc đời c̣n lại, bỏ trường
học, gia đ́nh, cha mẹ, bà con ruột thịt
để ra đi. Ngày xưa tôi thường tự
hỏi, chọn lựa mà họ theo đuổi chắc
hẳn phải vô cùng cao cả và xứng đáng để
hy sinh như thế. Nếu họ bỏ đi chỉ v́
những người lănh đạo miền Nam tham
nhũng, bất tài th́ không đủ lư do. Một bụi
mía hư mà đốt bỏ cả vườn th́ quá đáng.
Phải có một lư do nào đó sâu xa và cao siêu mà với
kiến thức học tṛ tôi không hiểu được.
Trong một buổi thuyết tŕnh
ở Sài G̣n trước năm 1975, tiến sĩ Châu Tâm
Luân nói: "Chế độ Sài G̣n như một chiếc
áo rách nát đến nỗi không c̣n có thể vá, cách duy
nhất là xé bỏ và may một chiếc áo mới". Ông
không giải thích chiếc áo ông muốn may màu ǵ. Giáo sư
Châu Tâm Luân rất được sinh viên, không chỉ ở
đại học Nông Lâm Súc, mà c̣n nhiều trường
khác kính trọng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi thấy ông
xuất hiện trên báo chí bên cạnh các cấp lănh
đạo nhà nước và tham dự các hội nghị
khoa học kỹ thuật quốc tế trong tư cách
ủy viên đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc Viêt Nam, tôi nghĩ, th́ ra chiếc áo ông muốn may là
màu đỏ, dù sao đó cũng là lư tưởng Cộng
sản mà ông theo đuổi. Bỗng dưng thời gian
ngắn sau đó tôi lại nghe ông vượt biên thành công
và đă định cư ở nước ngoài. Tôi thở
dài thất vọng, không phải v́ ông bỏ nước ra
đi mà v́ tôi không ngờ những trí thức rất
được chúng tôi kính trọng, cuối cùng, cũng chỉ
hiểu chủ nghĩa Cộng sản một cách ngây
thơ và đơn giản như thế.
Một sự thật không thể
chối căi, xă hội miền Nam trước năm 1975 là
một căn nhà đang được xây. Từ lănh
đạo cho đến người dân tập sống
trong một thể chế chính trị mà họ chưa
từng kinh nghiệm. Những người đặt
nền móng cho căn nhà dân chủ tại miền Nam
cũng không phải là những thiên thần từ trời
sai xuống mà là những người mang cả quá khứ
nặng nề đi vào tương lai trên con
đường dân chủ khúc khuỷu, quanh co và c̣n
đầy bất định. Những bất trắc
của dân chủ trong một xă hội vừa thoát ra
khỏi phong kiến và thực dân dĩ nhiên nhiều
hơn so với đời sống dân chủ tại các
quốc gia tiên tiến. Các nhà lănh đạo miền Nam
vừa không có nhiều thời gian và cũng vừa không có
khả năng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia mà nhân dân miền
Nam đang chiến đấu. Với chính sách giáo dục
tuổi trẻ vụng về, các nhà lănh đạo
miền Nam đă để không ít thanh niên miền Nam có
nhiệt t́nh yêu nước nhưng không biết Cộng
sản là ǵ, về phía bên kia. Một nhạc phẩm
được viết ra chưa hẳn có một dụng
ư chính trị ǵ nhưng bên nào hát trước th́ tự nhiên
bản nhạc, nhiều khi cả nhạc sĩ, như
thuộc về bên đó.
Phê b́nh bao giờ cũng dễ
hơn cảm thông, tha thứ và xây dựng. Tôi chỉ muốn
thưa, mặc dù không ai có thể thay đổi quá khứ
nhưng vẫn có thể thay đổi cách nh́n của chúng
ta về quá khứ, từ đó can đảm thay
đổi cách nh́n về tương lai.
Nhà thơ Tiêu Dao Bảo Cự
trong bài viết "Đọc
thơ Đông Tŕnh, suy nghĩ về văn nghệ, chính
trị và sám hối" nhấn mạnh
đến sám hối. Tôi đồng ư với điều
anh viết: "Sám hối phải có cắn rứt
lương tâm, phải đau đớn, tiếp
đến có ư thức và hành động chuộc lỗi.
Sám hối đó mới có giá trị tích cực. Sám hối
không phải chỉ tự đấm ngực và cầu xin
tha tội. Sám hối là dấn thân vào cuộc đấu
tranh chống lại sự hèn nhát, yếu đuối, sai
lầm của bản thân, chống lại thế lực
của sự ngu si, cuồng tín, tàn bạo đă tạo ra
tội ác."
Cũng trong bài viết, anh trách
những nhà thơ, nhà văn cùng thời của anh "Có
bao giờ c̣n thao thức như những "đêm không
ngủ" năm nào, dù t́nh h́nh hiện nay có nhiều
chuyện không khác xưa bao nhiêu và những bài hát cũ
của các anh hát lên bây giờ cũng hoàn toàn phù hợp."
Thưa anh, t́nh h́nh không khác nhưng ḷng người đă
đổi khác rồi. Đừng kỳ vọng ǵ nơi
họ. Nhiệt t́nh của tuổi hai mươi
trước những bất công của xă hội
thường đến nhanh và ra đi cũng nhanh như
khi đến. Bầu máu nóng thanh niên nguội dần theo
hoàn cảnh, thời gian và tuổi tác, chỉ có trong
những người có lư tưởng nhiệt huyết
mới không lạnh, tuổi trẻ mới không tàn. Khác
với anh Trần Vàng Sao, anh không bị lộ, không bị
ai tố cáo, anh có thể tiếp tục sống một
cuộc sống thảnh thơi, an nhàn của một cán
bộ văn hoá, nhưng anh không thể tự lừa
dối chính ḿnh, anh đă từ chối cái thảnh thơi
giả tạo để tiếp tục cuộc hành tŕnh
được hun đúc từ thời tuổi trẻ.
Hoàn cảnh ngày nay có khác, đối tượng cũng
khác nhưng mục đích tự do, dân chủ, ấm no cho
dân tộc vẫn giống như xưa. Tôi kính trọng anh
v́ anh là người có lư tưởng, đă vượt qua
những tự ái, mặc cảm riêng tư để
sống cho cái chung của đất nước. Sau 30
năm, trong lúc hầu hết bạn bè cùng đi với
anh, dù biết ḿnh sai, vẫn chọn đứng về phía
chế độ để được vinh thân hay
cắn răng chịu đựng để
được sống b́nh an, anh đă cất lên tiếng
nói. Tiếng nói của anh vô cùng cần thiết cho
đất nước và nhất là cho các thế hệ
trẻ hôm nay.
Chị Đặng Thuỳ Trâm
chết, anh Nguyễn Văn Thạc cũng đă chết,
anh Trần Vàng Sao bị khinh khi hành hạ như một tên
tử tù thời phong kiến, anh Tiêu Dao Bảo Cự
sống trong đày ải, trù dập triền miên hơn
chục năm qua. Tất cả đều từ ḷng yêu
nước và nghĩ v́ ḿnh đă phục vụ, đă hy
sinh cho tổ quốc.
Chúng ta nghe quá nhiều
người nói về tổ quốc và ḷng yêu nước,
nhưng nếu hỏi họ một định nghĩa
về tổ quốc và tổ quốc sẽ về đâu,
tôi tin câu trả lời có thể không giống nhau và
thậm chí mỗi người c̣n chỉ về mỗi
hướng. Với anh Thạc, chị Thuỳ Trâm, đă
quá trễ cho câu trả lời nhưng qua nhật kư của
họ tổ quốc đích thực vẫn là nơi mà
họ chưa được may mắn thấy. Tổ
quốc của nhà thơ Trần Vàng Sao mà anh viết trong
thơ là nơi:
Bữa ăn nào
cũng phải được no
Mùa lạnh phải có
áo ấm
Được nói
cười hát ca yêu đương không ai cấm
Được
thờ cúng những người ḿnh tôn kính
Hai mươi năm
cuộc đời chưa khi nào định.
("Bài thơ
của một người yêu nước ḿnh", TRẦN
VÀNG SAO)
Rơ ràng, tổ quốc, nơi con
người có quyền được ăn no, mặc
ấm, hát bài ca họ thích, thờ cúng những
người họ tôn kính mà anh mơ 40 năm trước
không phải là nơi anh đang sống.
Và v́ thế, sau bao nhiêu năm, trên
con đường Nam Bắc hôm nay nhiều người
Việt yêu nước vẫn c̣n đang đi t́m tổ
quốc, một tổ quốc.
TRẦN TRUNG
ĐẠO
(Sưu
Tầm Liên Mạng)