SU'U TÂ`M 1

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | VA(N 16 | VA(N 17 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 2 * | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | VA(N VUI 8 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13 | BÀI VIÊ'T 14 | BÀI VIÊ'T 15 | BÀI VIÊ'T 16 | BÀI VIÊ'T 17 | BÀI VIÊ'T 18

BÀI VIÊ'T 5

Trần Trung Đạo

 

NHỮNG NGƯỜI ĐI T̀M TỔ QUỐC

(Trần Trung Đạo)

 

(Cảm nghĩ chung sau khi đọc các nhật kư của Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Trần Vàng Sao và Tiêu Dao Bảo Cự)

 

Yêu nước. Tổ quốc. Dạo này, mỗi khi nghe ai nhắc hay tự ḿnh nghĩ đến hai chữ này, tôi cảm thấy lo lắng hơn là rung động. Lư do cũng dễ hiểu. Mấy tháng qua tôi đọc khá nhiều nhật kư có kết cục quá buồn, nào là hai cái chết thảm thương của anh Nguyễn Văn Thạc, chị Đặng Thùy Trâm, nào là cảnh sống trong trù dập đọa đày như anh Trần Vàng Sao, anh Tiêu Dao Bảo Cự. Tất cả cũng tại ḷng yêu nước cuồng nhiệt mà ra.

 

Tôi đọc nhật kư của anh Nguyễn Văn Thạc trên chuyến bay từ California về lại Boston. Nhật kư dày 296 trang, tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngă Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Ngồi nh́n những cụm mây bay bên ngoài ô cửa nhỏ không thể không liên tưởng đến số phận của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc chiến. Quăng đời anh Thạc quá ngắn và chấm dứt một cách oan uổng. Anh đặt tên nhật kư là "Chuyện đời" nhưng được thay bằng "Măi măi tuổi hai mươi".

 

Khi chết anh Nguyễn Văn Thạc chưa tṛn hai mươi tuổi. Không giống như chị Thùy Trâm, anh Thạc viết nhật kư như anh thú nhận "ước mơ thầm kín" của anh là trở thành nhà văn. Cũng v́ tập làm nhà văn nên văn trong nhật kư của anh không có được nét hồn nhiên như của chị Thùy Trâm. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật kư: "Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường .. Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những ṿng sóng h́nh tṛn tỏa rộng chung quanh .. Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng h́nh quả trứng lăn nghiêng"; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay v́ ghi lại những ǵ xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: "Cả rừng bạch đàn vặn ḿnh. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đă cũ. Gió reo vù vù .." Đại loại là như thế.

 

Ngoại trừ t́nh yêu say đắm dành cho chị Như Anh, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xă hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Anh không có dịp đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lư luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng v́ ở tuổi của anh sự gần gũi và va chạm với xă hội c̣n khá ít.

 

Thần tượng tuổi trẻ của anh là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đă tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven ! Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: "Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đă sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đă đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một ḍng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Ḿnh thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời ḿnh cho Đảng, cho giai cấp."

 

Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven. Chẳng lẽ anh không biết một số rất lớn anh hùng dân tộc Việt Nam, đă sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi c̣n rất trẻ và đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng thanh niên Ukraine kia hay sao ? Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và đă từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần Quốc Toản, Cao Thắng, Phạm Hồng Thái v.v..  là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.

 

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đă trở thành những băi chiến kinh hồn, nhưng trong nhật kư ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hănh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: "Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đă diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy - Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đă phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng." Anh tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất nhân mạng của quân đội miền Nam ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam.

 

Lớn lên trong một gia đ́nh nghèo khó, đông con và một xă hội cách ly về mặt thông tin với thế giới bên ngoài, những hiểu biết của anh v́ thế không những chỉ là một chiều mà c̣n bị đóng khung trong những bức tường, những giới hạn và khái niệm anh phải thuộc nằm ḷng khi cần th́ đem ra áp dụng. Trong nhật kư ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi nghĩ về tương lai ḿnh, anh trích ngay câu nói của Lê Duẩn thay cho câu giải đáp: "Thanh niên hăy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời ḿnh, đừng để cho t́nh cảm cách mạng nguội lạnh v́ những tính toán được mất cho cá nhân." Và như thế anh yên tâm đi tiếp và không cần phải thắc mắc ǵ thêm.

 

Anh Thạc có yêu nước không ? Tôi tin là có. Nhưng t́nh yêu nước của anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Anh viết trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc, in trong phần cuối của nhật kư: "Được mang ng̣i bút của ḿnh phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xă hội chủ nghĩa, đă tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng". Thật giống hệt như nội dung các đề cương văn hóa của Đảng. Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa Tổ quốc và Đảng, giữa ư thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị. Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của Đảng không những có khả năng điều khiển hành động mà c̣n có thể sai khiến cả nhận thức của anh. Trong nhật kư ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết: "Thằng Mỹ, nó thế nào ? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta - cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài G̣n - xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù". Anh không biết "Thằng Mỹ, nó thế nào" và vẫn muốn "xọc lê vào thỏi tim đen thủi" của nó. Khủng khiếp thật.

 

Dù sao, với tuổi 19, 20, anh Thạc chẳng có lỗi ǵ. Tiếng hót của anh, dù hay dù dở, cũng chỉ là tiếng hót của một con chim công nghiệp như hàng ngàn, hàng vạn con chim công nghiệp được Đảng tập luyện từ khi vừa đạp vỏ trứng bước ra. Nền giáo dục Cộng sản ở xứ nào cũng vậy. Mức độ tuy có khác nhau đôi chút nhưng mục đích vẫn giống nhau. Đọc câu chuyện Bắc Hàn sau đây chúng ta sẽ thông cảm tại sao anh thích thành Paven hơn mơ làm Trần Quốc Toản. Tháng 4 năm 2003, một chiếc xe lửa ở Bắc Hàn không may chạy trật đường rầy và đụng vào một ṭa nhà lớn, cả xe lửa lẫn ṭa nhà đều bốc cháy, hàng trăm khách trong xe, người trong ṭa nhà vừa chết vừa bị thương, kêu la, rên rỉ. Thế nhưng khi những người dân Bắc Hàn ở chung quanh tới cứu, họ đă cố t́m cách dập tắt ngọn lửa đang đốt cháy tấm chân dung lớn của Kim Chính Nhật treo trên toà nhà trước khi cứu chữa những người bị thương đang thoi thóp trong xe hay sắp chết cháy trong nhà. Câu chuyện này cũng được b́nh luận trên tạp chí uy tín nhất nh́ thế giới, The Economist số tháng Chạp năm 2004 chứ không phải là sản phẩm tưởng tượng của CIA hay một tổ chức chống Cộng nào.

 

Đọc câu chuyện trên hẳn chúng ta không khỏi tự hỏi nếu định nghĩa con người là sinh vật biết suy nghĩ, th́ con người ở Bắc Hàn có c̣n nên gọi là người hay không ? Họ có chút ǵ gọi là tư duy độc lập không ? Độc giả miền Bắc đọc đoạn văn trên chắc không khỏi hú hồn. Hăy thử tưởng tượng, nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 và miền Bắc vẫn tiếp tục sống dưới chế độ vô sản chuyên chính th́ đời sống và tŕnh độ nhận thức của người dân miền Bắc ngày nay sẽ khác bao nhiêu so với những người dân Bắc Hàn đáng thương kia ?

 

Trang nhật kư cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972: "Kẻ thù không cho tôi ở lại - Phải đi - Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật kư này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những ǵ lớn lao mà tôi đă trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật kư thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại - Ai sẽ thay tôi viết tiếp những ḍng này ? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang giấy c̣n lại đằng sau sẽ toàn là những ḍng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này."

 

Anh đă không trở lại và những trang giấy c̣n lại của cuốn nhật kư cũng không phải là những ḍng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngă xuống dưới chân Cổ thành Quảng Trị. Cũng bên chân thành cổ đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đă đổ xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng. Tôi chợt nhớ đoạn thơ của nhà thơ quân đội miền Nam Tô Thùy Yên, tự đối đáp với người lính Cộng sản, có thể đang chĩa súng lên chiếc trực thăng của anh đang bay ngang khu vực Phá Tam Giang:

 

V́ sao ngươi tới đây ?

Hỡi gă cộng quân sốt rét, đói

Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam.

V́ sao ta tới đây ?

Ḷng xót xa, thân xác mỏi ṃn,

Dưới mắt ngươi làm tên lính ngụy.

Ví dầu ngươi bắn rụng ta

Như tiếng hét

Xé hư không bặt im

Chuyện cũng thành vô ích.

Ví dầu ngươi gục

V́ bom đạn bất dung

Thi thể chẳng ai thâu

Nào có chi đáng kể.

Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng

Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm

Có cùng gom góp lại

Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?

Ngươi há chẳng thấy sao

Phá Tam Giang, Phá Tam Giang ngày rày đâu đă cạn ?

Ta phá lên cười, ta phá lên cười

Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ

Ở cơi âm nào ngươi vốn không tin

Hỏi nhau chơi thỏa tính bông đùa:

Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh

Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc ?

("Chiều trên Phá Tam Giang", TÔ  THÙY YÊN)

Tôi đă viết một bài về nhật kư của chị Đặng Thuỳ Trâm và như đă hứa trong bài viết, tôi sẽ không phân tích ǵ thêm nhật kư của chị, hăy để chị ngủ yên với giấc mơ xanh và t́nh yêu nước đậm đà dù trên thế gian này con người đang lợi dụng cái chết của chị. Chỉ tội nghiệp mẹ của chị, cụ bà Doăn Ngọc Trâm. Ba mươi năm sau vẫn c̣n một bà mẹ Việt Nam sang tận nước Mỹ xa xôi để khóc cho đứa con gái thân yêu bỏ ḿnh trong cuộc chiến. Phóng viên Betsy Blaney của hăng thông tấn Associated Press đă viết và được BBC trích dẫn: ''Bà Doăn Ngọc Trâm 82 tuổi quỳ xuống và khóc khi lần đầu tiên bà cầm những ǵ c̣n lại trong cuộc đời con bà: hai cuốn nhật kư viết trước khi cô bị giết trong chiến tranh Việt Nam. Với đôi tay run rẩy, mẹ của bác sỹ phẫu thuật Bắc Việt Đặng Thùy Trâm ấp một cuốn nhật kư lên trái tim bà." Một bà cụ thuộc giai cấp tiểu tư sản, từng bị các nhà lư luận chủ nghĩa Marx-Lenin kết án như là thành phần nghiêng ngửa, gió chiều nào theo chiều ấy, bỗng dưng trở thành bà mẹ anh hùng. Giống như cụ bà Nguyễn Thị Thứ ở ngoài quê tôi, trong tháng ngày c̣n lại của đời ḿnh, cụ bà Doăn Ngọc Trâm lại phải cười tươi, hănh diện trước cái chết oan ức, thảm thương của con gái ḿnh. Tuy nhiên, nếu ai tinh tế gắn một chiếc máy thu âm nhỏ dưới những bụi hoa trên mộ chị Đặng Thuỳ Trâm, sẽ nghe cụ bà nói ǵ với chị về Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Khác với hai cuốn nhật kư của anh Thạc và chị Thuỳ Trâm, nhật kư Tôi bị bắt  của nhà thơ Trần Vàng Sao và nhật kư Tôi bày tỏ nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự là của hai người lớn lên ở miền Nam và đều c̣n sống.

 

Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật Nguyễn Đính, sinh năm 1941, đậu tú tài năm 1961 rồi vào Đại học Huế. Anh tham gia các hoạt động công khai trong thành phố dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ Huế, tích cực trong phong trào sinh viên Huế như rải truyền đơn, vận động sinh viên xuống đường tranh đấu. Tháng 6 năm 1965, v́ bị lộ nên tổ chức đưa anh lên rừng công tác tại Ban tuyên huấn Thành uỷ Huế. Năm 1970, anh bị thương và được đưa ra Bắc chữa trị. Sau thời gian ra Bắc không lâu, những suy nghĩ riêng tư của anh về Đảng đă bị các "đồng chí" của anh đọc được và báo cáo lên cấp trên. Từ đó, anh đă trải qua những ngày tháng trù dập vô cùng thê thảm. Từ một nhà thơ dùng tên lá cờ làm bút hiệu anh trở thành một kẻ bị mọi người khinh bỉ, xa lánh, tàn tệ đến mức, như anh kể, ai cũng gọi anh là "hắn" hay "thằng Đính", chỉ có "một thằng bé bị thần kinh gọi tôi bằng chú". Đọc cách giải thích văn thơ của những cán bộ hỏi cung anh để thấy mức độ cuồng tín của họ không thua ǵ người dân Bắc Hàn chữa lửa trong câu chuyện kể trên.

 

Ba của nhà thơ Trần Vàng Sao mất năm anh 7 tuổi, mẹ anh buôn thúng bán bưng nhiều khi phải đi xin tôm cá dọc bờ biển để nuôi 5 người con. Nhà thơ lớn lên trong t́nh thương và cả trong tiếng thở dài nửa khuya của mẹ, để rồi hai mươi năm sau anh mang thao thức đi vào cuộc chiến bằng t́nh yêu nước đậm đà như anh viết trong bài thơ "Bài thơ của một người yêu nước ḿnh", ngày 19 tháng 12 năm 1967:

 

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to,

Sao hôm nay ḷng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đất đá cỏ cây ơi

Ḷng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn Phật, tai qua nạn khỏi

Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Ḷng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

("Bài thơ của một người yêu nước ḿnh", TRẦN VÀNG SAO)

 

Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự tên thật là Bảo Cự, sinh năm 1945 tại Huế. Trong thời gian năm 1966, anh là một trong những người lănh đạo hàng đầu của phong trào thanh niên sinh viên Huế. Anh được kết nạp vào Đảng năm 1974 và sau năm 1975 là Ủy viên thường trực của Hội Văn nghệ tỉnh Lâm Đồng và là Phó Tổng Biên tập tạp chí Langbian. Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự bị khai trừ ra khỏi Đảng sau chuyến đi vận động trí thức kư tên vào kiến nghị đ̣i Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực thi dân chủ. Từ đó anh bị Đảng trù dập, bắt giam và quản chế như đă được anh ghi lại trong nhiều bài viết cũng như trong nhật kư "Tôi bày tỏ".

 

Bốn mươi năm sau, từ những ngày sôi sục những năm 1965, 1966 ở Huế, nh́n lại quăng đường các anh đi qua và những chọn lựa mà các anh đă chọn. Kết quả đă được chứng nghiệm bằng thực tế của đất nước và bằng chịu đựng của bản thân các anh. Đúng hay sai, lư tưởng hay nông nổi, đối với các anh cũng đă qua rồi. Không ai có thể sống bằng quá khứ. Vâng, thế c̣n tương lai ? Lịch sử có thể không tái diễn nhưng trong từng hoàn cảnh sự trùng hợp vẫn có thể xảy ra. Bài học các anh học sẽ c̣n được nhắc lại nhiều lần. Nhắc không phải để nguyền rủa, không phải để kết án mà để thế hệ mai sau biết sự quan trọng của những chọn lựa của một đời người.

 

Tôi đọc rất nhiều nhận xét, phê phán các anh và những người trí thức khác ở miền Nam đă bỏ vào bưng để trở thành đảng viên Cộng sản, tiếp tay mang đạn Liên Xô, ḿn Trung Cộng, súng AK Tiệp Khắc về giày xéo mảnh đất miền Nam. Tôi nhớ trong tác phẩm Tù binh và ḥa b́nh, xuất bản ở Sài G̣n khoảng năm 1974, nhà văn Phan Nhật Nam kể lại cảnh các "lănh tụ sinh viên" Trịnh Đ́nh Ban, Trần Thị Lan v.v. ngồi chờ bên gốc cao su ở phi trường Lộc Ninh để được trao trả về phía bên kia. Anh Phan Nhật Nam viết đoạn đó rất cảm động. Anh không giận hay trách móc những tù binh gốc sinh viên anh sắp sửa được trao trả mà cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ của họ nhiều hơn. Thật vậy, thời sôi nổi trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài G̣n đă là dĩ văng, giữa rừng cao su Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố đang bước vào một cuộc đời mới ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ hăi. Họ không c̣n là bè bạn của nhau, không c̣n gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và ḍ xét lẫn nhau. Họ hối hận không ? Họ thật sự có phải là Cộng sản không ? Họ có phân biệt được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau giữa xă hội mà họ vừa bỏ lại và xă hội mà họ đang t́m đến không? Không ai hỏi và họ cũng sẽ không trả lời thật với ḷng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ với ai.

 

Hồi xưa tôi cũng có cái nh́n khắt khe về những người bỏ đi. Các anh có quyền biểu t́nh, có quyền chống độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang hàng ngũ của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường học, đặt ḿn trên quốc lộ, các anh đă phản bội quyền sống trong hoà b́nh của nhân dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia đ́nh nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con cái và c̣n một bầy em nhỏ dại. Thay v́ khuyên răn người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đă bỏ đi mà c̣n dắt kẻ gian về đốt phá nhà ḿnh. Một bài hát rất hay, Cơn mê chiều, Thái Thanh hát trước năm 1975 mà sau này tôi mới biết tên tác giả là Nguyễn Minh Khôi, oán trách những đứa con được nuôi dưỡng từ khi mang nặng đẻ đau chỉ để lớn lên mang gươm đao vào xóm làng:

 

Chiều nay không có em, mưa non cao về dưới ngàn

Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng

Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu

Một ḿnh nghe buốt đau, xuôi Nam Giao t́m bóng ḿnh

Đường nội thành đền xưa ai tàn phá ?

Cầu Tràng Tiền bạc màu loang gịng máu

Hương Giang ơi thuyền neo bến không người qua đ̣

Một lần thôi nhưng c̣n măi ..

 

Vâng, một lần thôi nhưng c̣n măi. Cầu Tràng Tiền có thể nối lại, đường thành nội có thể sửa sang nhưng vết thương Mậu Thân sẽ hằn sâu suốt nhiều ngàn năm sau lịch sử.

 

Giống như anh Trần Vàng Sao và anh Tiêu Dao Bảo Cự, tôi cũng yêu đất nước ḿnh. T́nh yêu nước là t́nh cảm tự nhiên chứ chẳng có ǵ để gọi là khoe khoang. Thế hệ chúng tôi bước vào cuộc đời sau Hiệp định Geneva. Giống như những kẻ bước vào rạp hát sau khi vở bi kịch đă mở màn, không c̣n chỗ ngồi và cũng không có ai dẫn dắt, chúng tôi phải tự ṃ mẫm mà đi. Nh́n lên sân khấu chỉ thấy toàn máu chảy thịt rơi, đồng ruộng hoang vu, nhà tan cửa nát. Chúng tôi đi t́m tổ quốc ḿnh trong bóng đêm dày đặc của chiến tranh và thù hận. Chung quanh chúng tôi có kẻ khóc than nhưng cũng có kẻ cười thoả măn. Và như thế, chúng tôi lớn lên với rất nhiều câu hỏi.

 

Một trong những câu hỏi là tại sao có khá nhiều trí thức bỏ miền Nam theo Cộng sản. Chẳng lẽ họ không biết những ǵ đă xảy ra ở Tiệp Khắc, ở Hungary ? Chẳng lẽ họ chưa đọc diễn văn của Nikita Khrushchev tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên-xô lần thứ 20 mà bản tiếng Anh, trước năm 1975 đă để ngay trên giá của Thư viện Quốc gia ? Chẳng lẽ họ không biết chế độ Cộng sản là chế độc độc tài, độc đảng, kiểm soát con người từ đồng lương, chén gạo cho đến từng cây kim sợi chỉ?  Người ta thường nói chọn lựa nào cũng kèm theo đó một sự hy sinh. Nhiều trí thức già, trẻ ở miền Nam hy sinh cả cuộc đời c̣n lại, bỏ trường học, gia đ́nh, cha mẹ, bà con ruột thịt để ra đi. Ngày xưa tôi thường tự hỏi, chọn lựa mà họ theo đuổi chắc hẳn phải vô cùng cao cả và xứng đáng để hy sinh như thế. Nếu họ bỏ đi chỉ v́ những người lănh đạo miền Nam tham nhũng, bất tài th́ không đủ lư do. Một bụi mía hư mà đốt bỏ cả vườn th́ quá đáng. Phải có một lư do nào đó sâu xa và cao siêu mà với kiến thức học tṛ tôi không hiểu được.

 

Trong một buổi thuyết tŕnh ở Sài G̣n trước năm 1975, tiến sĩ Châu Tâm Luân nói: "Chế độ Sài G̣n như một chiếc áo rách nát đến nỗi không c̣n có thể vá, cách duy nhất là xé bỏ và may một chiếc áo mới". Ông không giải thích chiếc áo ông muốn may màu ǵ. Giáo sư Châu Tâm Luân rất được sinh viên, không chỉ ở đại học Nông Lâm Súc, mà c̣n nhiều trường khác kính trọng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi thấy ông xuất hiện trên báo chí bên cạnh các cấp lănh đạo nhà nước và tham dự các hội nghị khoa học kỹ thuật quốc tế trong tư cách ủy viên đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam, tôi nghĩ, th́ ra chiếc áo ông muốn may là màu đỏ, dù sao đó cũng là lư tưởng Cộng sản mà ông theo đuổi. Bỗng dưng thời gian ngắn sau đó tôi lại nghe ông vượt biên thành công và đă định cư ở nước ngoài. Tôi thở dài thất vọng, không phải v́ ông bỏ nước ra đi mà v́ tôi không ngờ những trí thức rất được chúng tôi kính trọng, cuối cùng, cũng chỉ hiểu chủ nghĩa Cộng sản một cách ngây thơ và đơn giản như thế.

 

Một sự thật không thể chối căi, xă hội miền Nam trước năm 1975 là một căn nhà đang được xây. Từ lănh đạo cho đến người dân tập sống trong một thể chế chính trị mà họ chưa từng kinh nghiệm. Những người đặt nền móng cho căn nhà dân chủ tại miền Nam cũng không phải là những thiên thần từ trời sai xuống mà là những người mang cả quá khứ nặng nề đi vào tương lai trên con đường dân chủ khúc khuỷu, quanh co và c̣n đầy bất định. Những bất trắc của dân chủ trong một xă hội vừa thoát ra khỏi phong kiến và thực dân dĩ nhiên nhiều hơn so với đời sống dân chủ tại các quốc gia tiên tiến. Các nhà lănh đạo miền Nam vừa không có nhiều thời gian và cũng vừa không có khả năng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia mà nhân dân miền Nam đang chiến đấu. Với chính sách giáo dục tuổi trẻ vụng về, các nhà lănh đạo miền Nam đă để không ít thanh niên miền Nam có nhiệt t́nh yêu nước nhưng không biết Cộng sản là ǵ, về phía bên kia. Một nhạc phẩm được viết ra chưa hẳn có một dụng ư chính trị ǵ nhưng bên nào hát trước th́ tự nhiên bản nhạc, nhiều khi cả nhạc sĩ, như thuộc về bên đó.

 

Phê b́nh bao giờ cũng dễ hơn cảm thông, tha thứ và xây dựng. Tôi chỉ muốn thưa, mặc dù không ai có thể thay đổi quá khứ nhưng vẫn có thể thay đổi cách nh́n của chúng ta về quá khứ, từ đó can đảm thay đổi cách nh́n về tương lai.

 

Nhà thơ Tiêu Dao Bảo Cự trong bài viết "Đọc thơ Đông Tŕnh, suy nghĩ về văn nghệ, chính trị và sám hối"  nhấn mạnh đến sám hối. Tôi đồng ư với điều anh viết: "Sám hối phải có cắn rứt lương tâm, phải đau đớn, tiếp đến có ư thức và hành động chuộc lỗi. Sám hối đó mới có giá trị tích cực. Sám hối không phải chỉ tự đấm ngực và cầu xin tha tội. Sám hối là dấn thân vào cuộc đấu tranh chống lại sự hèn nhát, yếu đuối, sai lầm của bản thân, chống lại thế lực của sự ngu si, cuồng tín, tàn bạo đă tạo ra tội ác."

 

Cũng trong bài viết, anh trách những nhà thơ, nhà văn cùng thời của anh "Có bao giờ c̣n thao thức như những "đêm không ngủ" năm nào, dù t́nh h́nh hiện nay có nhiều chuyện không khác xưa bao nhiêu và những bài hát cũ của các anh hát lên bây giờ cũng hoàn toàn phù hợp." Thưa anh, t́nh h́nh không khác nhưng ḷng người đă đổi khác rồi. Đừng kỳ vọng ǵ nơi họ. Nhiệt t́nh của tuổi hai mươi trước những bất công của xă hội thường đến nhanh và ra đi cũng nhanh như khi đến. Bầu máu nóng thanh niên nguội dần theo hoàn cảnh, thời gian và tuổi tác, chỉ có trong những người có lư tưởng nhiệt huyết mới không lạnh, tuổi trẻ mới không tàn. Khác với anh Trần Vàng Sao, anh không bị lộ, không bị ai tố cáo, anh có thể tiếp tục sống một cuộc sống thảnh thơi, an nhàn của một cán bộ văn hoá, nhưng anh không thể tự lừa dối chính ḿnh, anh đă từ chối cái thảnh thơi giả tạo để tiếp tục cuộc hành tŕnh được hun đúc từ thời tuổi trẻ. Hoàn cảnh ngày nay có khác, đối tượng cũng khác nhưng mục đích tự do, dân chủ, ấm no cho dân tộc vẫn giống như xưa. Tôi kính trọng anh v́ anh là người có lư tưởng, đă vượt qua những tự ái, mặc cảm riêng tư để sống cho cái chung của đất nước. Sau 30 năm, trong lúc hầu hết bạn bè cùng đi với anh, dù biết ḿnh sai, vẫn chọn đứng về phía chế độ để được vinh thân hay cắn răng chịu đựng để được sống b́nh an, anh đă cất lên tiếng nói. Tiếng nói của anh vô cùng cần thiết cho đất nước và nhất là cho các thế hệ trẻ hôm nay.

 

Chị Đặng Thuỳ Trâm chết, anh Nguyễn Văn Thạc cũng đă chết, anh Trần Vàng Sao bị khinh khi hành hạ như một tên tử tù thời phong kiến, anh Tiêu Dao Bảo Cự sống trong đày ải, trù dập triền miên hơn chục năm qua. Tất cả đều từ ḷng yêu nước và nghĩ v́ ḿnh đă phục vụ, đă hy sinh cho tổ quốc.

 

Chúng ta nghe quá nhiều người nói về tổ quốc và ḷng yêu nước, nhưng nếu hỏi họ một định nghĩa về tổ quốc và tổ quốc sẽ về đâu, tôi tin câu trả lời có thể không giống nhau và thậm chí mỗi người c̣n chỉ về mỗi hướng. Với anh Thạc, chị Thuỳ Trâm, đă quá trễ cho câu trả lời nhưng qua nhật kư của họ tổ quốc đích thực vẫn là nơi mà họ chưa được may mắn thấy. Tổ quốc của nhà thơ Trần Vàng Sao mà anh viết trong thơ là nơi:

 

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người ḿnh tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

("Bài thơ của một người yêu nước ḿnh", TRẦN VÀNG SAO)

 

Rơ ràng, tổ quốc, nơi con người có quyền được ăn no, mặc ấm, hát bài ca họ thích, thờ cúng những người họ tôn kính mà anh mơ 40 năm trước không phải là nơi anh đang sống.

 

Và v́ thế, sau bao nhiêu năm, trên con đường Nam Bắc hôm nay nhiều người Việt yêu nước vẫn c̣n đang đi t́m tổ quốc, một tổ quốc.

 

 

TRẦN TRUNG ĐẠO

(Sưu Tầm Liên Mạng)

website counter