SU'U TÂ`M 1

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | VA(N 16 | VA(N 17 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 2 * | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | VA(N VUI 8 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13 | BÀI VIÊ'T 14 | BÀI VIÊ'T 15 | BÀI VIÊ'T 16 | BÀI VIÊ'T 17 | BÀI VIÊ'T 18

TA.P GHI 12

NHỮNG NGƯỜI HỦI

 

NHỮNG NGƯỜI HỦI

 

 

Mục tiêu của các hoạt động cứu trợ bao giờ cũng bi thảm. Gần như chẳng có một chuyến cứu trợ nào có hào quang rực rỡ.

 

Cho dù đó là những hoạt động cứu giúp các nạn nhân băo lụt Katrina, núi lửa ở Indonesia, sóng thần ở Đông Nam Á, động đất ở Pakistan, hay chiến tranh ở Phi châu. Nhưng có lẽ bi thảm nhất, phải là những h́nh ảnh của những chuyến đi cứu trợ giúp những bệnh nhân bệnh Hansen ở Việt Nam.

 

Bệnh Hansen là tên gọi khoa học nghe đỡ dễ sợ hơn là một cái tên khác của nó, bệnh cùi, cũng c̣n gọi là bệnh hủi, một chứng bệnh bị loài người ghê tởm đă ở với nhân loại từ mấy ngàn năm trước mà Thánh kinh cũng ghi lại. Tuy loài người c̣n mắc những thứ bệnh nguy hiểm hơn, nhưng không có một thứ bệnh nào bị kinh khiếp, ghê tởm và bị xa lánh như bệnh phong cùi.

 

Người bị phong cùi bị đưa tới những trại xa xôi và gần như hoàn toàn bị quên lăng bởi xă hội của người thường. Măi đến ngày nay, thế giới vẫn c̣n những trại phong cùi như thế. Hầu hết là ở các xứ nhiệt đới, Á châu và Phi châu.

 

Ngôn ngữ Việt Nam không thiếu những cách nói đầy khinh bỉ, ghê tởm dành cho những người mắc căn bệnh kinh khiếp này.

 

Không dây với hủi. Cùi hủi. Đồ hủi. Hủi cùn hủi cụt.

 

Xấu xa, tệ lậu nhất là hủi, là cùi.

 

Mô tả một người xấu xa như thế chỉ cần gọi đương sự là hủi là đầy đủ, không cần phải nói thêm nữa.

 

Thề thốt nặng lời cũng lại đem căn bệnh này ra để hăm, dể dọa, để thay cho những chi tiết bất hạnh, bi thảm nhất nếu một chuyện ǵ không làm được, không thực hiện được.

 

Và chúng ta có lúc đă quên hẳn những con người bất hạnh này.

 

Nếu không làm thơ và mơ hồ nhắc đến căn bệnh của ḿnh, th́ người đàn ông bị bệnh này vẫn chỉ là Nguyễn Trọng Trí, qua đời ở một trại cùi ở Quy Ḥa, không bao giờ là Hàn Mặc Tử.

 

Những người mắc bệnh hủi không bao giờ có trong trí của chúng ta.

 

Đầu óc với khả năng đăi lọc, tuyển chọn nhũng điều vui vẻ, hạnh phúc, tốt đẹp của chúng ta không có chỗ cho những người mắc bệnh Hansen. Quách Thoại, Thạch Lam qua đời v́ bệnh lao, căn bệnh giết người nhưng vẫn được cho một chút thi vị, lăng mạn như một hai người phụ nữ, đối tượng của một vài nhà thơ, nhà văn trong văn chương Pháp và Anh.

 

Nhưng người cùi th́ không bao giờ.

 

Một cuộn video do tổ chức cứu trợ những cuộc đời bất hạnh này đă nhắc cho tôi là ở Việt Nam vẫn c̣n những người cũng là Việt Nam khốn khổ ở những cái tên ít khi nghe thấy như Quỳnh Lập, Văn Môn, Sóc Sơn, Phú B́nh, Sơn La, Quy Ḥa ..

 

Họ chẳng bao giờ áo mầu tung gió chơi vơi, chẳng bao giờ là người em chờ dưới bóng dừa, chẳng bao giờ có trong buồn tàn thu, trong cô hái mơ, trong mộng dưới hoa ..

 

Nhưng họ vẫn có một đời sống. Những bàn tay không c̣n ngón đó có bao giờ nắm lấy tay một người khác ? Cặp má ấy có bao giờ đón những cái hôn, mái tóc đó có bao giờ đă có những ngón tay luồn qua ?

 

Tôi nghĩ là phải có.

 

Nhưng những thứ ấy chắc đă quá xa, đă quá lâu không c̣n ở lại trong trí của những người đàn ông, đàn bà thấy trong cuốn video, cuốn video xem rồi không muốn nhớ đến nữa, nhớ đến để làm hỏng một bữa cơm, làm buồn hết một buổi sáng, làm hỏng cả một ngày hay sao ?

 

Những cái đau đớn của thân xác bị bệnh tàn phá không c̣n cho họ nhớ lại những điều hạnh phúc đó. Họ hẳn là phải có những ước mơ cho đời sống, những ước mơ như tất cả chúng ta khi căn bệnh khủng khiếp đó chưa phát.

 

Nh́n họ trong những chỗ họ đang sống, khó có thể nghĩ đă có một thời họ không khác ǵ chúng ta.

 

Tôi đă biết mùi hơi người trong một chuyến đi thăm trại tù Nha Trang, trong những lần đứng ngoài cửa những pḥng giam ở Côn Đảo. Nhưng chắc chắn cái mùi đó không thể bằng cái mùi mà một y sĩ trong phái đoàn về thăm một trại cùi mô tả. Có thể đó là mùi hôi của những cơ thể lâu ngày không tắm, quần áo không thay, những hoạt động vệ sinh hàng ngày diễn ra ngay tại chỗ nằm.

 

Nhưng những sinh vật ấy, khó có thể gọi họ là người, mặc dù gọi như thế, gọi họ là những sinh vật, là một xúc phạm lớn không thể tha thứ được, vẫn tiếp tục sống. Họ cũng là vợ là chồng của nhau. Họ cũng có những thôi thúc của cơ thể. Họ cũng yêu nhau, sinh con đẻ cái. Trong cuộn video, tôi nh́n thấy những bàn tay bé bỏng của những đứa bé ôm lấy những bàn tay không c̣n ngón của có thể là cha mẹ, ông bà của chúng, và bỗng nhận ra họ cũng là người. Trong đôi mắt tuyệt vọng, khổ đau đó, những giọt nưóc mắt lả chả rơi của một người mẹ trẻ với đứa con mang những hậu quả của những thứ thuốc bà uống bỗng làm người xem những đoạn video ấy thấy bao nhiêu chuyện khác đều vô nghĩa lư hết.

 

Những cái áo đẹp, buổi dạ vũ đêm nay em là người đẹp nhất để đi nhẩy đầm, những t́nh khúc thất t́nh, những đoạn thơ chuốt lọc hay nhất bỗng vô nghĩa lư.

 

Tại sao lại có những người khổ đến như thế trên cơi đời này ?

 

Thượng đế có bất công không ?

 

Tại sao có thể nói là mọi người sinh ra đời đều b́nh đẳng và mục tiêu của đời sống là mưu cầu hạnh phúc, mà vẫn có có những người cùi như vậy ?

 

 

BÙI BẢO TRÚC

(BAI CHUYEN)

 

Xin lỗi loài chó


XIN LỖI LOÀI CHÓ

(Phạm Lưu Vũ)

 

Cụ giáo Đản là ông đồ cuối cùng ở làng tôi, mất từ những năm sáu mươi của thế kỉ trước. Đến bây giờ dân làng vẫn c̣n nhớ nhiều câu chuyện về cụ. Chẳng hạn cái hồi ông trưởng thôn quyết định cấm tiệt việc nuôi chó. Thấy cụ là bậc đức cao, có uy tín trong làng, trưởng thôn bèn phái một cán bộ tới gặp cụ để thăm ḍ ư tứ. Cụ bảo:

"Cấm là phải. Chó bây giờ có được như chó ngày xưa đâu, rặt một lũ khuyển cả. Chó nhà mà cũng hỏng như chó hoang th́ nuôi làm ǵ cho vừa phải nghe sủa điếc tai, lại vừa bị chúng ỉa cho bẩn làng, bẩn xóm."

Anh cán bộ nghe chưa hiểu, bèn hỏi:

"Chó bây giờ khác với chó ngày xưa thế nào hở cụ ?"

Cụ giáo thong thả giải thích:

"Ngày xưa chó hoang gọi là "khuyển", chó nhà gọi là "cẩu", phân biệt rơ ràng. Chứ bây giờ th́ lẫn lộn, không biết đâu mà lần.

Anh cán bộ xem ra vẫn chưa hiểu, lại hỏi tiếp:

"Cháu tưởng "khuyển" hay "cẩu" th́ đều có nghĩa là chó cả. Té ra lại có chỗ khác nhau hở cụ ?"

"Khác nhau rơ ràng chứ" - cụ giáo giải thích - "khuyển" nghĩa là chó. Nhưng là lũ chó hoang vô chủ, chó hèn, chó vô giáo dục, chỉ biết sủa lung tung, bậy bạ. Không phân biệt kẻ quen, người lạ, gặp ai nó cũng cắn. V́ vậy trong chữ Hán, chữ "khuyển" chỉ tượng h́nh con chó đang ngồi thè lưỡi mà thôi. C̣n "cẩu" cũng có nghĩa là chó, nhưng là con chó nuôi trong nhà, chó sang, chó phú quư, chó được dạy dỗ đàng hoàng, biết phân biệt đâu là chủ, đâu là khách. Nó chỉ sủa theo ư chủ, bảo sủa th́ sủa, bảo im th́ im. Một khi nó cất tiếng là sủa có bài bản, có câu cú rơ ràng, gọi là sủa có văn. Thậm chí có nơi, có thời c̣n h́nh thành cả một thứ văn hóa .. sủa nữa cơ đấy. V́ thế chữ "cẩu" bên cạnh bộ "khuyển" c̣n có thêm chữ "cú" (câu), ngụ ư chỉ loại chó biết sủa ra câu .."

 

Anh cán bộ một chữ Hán bẻ làm tư cũng không biết, mà thực ra đối với anh, chẳng cần thiết phải phân biệt "khuyển" với "cẩu" đến mức ấy. Chỉ thấy cụ ủng hộ chủ trương của ông trưởng thôn th́ mừng lắm rồi, bèn về báo cáo ngay với ông ta. Thế là tuyên truyền, vận động, cưỡng chế .. khẩu hiệu cấm chó kẻ bằng sơn đỏ la liệt khắp các bức tường ngang, tường dọc. Tối tối học sinh rồng rắn đánh trống ếch, vác cờ quạt, biểu ngữ đi hô khẩu hiệu quyết tâm tiêu diệt chó ầm ĩ khắp làng. Họ hàng nhà chó sợ xanh mắt mà không hiểu chuyện ǵ đang diễn ra. Kết quả các chú khuyển hoặc bị đem bán, hoặc được cho vào nồi, biến thành các món hấp, chả, sáo măng, nhựa mận .. Chỉ vài ngày sau th́ chó tiệt nọc. Khách tới thấy làng êm ả, thanh b́nh như thuở nguyên sơ v́ không phải nghe một tiếng sủa nào ..

 

Nhưng mấy ai biết rằng trước đó c̣n một chuyện khác, h́nh như có liên quan tới cái quyết định cấm đoán kia của ông trưởng thôn.

 

Số là từ cái hồi ông c̣n chưa lên chức, một hôm dân làng bỗng bắt gặp ông cúi gập người, chĩa mồm vào một con chó mà ho rũ rượi, ho không sao hăm lại được, ho đến lồi cả mắt ra. Đối diện với ông, con chó kia cũng đang cong đuôi lên mà sủa lấy sủa để, sủa đến đỏ mặt tía tai. Cứ một sủa, một ho măi như thế, chẳng bên nào chịu nhường bên nào, làm ầm ĩ cả một góc làng. Mọi người kinh ngạc quá, cứ như thể hai bên đang căi nhau, hoặc đang tranh luận vấn đề ǵ to tát lắm. Mà nếu quả thực là căi nhau th́ xem ra ông có vẻ đang .. đuối lư. Bằng chứng là con chó th́ vẫn sủa rất hăng, rất hùng hồn, trong khi tiếng ho của ông th́ đă khản dần, mồm mũi bắt đầu ph́ ra toàn răi dớt với bong bóng cá trôi. Rốt cuộc, cụ giáo Đản được mời tới phân giải xem có phải "họ" đang căi nhau không. Ông cụ chống gậy đến nghe một lúc rồi bảo:

"Chẳng ra câu cú ǵ cả. Thế này th́ không phải căi nhau. Chắc là do cổ họng anh ta bị dị ứng với tiếng chó sủa đấy thôi. Cứ đuổi con chó đi là yên hết."

 

Quả nhiên khi dân làng lấy gậy xua con chó đi th́ ông cũng bặt tiếng ho. Từ đó ông rất ngại tiếng chó sủa, mỗi khi ra khỏi nhà là phải ngó trước ngó sau, cố làm sao không phải nghe tiếng sủa, bởi cứ động nghe thấy là ông lại lên cơn ho. Đến khi lên chức trưởng thôn, việc đầu tiên ông nghĩ tới là làm sao cấm tiệt nuôi chó trong làng. Cả làng có mỗi ḿnh ông mắc phải cái chứng dị ứng oái oăm ấy, ngộ nhỡ có kẻ độc mồm, độc miệng thêu dệt, bêu xấu th́ làm thế nào. Ông dị ứng với tiếng sủa, chứ ông đâu có sợ ǵ lũ chó má ấy. Chúng có ỉa bậy hay cắn càn th́ cùng lắm ông quất cho vài roi. Riêng cái tiếng sủa th́ ông không tài nào chịu được. Nó cứ dộng thẳng vào màng nhĩ, màng nhĩ truyền vào trong óc, óc truyền xuống cuống họng làm ông ho rũ rượi, ho như thể căi nhau. Mà thói đời, có chó nào là chó không sủa bao giờ. Thôi th́ cấm quách cho xong. Kết quả làng tiệt được chó, phần thắng rơ ràng nghiêng về phía ông.

 

Từ đó dễ được mấy chục năm, làng bặt tăm bóng chó. Đến nỗi thanh niên trong làng phải đợi đến lúc lớn lên đi ra ngoài đường làm công nhân, hay lên tỉnh, lên trung ương học đại học .. bấy giờ mới biết mặt mũi con chó nó ra làm sao. Nghe đâu gần đây làng bắt đầu nuôi chó lại rồi, nuôi rầm rộ, nhà nào cũng vài ba con. Có điều không biết đó là "cẩu" hay là "khuyển" như cụ giáo Đản nói ngày trước mà thôi. Nhưng lại nghe nói vị trưởng thôn bây giờ cũng là con cháu ông trưởng thôn ngày ấy. Không biết cái chứng dị ứng với tiếng sủa kia có di truyền không ? Nếu nó di truyền, th́ lại đến lúc "cẩu" hay "khuyển" ǵ rồi cũng sẽ bị cấm cho mà xem.

 

PHẠM LƯU VŨ

(HOÀNG LAN CHI sưu tầm và chuyển)


website counter