XUÂN CHÍN BÊN CỘI
BỒ ÐỀ
(Trần Kiêm Đoàn)
Xuân, Hạ, Thu, Đông... rồi Xuân ! Có một cuốn phim Đại Hàn mang
phong vị cửa Thiền có tên như thế. Người xem có nhiều
phản ứng khác nhau, nhưng lại cùng chung một tâm trạng lắng đọng
và một ý nghĩ đầy trăn trở, trải
dài đến mênh mông về lý vô
thường của cuộc sống.
Vào lứa tuổi lục tuần, tôi thuộc
về thế hệ “chiến tranh Việt Nam”, một
thế hệ mà các bạn cùng lớp,
cùng lứa với tôi ở trường Hàm
Nghi và Quốc Học Huế có đến hai phần
ba đã ra đi... về đất ! Những người còn
lại ở bên nầy đại dương hay
bên kia đất nước thường
hỏi thăm nhau với nỗi ám ánh về sự
xế bóng giữa vô thường: Bên bờ sinh tử vẫn
còn có nhau.
Ba mươi năm nhìn lại.
Mùa Xuân rất xanh ngày nào
bây giờ đã... chín.
Mùa Xuân chín tới trên
quê hương vì bao nỗi lo lắng tận
tình vào thời điểm cuối năm để
nghênh đón mùa Xuân. Nhưng mùa
Xuân cũng “chín tới” ở quê
người vì sự vô tình và lặng lẽ
quên mất mùa Xuân. Hai đầu múi -
thái quá hay bất cập - đều làm cho
mùa Xuân mau già mà đời thường
cho là "Xuân chín tới"; nghĩa
là đã hết một thời Xuân xanh hoa mộng,
hồn nhiên !
Một mùa Xuân hai mươi lăm năm
trước, tôi đang ở trên một quê
hương mà ngày đầu năm, mùa Tết mang một ý nghĩa trọng
đại trong cả lòng người và vạn
vật. Rồi
tôi bỗng hụt hẫng khi đi qua một vùng
đất lạ mà những ngày như thế chẳng
mang một ý nghĩa gì cả. Mồng Một Tết - cũng
chỉ là một ngày bình thường -
như mọi ngày theo kim đồng
hồ lững thững trôi qua.
Bé
Quan Thư ngày đó hỏi một câu thật
bất ngờ:
- Ba ơi ! Mỹ có trồng Tết được không ba
?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Trồng Tết ? Tết
là... là... làm sao trồng được hở
con ?
Tôi không biết phải gọi tên, định
nghĩa Tết là gì cho hợp người, hợp
cảnh, hợp với sự nhận biết của một
người chưa từng có kinh nghiệm "ăn Tết" trên quê hương
Việt Nam. Ngay cả những
nhà ngôn ngữ học tài danh xứ Anh, xứ
Mỹ cũng chỉ có thể gọi cái Tết
Việt Nam
bằng cái tên cúng cơm nguyên thủy
là "the Tet of Vietnam" mới lột tả
được khái niệm tròn đầy của
nó. Bé
Thư nhìn Tết với đôi mắt trẻ
thơ. Vì trẻ thơ nên hồn nhiên
và không dính mắc, mới đủ
tươi mát để cảm nhận xuyên suốt
cả mùa Xuân:
- Trồng Tết là trồng
cây Mai cho có bông, trồng cây chuối cho
có lá mà gói bánh như mệ nội,
o Thuyền dưới làng đó Ba tề.
Ý nghĩ của tuổi măng non
thật ngộ nghĩnh.
Ngày đó, tôi đã
đóng khung lòng mình bằng hoài niệm. Tôi mang nỗi nhớ
không nguôi nhốt trong chiếc lồng định
kiến để tự cho rằng, "làm gì
có Tết trong lòng người đi
!" Có chăng
một hình ảnh Tết mang theo
là nỗi nhớ, nỗi buồn, nỗi xót xa của
sự mất mát lạc loài sạch nhẵn. Hình ảnh lễ hội
tưng bừng của ngày Tết
chỉ còn là dư vang quá khứ mà
thôi.
Cuộc sống đời thường thì
đang thay đổi như chong chóng trong vòng
"không-có, có-không" qua từng chớp
mắt mà định kiến của con người
thì lại đóng khung trong cách kiểu
tượng đài ngỡ như thường hằng
bất biến. Niềm vui tươi mới của
con người mang nhiều định kiến thường
bị đóng băng trong lúc những mùa
Xuân tươi mầm, xanh lá vẫn xôn xao
đi về không ngớt.
Làm người xa xứ trong
mùa Tết, tôi cứ sống hoài trong
quá khứ. Ý nghĩ "đất lề quê
thói" già khằn và mỗi ngày một
khô quắt trong tôi. Ý nghĩ về làng
xóm, phố phường xinh đẹp nhất; con vịt
con gà thơm ngon nhất; nải chuối
buồng cau tươi ngọt nhất chỉ có
trên quê hương mình... bao năm làm
tôi không "lớn" nổi để thật
sự làm khách ly hương trọn vẹn ở
xứ người.
Tết đã mất trong lòng người
đi chăng ? Khi tự hỏi "mất
chưa" là đã tự trả lời trong nỗi
bâng khuâng nhận ra rằng... đã mất ! Nỗi
thương nhớ sụt sùi xa xứ rất
"mít ướt" đó chỉ còn
là nỗi nhớ - một nỗi nhớ liên
tưởng thuần cảm tính - rằng: Nhớ Tết là nhớ
quê hương; nhớ quê hương là nhớ
Mẹ; và... nhớ làm thơ (rất chi là
Nguyễn Bính) để khỏi làm thinh:
Bóng Mẹ khuất rồi Xuân
vẫn đến
Mưa trời đang rũ
bụi bên sông
Mẹ ơi trong bóng Giao Thừa cũ
Con nhớ ngàn xưa dáng Mẹ
trông...
Tôi yên chí như thế cho
đến năm thứ 5 sống trên đất Mỹ. Lần đầu
tiên đi viếng phố Tàu (China
Town) ở San Francisco trong chiều Ba
Mươi và Mồng Một Tết. Tiếng trống múa
lân và pháo Tết nổ ran khắp các
dãy phố từ nhà nầy sang nhà kia không ngớt. Cảnh sát gốc da trắng
và Á châu tuần tra quanh các khu phố
cười toe với lời chúc xôi đậu
điển hình cho Năm Mới: "Happy New Year - Cung
Hỷ Pạt Chòi !" không ngớt
trên môi. Cả khu phố Tàu rộng lớn tràn
ngập mầu sắc rực rỡ của đèn lồng,
bánh mứt, cây trái, hoa kiểng... ngày
Xuân. Hình ảnh
Chợ Tết và cảnh Ăn Tết của Thượng
Hải, Bắc Kinh, Hồng Kông, Chợ Lớn... đang ngự trị nơi đây. Tết Trung Hoa đã
được gieo trồng và mọc lên trên
đất Mỹ từ những năm 1850, khi từng
đợt người Trung Hoa đặt chân lên
châu Mỹ để làm thuê, làm mướn,
tìm vàng hay lao động làm đường
rầy xe lửa. Hơn một
trăm năm sau mới có bước chân người
Việt Nam
đặt lên xứ nầy. Những hạt mầm Tết
truyền thống Trung Hoa gieo xuống đất nầy
hơn cả trăm năm trước bây giờ
đã mọc lên thành cây đại thụ.
Dường như khi những hạt mầm truyền thống
còn tươi và khi chất phù sa của tấm lòng chưa cạn kiệt
thì những chồi xanh văn hóa có thể
nẩy mầm, đâm nhánh và mọc lên
khỏe mạnh bất cứ nơi đâu.
Tôi thường đi chùa sáng Chủ Nhật
hằng tuần như phần đông những người
Việt khác ở Mỹ.
Nhưng tất cả lễ nghi và
nếp sinh hoạt chùa chiền, tự viện vẫn
là nếp cũ, không có gì khác
hơn ở quê nhà. Sự lập lại
đó không “trồng” mà cũng chẳng
“mọc” nên sức hút không mấy mạnh
để mời gọi những tâm hồn
tươi mới - trẻ trung và chưa quy y -
vào cửa nhà chùa.
Có một đôi lần tôi
không đến chùa vào ngày Chủ Nhật
mà vào ngày thứ Bảy. Gặp lúc
các em trong Gia đình Phật tử đang sinh hoạt. Lẫn trong tiếng Việt
có tiếng Anh, có nụ cười vang hồn
nhiên như nhạc... Rock, có những
điệu bộ tự nhiên rất “Mỹ Việt
đề huề.” Tôi tìm trong phong
thái sinh hoạt và hành xử của các
em một nét gì tươi mới như những
chồi xanh Việt Nam
không “đốn nguyên gốc” từ
quê cũ mang theo mà mọc
lên từ vùng đất nầy. Tôi có cảm
tưởng như đó là một sự
“chuyển cành” tự nhiên và đầy
ý thức.
Tôi học cách trồng Tết
bằng phương pháp chuyển cành. Nghĩa là
cành mới, được chiết ra từ gốc cũ
để ươm vào đất mới. Như khái niệm về Hoa Xuân chẳng
hạn. Tại sao phải dính chặt
vào Hoàng Mai một khi những rừng mai dại
và những vườn mai khôn không thể mọc
được ở bờ đất bên nầy.
Sao lại không thể thay bằng anh đào, hoa
đào, thủy tiên, quince, tulip, huệ, hồng
đại đóa... Tuy những loài hoa Xuân mới
ấy không e ấp như Mai Vàng "xóm cũ"
nhưng vẫn vươn mình nở nang và đầy
tròn mời đón mùa Xuân nơi đây.
Trà, mứt, bánh, trái, thịt
mỡ, dưa hành... câu đối đỏ
tìm đâu cũng có trong các chợ
Tàu và phố Tàu bày bán la liệt. Tại sao phải
chăm bẳm trụ vào "vườn rau trước
ngõ, bụi chuối sau hè" không hề
có ở nơi nầy.
Ngày ấy trên quê hương, khi
nói về Tết, Năm Mới chẳng hạn,
tôi thường chỉ đơn giản nghĩ đến
Tết Ta theo âm lịch và Tết
Tây theo dương lịch cũng gọi là đủ. Mãi cho đến khi sống
chung với các dân tộc
khác giữa cộng đồng thế giới,
chúng ta mới thấy là "hàng xóm láng
giềng không giống như ta." Người
láng giềng Nhật bỏ "tết Ta" theo
"tết Tây" từ năm 1873. Anh hàng xóm Lào,
Miên theo lịch Gregorian để mừng
năm mới vào giữa tháng 4. Chú bạn Hờ-Mông
mừng Tân Niên sau mùa gặt cuối Xuân;
qua Mỹ hết gặt hái thì chọn ngày
"đầu năm" lửng lơ, du mục
không nhất định.
Sự dính mắc là một hệ
lụy nhân sinh.
Khi suy nghĩ về mùa Xuân, về Tết, về
quê hương bên kia và bên nầy tôi
liên tưởng đến đạo Phật, đến đóa sen vật
lý mọc lên từ bùn; đóa sen
tâm lý mọc ra từ lửa; và đóa
sen triết lý mọc từ nụ cười Ca Diếp. Hoa Phật,
cành Phật, mầm Phật trồng đâu cũng
nẩy mầm xanh lá, nhưng chẳng bị dính
mắc từ chốn sinh thành. Sao con người phải bị
dính mắc, phải cột chặt cái tâm
vào thế giới hình tướng thoắt đến,
thoắt đi như Xuân, như Tết.
Phật giáo Việt Nam đến Mỹ
cùng thời với Tết và đang đứng
trước một sự thử thách chưa từng
có trong môi trường xã hội Âu Mỹ.
Văn hóa và nếp nghĩ kinh tế thị
trường đang ngự trị xã hội Âu Mỹ. Phật giáo Đài
Loan, Nhật bản, Tây Tạng, Đại Hàn
đã và đang thâm nhập vào xã hội
phương Tây bằng hai hình thức: Chùa chiền, tự viện
nguy nga, đồ sộ, có tầm cỡ thu hút
được sự quan tâm của người bản
xứ. Bên
cạnh đó, hình thái tu học tăng
đoàn, đa số tu sĩ trẻ được
đào tạo từ các trường đại
học và thông thạo ngoại ngữ. Trong lúc đó đạo
Phật Việt Nam
tại hải ngoại thì có vẻ như
đang phát triển theo chiều
ngược lại.
Chùa chiền Việt Nam phát triển rất
nhiều nhưng phần lớn chưa thoát khỏi
hình thức “thảo am” đơn sơ
và đạm bạc so với các nước
châu Á trong vùng.
Rất có thể đây là hậu quả
trực tiếp của hình thái sinh hoạt
tăng đoàn ngày một mỏng, phân
hóa và phần đông các tu sĩ trẻ
tuổi có khuynh hướng “thầy
cúng” phổ biến hơn là khuynh hướng
thiền sư.
Đất Âu Mỹ không có nguồn mạch
của Hồng Hà, Cửu Long nhưng mầm văn
hóa và văn hiến Việt Nam vẫn có thể
gieo trồng và mọc lên tươi tốt. Thế hệ
đàn anh đã ươm mầm một bản
sắc Việt Nam. Tất nhiên
trong đó có cả mầm Tết, mầm đạo
Phật Việt Nam
nơi đây.
Nhưng cội bồ đề Việt Nam mai kia có phát triển
sum sê đủ cho thế hệ đàn em Việt
Nam
núp bóng mát khi mùa Xuân chín tới
- tất sẽ chuyển sang mùa Hè nóng bức
- hay
không thì vẫn còn là một câu hỏi.
TRẦN KIÊM
ÐOÀN
Chùa
Kim Quang, Sacramento, ngày đầu năm 2007
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)