THA PHƯƠNG CẦU THỰC
(Huy Phương)
Khoảng
năm 1985 ở Saigon, một buổi
sáng ngồi trong tiệm cà phê, tôi thấy
một thanh niên còn trẻ tuổi, nói giọng
Bắc mới, ăn mặc xuềnh xoàng đi từng
bàn một ngửa tay xin tiền
khách trong quán. Ngạc nhiên, tôi hỏi
anh, quê quán nơi đâu, vì sao trẻ tuổi
như thế mà phải đi ăn
xin. Người thanh niên cho tôi biết, vì
làng anh ở ngoài Bắc xa xôi kia quá
nghèo, lại mất mùa liên tiếp không
có cái ăn bỏ vào miệng nên cả
làng phải túa đi khắp nơi, xin ăn qua
ngày. Anh cũng cho biết, miền Bắc
nghèo chưa có cái ăn, cái mặc, tiền
đâu mà họ cho, nên anh và người
làng phải lặn lội vào Nam. Với
một giọng nói rất lạc quan, anh cho biết
trong này, ngửa tay xin tiền
mười người thì đã có năm
sáu người cho. Bức ảnh hai vợ chồng
già, một mù một sáng dẫn dắt nhau
đi ăn xin trên trang bìa cuốn sách
“Chuyện Làng Ngày Ấy” của Võ
Văn Trực là một hình ảnh quen thuộc
vẫn thường thấy ở miền nam sau ngày
30 tháng 4-1975.
Nếu
cả một làng phải bỏ nhà, mồ mả
ông cha, đi xứ khác xin ăn thì
đó là nỗi nhục cho cả làng, cả
huyện và cả những người cầm quyền
đang ngồi trong những căn phòng đầy
đủ tiện nghi tại Hà Nội. Tôi cũng
nghe câu chuyện sau khi chiến thắng miền Nam, một
phái đoàn đại diện chính phủ
Hà Nội sang Âu Châu xin viện trợ, bị
một viên chức ngoại giao nói thẳng
vào mặt: “sao suốt đời các anh cứ
ngửa tay đi xin vậy, không biết xấu hổ
hay sao ?”
Thống
nhất, độc lập, “Mỹ cút”,
“Ngụy nhào” rồi dân Việt vẫn
chịu cái cảnh tha phương cầu thực nhờ
chính sách đưa dân đi vắt mồ
hôi, nước mắt, “bán cơ bắp”
trên khắp thế giới để có miếng
ăn. Ðưa đàn bà con gái đi ở
đợ, làm “oshin” trên toàn thế
giới từ một thành phố nhỏ ở rẻo
đất băng giá Á Châu nào
đó đến vùng đất lửa đạn
Trung Ðông, nếu không “tha phương cầu
thực” là gì ? Thảm thiết chảy
máu mắt nhất, là đàn bà con
gái Việt Nam
tha phương cầu thực không bằng trí tuệ
hay chân tay mà bằng tấm
thân đàn bà cha mẹ sinh ra.
Một
bản tin từ Hà Nội đăng trên tờ
Việt Báo ngày 17/4 ghi rõ là có 300
người dân “tha phương cầu thực”
(nguyên văn) từ các tỉnh biên giới
phía nam như Châu Ðốc, Tây Ninh, vượt
hàng nghìn cây số ra ngồi ở vườn
hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội để
đòi đất, đòi nhà. Biết
là chẳng hy vọng có kết quả gì, họ
vẫn ngồi ở đây hằng tuần lễ, chắc
là có đói khát thì phải xin
ăn tại chỗ, nhờ người Hà Nội
bát cơm, ly nước. Họ có nhà,
có đất nhưng bị bọn CS cướp
ngày lấy mất, đành phải dắt
díu ra đây, đâu phải là bọn
“tha phương cầu thực” ngay trên đất
nước của mình.
Hằng
năm, hàng chục nghìn người Mễ
Tây Cơ vượt biên giới bằng mọi
cách sang Hoa Kỳ để kiếm ăn, vì
chính phủ nước này chỉ cung cấp khoảng
400,000 công việc trên 1, 3 triệu nhân
công. Số còn lại là thất nghiệp và .. tha phương
để đem về cho quê nhà của họ
trung bình 13 tỷ đồng mỗi năm. Tổng Thống
nước này đã không can đảm nhận
trách nhiệm là chính phủ mình
không đủ sức kiếm ra công ăn việc
làm cho dân chúng, không biết xấu hổ,
còn lên án Hoa Kỳ về việc xây
tường ngăn cản, hạn chế cho con dân
mình leo qua đất Mỹ “cầu thực”.
Những người Việt Nam đã bỏ nước
ra đi sau biến cố 30/4, ngày nay hiện diện
trên khắp trái đất này, chắc chắn
không phải vì miếng cơm. Dân miền
Nam
những ngày ấy chưa đói, nhưng
đã biết sợ “hà chính như
mãnh hổ” (chính sách cai
trị khắc nghiệt hơn hổ dữ) nên cha
con đã dắt díu bồng bế nhau lên phi
cơ. Nếu cho những người này bỏ nước
ra đi chỉ vì hoảng loạn trong những
ngày đầu, thì năm mười năm sau những
người còn lại phải thấy cái tốt
đẹp của chế độ, có đâu cả
nước lại tìm đường vượt biển,
bất chấp mất mạng, đói khát cướp
bóc. Cuộc vượt thoát ra
đi kéo dài gần hai mươi năm làm
xúc động lương tâm loài người.
Ngày nay ở xứ người, nhân phẩm của
họ được tôn trọng, an ninh của họ
được bảo vệ và tài năng của
họ được tin dùng, họ không phải
là kẻ bỏ quê hương lang
bạt trên xứ người để kiếm
chút cơm thừa canh cặn. Vậy
mà lớp người này được gọi
là đám “tha phương cầu thực”.
Khổ
thay họ là những người “tha
phương cầu thực tốt bụng” và ở
quê nhà vẫn thường xem họ như con
bò sữa mà nguồn cung cấp hầu như bất
tận.
Có
người nói đùa rằng chế độ
Cộng Sản đã đặt được tại
hải ngoại nhiều bộ đặc trách
các vấn đề làm thay cho chính phủ
trong nước, để nhà nước này rảnh
tay xây sân gôn, khách sạn, nhà
hàng đặc sản hay tuyển mộ thêm
công an, lập toà án và xây nhà
tù. Ở hải ngoại này có Bộ Y Tế
để lo thuốc men, dụng cụ, bác sĩ;
có Bộ Giáo Dục để lo học bổng,
cấp sách vở bút mực, xây trường;
có Bộ Xã Hội để lo đào
giếng làm đường, xây cầu, xin gạo
nấu cơm hay giúp đỡ người tàn tật;
có Bộ Tôn Giáo để lo
đón tiếp các vị chức sắc sang
đây gây quỹ đem tiền về xây
chùa, sửa nhà thờ. Thậm chí có cả
Bộ Thông Tin, Tuyên Truyền đã gầy dựng
được những tờ báo, phát thanh truyền
hình, những chương trình ca nhạc có
“sản phẩm nội địa”, phát
không những CD tuyên truyền trắng trợn cho
chế độ Cộng Sản.
Ôi cái đám “tha phương cầu
thực” tốt bụng mà ngây ngô biết
là chừng nào ! Với ba tỷ
đồng mỗi năm -con số mà chính phủ
miền Nam trước đây đã mơ ước
để có vũ khí ngăn giữ Cộng Sản,
cộng với những hoạt động của
các Phủ, Bộ “tha phương cầu thực”
cung cấp tiền bạc, vật liệu về nước
làm cho chính phủ Cộng Sản hối hận
là không đóng thêm hàng chục
nghìn chiếc tàu sắt để đưa
thêm bọn “chống phá tổ quốc”
ra đi hồi nẫm, để nay có thêm nhiều
nhiều những “núm ruột thân
thương nghìn dặm” gởi tiền về.
Cái lằn ranh giữ hai loại tỵ nạn
chính trị và di dân kinh tế rất rõ
ràng, nhưng nhà nước chỉ muốn có
những loại di dân kinh tế, ra nước
ngoài kiếm ăn, để cứu đói cho
quê nhà chứ đâu muốn có những
người tỵ nạn chính trị chuyên
môn vạch trần cái bất công, xấu xa của
chế độ.
Quí ông muốn phân biệt “tha
phương cầu thực” với tỵ nạn Cộng
Sản thì cứ so sánh cảnh hải ngoại
chống đối Trần Trường mấy năm
trước và cảnh người dân tha
phương cầu thực, sản phẩm của
quý vị gởi sang Nam Dương, Mã Lai phải
nằm đường, bắt chó mèo của
dân địa phương làm thịt mấy
năm trước đây thì rõ.
Ðộng lực chính của một người
Ðông Ðức can đảm vượt qua bức
tường Bá Linh, hay người miền Bắc
bơi qua sông Bến Hải không phải là ổ
bánh mì hay bát cơm. Một triệu người
bỏ miền Bắc sau hiệp định Paris
năm 1954 không thể gọi họ là tha
phương cầu thực, những người bỏ miền
Nam
để chấp nhận đổi chết lấy tự
do cũng không thể là tha phương cầu thực.
Những người hiện sống dưới chế
độ Cộng Sản ở quê nhà đã
hớp những giọt sữa của con bò hải
ngoại không thể cất cao lời mạ lỵ gọi
chúng ta là những kẻ “tha phương cầu
thực”, một lời nói vô ơn, có
tính cách mạ lỵ. Chẳng qua
là chúng ta, những người bỏ nước
ra đi vẫn còn canh cánh bên lòng
tình yêu quê hương, thương xót,
nhẹ dạ nên mới ra nông nỗi này.
HUY PHƯƠNG
(Matthew Tran sưu tầm, Vi
Nguyen chuyển)