Từ tiếng Việt
trên xứ người đến ngôn ngữ
và lưu vong
(T.Vấn)
Tôi yêu tiếng nước
tôi, từ khi mới ra đời...
(Tình ca- Phạm Duy)
1.
Tiếng Việt trên xứ người.
Đó không phải là trăn trở chỉ của
một số người viết lách ở hải
ngoại, mà còn là mối ưu tư
hàng đầu của nhiều những bậc cha mẹ
có con cái sinh trưởng ngoài đất
nước.
Dù có cố gắng cách mấy trong việc
bảo tồn tiếng mẹ đẻ, thì những
người trẻ vẫn cứ xử dụng ngôn ngữ
nơi mình sinh sống như là ngôn ngữ
chính, còn ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng
Việt) trở thành "ngôn ngữ thứ
hai" (second language). Hồi xưa, cha mẹ chúng bỏ
nước ra đi, đến xứ sở mới phải
học ngôn ngữ địa phương như
là ngôn ngữ thứ hai (thí dụ: English as a
second language - ESL - lớp học này chắc chẳng
xa lạ gì với hầu hết thế hệ thứ
nhất người Việt định cư trên
đất Mỹ). Bây giờ thì ngược lại.
Hệt như thế hệ thứ nhất nói tiếng
bản xứ bằng chất giọng đặc sệt
Việt Nam,
thế hệ thứ hai, thứ ba (con cái chúng ta)
nói tiếng Việt bằng chất giọng lơ lớ
của dân bản xứ. Lớp già chúng ta
khi phát biểu một câu nói bằng tiếng
bản xứ, vốn có thói quen suy nghĩ ý
tưởng của câu nói ấy bằng tiếng
Việt ở trong đầu trước, rồi mới
chuyển chúng sang tiếng bản xứ khi nói
chuyện (lâu hay mau của tiến trình chuyển
ngữ ấy tùy thuộc vào khả năng sinh
ngữ riêng từng người). Còn con cháu
chúng ta khi cần nói một câu bằng tiếng
Việt, phần lớn cũng sẽ có thói quen
như cha mẹ chúng, nhưng ngược lại: suy
nghĩ bằng tiếng bản xứ, rồi chuyển
ý tưởng ấy sang tiếng Việt.
Đấy là nói về những người
trẻ còn nói được tiếng Việt,
còn đọc được tiếng Việt,
còn viết được tiếng Việt. Còn
những người, thậm chí đến không
nói được tiếng Việt nữa thì sao
? Màu tóc màu da Việt Nam khiến những
người trẻ ấy không bao giờ hội nhập
được hoàn toàn vào xã hội bản
xứ, mặt khác, không nói được
ngôn ngữ mẹ đẻ khiến họ trở
nên xa lạ với đất nước vốn
là nơi nguồn gốc của họ phát sinh. Kết
cuộc, họ trở thành những kẻ đứng
bên lề. Hình như, có rất nhiều bậc
cha mẹ chúng ta coi nhẹ cái bi kịch này
của con em mình. Rồi đây, cái giá phải
trả cho sự sai lầm ấy không phải là
nhỏ.
Một cách tình cờ, tôi đọc
được bài thơ trích dưới
đây của một cô gái Việt nam, theo cha
mẹ lập nghiệp ở Mỹ năm cô mới
lên 13 tuổi. Và đây là tâm
tình của cô gái:
người ta nói:
em là thi sĩ Việt nam của thế
hệ cuối cùng
vì sau em,
tiếng Việt sẽ chết.
tiếng Việt sẽ chết
tôi nghe nói và không tin,
khi trở về phòng ngủ
bên ngoài Little Saigon,
đặt mình xuống bên cạnh
người tình da trắng,
người rất yêu tôi
và yêu dân tộc tôi.
sau khi thỏ thẻ một câu 'I
love you',
bỗng nhiên giận vô cớ
và làm tình với hắn
trong tất cả căm hận của giống người
da vàng.
tiếng Việt sẽ chết
tôi nghe nói và không tin,
khi hớn hở tới hộp
đêm gặp bạn bè,
những người bạn sinh ở
Phan Rang, Củ Chi, Sài Gòn, Đà Nẵng,
nhưng mang những tên Anh ngữ
Pháp ngữ như Elle, Taylur, Nik, Etienne.
cả một đêm vui chơi nhậu
nhẹt nhảy nhót,
tôi không một lần phát
âm giọng mẹ đẻ.
khi hôn chia tay, tôi vang vửa một
lời 'ciao'(1)
không phải chào.
tiếng Việt sẽ chết
tôi nghe nói và không tin,
khi len lỏi giữa dòng xe buổi
chiều,
chợt vui mừng khi bỗng thấy bảng
quảng cáo tiệm quần áo mới mở mang
tên "Ra",
để rồi chỉ thất vọng
khi hiểu rằng "ra" có nghĩa "đời
sống" trong ngôn ngữ Ai Cập,
không phải tiếng nước
tôi.
............ .....
tiếng Việt sẽ chết
tôi nghe nói và không tin.
(Đỗ Lê Anh Đào)
2.
Ngôn ngữ và lưu vong
Ngày 12 tháng 10 năm 2006, Hàn Lâm Viện
Thụy Điển công bố người đọat
giải Nobel về văn chương: Nhà văn
người Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk. Bản tuyên
bố quyết định trao giải cho ông của
Hàn Lâm Viện Thụy Điển đặc biệt
nhấn mạnh đến "cuộc
truy tìm cái mảnh hồn u uẩn của
thành phố quê hương" bàng bạc trong các tác phẩm
của nhà văn lưu vong này. Trả lời cuộc
phỏng vấn qua điện thọai của viên Tổng
biên tập Trang Web Nobelprize.org chỉ vài giờ
sau khi bản tin được công bố, Pamuk
đã nói rằng thành phố Istanbul (thủ
đô Thổ nhĩ kỳ) nằm chênh vênh giữa
biên giới của Đông và Tây, nó
vừa huyền bí, vừa lạ lùng và rất
không khoan nhượng. Mặt khác, thành phố
đó cũng là một trong những thành phố
hiện đại sớm sủa của thế giới
mà tính hiện đại đã suy tàn
nhanh hơn là người ta tưởng. Ông cho rằng
sự đổ nát của quá khứ cũng
góp phần dựng nền cái hồn u uẩn ấy,
cùng với sự nghèo đói.
Đọc những câu trả lời của
nhà văn vừa đọat giải Nobel về
văn chương, tôi lại chợt nhớ đến
những thân phận Việt Nam lưu vong. 30 năm nay,
cái mảnh hồn u uẩn của một quê
hương bỏ lại sau lưng vẫn cứ bàng
bạc trong hầu hết nhiều tác phẩm
thành danh của dòng văn học hải ngọai.
Cũng những trăn trở về một cội rễ
ngày một phai nhạt dần trong những lớp
người trẻ sinh đẻ nơi xứ người,
hai chân đứng ở trên hai mảnh đất
Đông và Tây, nhưng cái chân
phía bên phía Tây dường như vững
chãi hơn, có ảnh hưởng hơn và sớm
muộn gì cũng làm nghiêng ngả cái
chân bên phía Đông.
Ở một điểm khác, sự thành
công của Pamuk, theo ghi nhận của Hàn Lâm
Viện Thụy Điển là cái cái
cách nhà văn đặt vấn đề
và giải quyết những xung đột của
các nền văn hóa khác nhau mà Thổ
Nhĩ Kỳ tượng trưng cho nền văn hóa
nằm giữa hai lằn đạn. Theo Pamuk, Văn
hóa (thế giới) là một sự pha trộn.
Và thành phố quê hương của ông
(Istanbul)
là sự pha trộn ấy.
Về mặt tinh thần, những cộng đồng
người Việt sinh sống khắp nơi trên thế
giới, theo định nghĩa văn hóa là sự
pha trộn của Pamuk, cũng nằm trong phạm trù
ấy. Hơn thế nữa, sự pha trộn còn
đi sâu vào ngõ ngách từng gia
đình, qua cách phục sức, thực phẩm
ăn uống ngày, cách giao tế, ngôn ngữ
xử dụng. Chỉ cần vào sinh hoạt chung với
bất cứ gia đình người Việt nào
sống ở hải ngoại, sẽ thấy rõ sự
pha trộn "văn hóa" rất điển
hình cho thế giới toàn cầu hóa
ngày nay.
Nhưng liệu người Việt chúng ta
có giải quyết được những xung đột
văn hóa ấy một cách hợp lý
và cân bằng không, hay, khi các bậc
trưởng thượng trong gia đình nằm xuống,
con cháu sẽ chôn theo quan tài họ những
"tàn dư cũ kỹ" mà, theo họ, lẽ
ra chúng phải được cất vào những
ngăn kéo lịch sử từ lâu rồi.
Cũng trong cuộc phỏng vấn chớp
nhoáng của viên Tổng biên tập trang Web
Nobelprize.Org, vấn đề ngôn ngữ đã
được đặt ra và trả lời rất
trung thực giữa hai bên người hỏi và
người trả lời. Pamuk nhấn mạnh đến
ngôn ngữ mà ông dùng để diễn tả
mảnh hồn u uẩn của quê hương ông,
đó là tiếng Thổ nhĩ kỳ.
Không thể khác được, vì viết
là kết quả của suy tưởng. Mà suy
tưởng kết thành bởi hai yếu tố:
ngôn ngữ và hình ảnh. Do đó,
dù ông là nhà văn lưu vong, có
đôi tác phẩm viết bằng Anh ngữ,
nhưng căn bản nhất để xác định
căn cước một nhà văn phải là
ngôn ngữ ông ta xử dụng. Nói cách
khác, phải là ngôn ngữ mẹ đẻ.
Vài năm sau, có thể sẽ có một
nhà văn Việt Nam
được trao giải văn chương Nobel. Nếu
đó là một nhà văn Việt Nam sống
lưu vong, thì chắc hẳn - như nhà văn
Thổ nhĩ Kỳ 54 tuổi nhận định - phải
là người xử dụng tiếng Việt là
ngôn ngữ chính trong các tác phẩm quan
trọng nhất của mình.
3.
Ngôn ngữ vốn luôn luôn chuyển
động. Những từ ngữ mới được
sinh ra theo với sự phát triển của cuộc sống,
đồng thời, một số từ ngữ cũng
chìm dần vào quên lãng. Đó cũng
chỉ là định luật đào thải trong
lĩnh vực văn hóa. Số phận của tiếng
Việt ở ngoài đất nước cũng
không thoát khỏi định luật ấy. Chỉ
khác một điều là vì nó tồn tại
ngoài môi trường quen thuộc, nên số từ
ngữ mới được sinh ra thì ít,
mà số từ ngữ bị bỏ quên không
dùng đến thì lại hơi .. nhiều.
Chính bản thân tôi, đôi lúc
đã phải lúng túng trong việc tìm một
từ chính xác để dẫn giải một vấn
đề nào đó. Đó là hệ quả
của việc sống xa quê hương, không tiếp
xúc thường xuyên với những cái rất
vật chất, rất đời thường: nước,
đất, thực phẩm, con người, những thứ
tạo nên bản sắc một ngôn ngữ, một
nền văn hóa. Đó là những khó
khăn trong việc duy trì tiếng mẹ đẻ ở
những người thuộc thế hệ đi trước,
đến xứ người sinh sống khi ngôn ngữ
ấy đã ăn vào da thịt, vào trí
não.
Ở những người trẻ sinh trưởng tại
hải ngoại, vấn đề này tưởng chừng
như sẽ không có lối ra. Trong nhiều gia
đình, thức ăn truyền thống cho lũ trẻ
trong nhà không còn là cá kho, dưa
xào, canh ngót nữa. Thay vào đó,
là hambuger, french fries, coke. Những thứ này tuy vẫn
có thể dịch sang tiếng Việt dễ dàng
nhưng một phần do thói quen, một phần
khác - quan trọng hơn - tiếng Việt (như
bánh thịt băm, khoai tây chiên, nước
ngọt) không diễn tả được chính
xác, không tạo được cái hồn cho
món ăn được nói đến. Thế
nên, lựa chọn cuối cùng vẫn là
hamburger, french fries, coke. Đó mới chỉ là
khía cạnh ăn uống trong môi trường sống
hàng ngày. Ở khía cạnh học hành,
chơi đùa, giao tiếp bè bạn của những
người trẻ, vấn đề ngôn ngữ (mẹ
đẻ hay bản xứ) thậm chí còn nổi
cộm hơn nữa. Và thế là, tiếng mẹ
đẻ cứ từ từ đội nón ra khỏi
nhà mà không cần tới tác động
của định luật đào thải xua đuổi.
Tính chất pha trộn văn hóa ấy,
như vết dầu loang, đi từ gia đình ra tới
cộng đồng, kéo theo sự èo uột của
tiếng Việt trên xứ người. Chả
trách gì cô gái trẻ vừa buồn
bã kêu lên:
tiếng Việt sẽ chết
tôi nghe nói và không tin.
Cũng nên công bằng ghi nhận những nỗ
lực rất đáng khích lệ của các
trung tâm giảng dạy Việt ngữ có mặt
khắp nơi ở những thành phố lớn nhỏ
nơi có người Việt cư ngụ, các
nhà thờ, chùa chiền, ngoài công việc
thờ phượng tôn giáo còn dùng uy
tín, phương tiện sẵn có của
mình để giúp các người trẻ
có cơ hội rèn luyện tiếng mẹ đẻ,
qua đó, làm quen và tìm hiểu thêm
văn hóa tổ tiên, những lề thói tập
tục cần lưu giữ, ít nhất là những
gì cha mẹ chúng khi rời quê hương
đã mang theo.
4.
Ngôn ngữ, cùng với lối phục sức
và cách chế biến thực phẩm là biểu
trưng rõ nét nhất cho một dân tộc
trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay,
mà cụ thể nhất là ở môi trường
sống ngoài đất nước của những
người thuộc dân tộc ấy. Người Việt
sống xa quê hương, coi ngôn ngữ Việt như là căn cước
về nguồn gốc. Quan
trọng hơn, tiếng Việt ngoài đất
nước còn giữ vai trò chiếc cầu nối
một người xa xứ với quê hương
đất nước mình. Không nói được
tiếng Việt, không đọc được tiếng
Việt, không viết được tiếng Việt
tức là cây cầu nối ấy không
còn nữa.
Tôi không dám nghĩ đến một
ngày nào trong tương lai, 30 năm, 50 năm sau,
cái khái niệm quê hương Việt Nam
bên kia nửa vòng quay trái đất chỉ
còn là một khái niệm rất mơ hồ,
rồi từ từ biến thành xa lạ, cho đến
khi nó biến mất hẳn khỏi tâm tưởng
người Việt (thế hệ thứ ba, thứ
tư) sống ngoài đất nước.
Tiếng Việt chết, cũng có nghĩa
là người Việt xa xứ không còn một
mảnh đất để quay về. Có ai dám
nghĩ đến và tin rằng điều ấy sẽ
xẩy ra?
T.Vấn
(1) ciao - tiếng Ý mang nghĩa chào hay tạm
biệt.
(Bai chuyen)