Bà Bắc Vô Nam Tìm
Chồng
(NHÃ CA)
Đó là một bà vợ
Bắc kỳ có chồng tập kết từng một
thời quen mặt với khu phố Tự Do- Lê
Thánh Tôn.
Không ai cần biết tên bà ta là gì,
nghe nói giọng Bắc thì gọi là bà
Bắc. Bà ta nhỏ thó, gầy gò, khuôn
mặt nhọn hoắt vì hai gò má cao
quá, có hàm răng hô khó khép miệng,
lúc nào cũng như cười mà không
phải cười.
Thời đánh Mỹ cứu nước,
ông chồng tập kết của bà phải trở
lại miền Nam. Đại thắng
mùa xuân, ổng về thành phố gặp lại
vợ cũ, vậy là cặp lại, bà vợ Bắc
kỳ ra rìa.
Đôi vợ chồng cũ
được cấp hai phòng lớn trên một
tòa bin-đinh góc đường Tự Do-Lê
Thánh Tôn. Vợ cũ
còn tài sản, mua cho chồng chiếc xe Honda kiểu đàn bà. Bà vợ Bắc Kỳ
vô Nam dành chồng, bà đã ở
lì khu xóm này cả năm, đi kiện,
ăn vạ, làm đủ kiểu, chửi xiên xỏ,
nói móc nghéo, cả hai vẫn trơ trơ. Rồi chính bà ta phải lặng lẽ
biến mất.
Bẵng đi một thời gian,
bà Bắc xuất hiện lại trên đường
Tự Do. Vẫn
chiếc quần đen, chỉ cũ hơn, sờn
rách hơn và cái áo nâu thêm nhiều
miếng vá hơn, vải có co rút mà
người mặc càng lúc càng thấy rộng,
chỉ là bà đã gầy tới không
còn cách nào để gầy hơn.
Khuôn mặt, hàm răng hô như mái
hiên tơi tả, thêm nỗi đau không
khép miệng được, và thay vì
cái mếu, thì nó đã trơ răng
ra, mới nhìn, thoạt giống cái miệng cười !
Một buổi sáng cuối năm, khi chị
Mùi mở cửa lấy thùng rác vào
thì đã thấy bà Bắc ngồi lù
lù trước cửa.
"Mèn ơi, dì vô khi nào vậy ?"
Bà Bắc hỏi:
"Bà Muội dậy chưa?"
Bà Bắc, trước đây hay "ngồi
dính" mấy bậc cấp này để
ngó cho rõ "kẻ đoạt chồng",
đã thường kể lể tâm sự với
bà Muội. Khi còn cơm thừa,
cá cặn, bà Muội lén đem cho người
đàn bà khốn khổ này.
"Dì hổng biết gì hết trơn sao ? Bà cháu ở riêng với
cô Hợp rồi..."
Người đàn bà chưng
hửng:
"Thế à ?"
"Dạ. Cô Hợp cháu lóng này ăn nên làm ra. Cô là ca sĩ
nổi tiếng lắm, có hình đăng nhựt trình
đó, dì..."
Có tiếng trong nhà réo gọi, bà
Bắc nhìn vô, bóng dáng hai tiểu thư thấp thoáng, cô nào cũng
nhớn quá là nhớn.
"Hở một chút là hổng được,
kêu réo om sòm..."
Chị Mùi lắc đầu,
kéo tấm cửa sắt lại.
Còn lâu con đường
này mới có sinh hoạt. Cũng còn lâu,
bà Ba bán thuốc lá mới khệ nệ
bưng sạp ra, đặt trước cửa
bin-đinh. Bà nhớ, ông thường
đi làm trễ. Ông vẫn
làm ở cơ quan báo chí gì đó.
Dáng người ông rắn rỏi,
tóc hoa râm, áo sơ mi trắng, quần xanh,
trông cứ trẻ trung hoài. Thấy ông dắt
chiếc xe Honda nữ, sao mà
giàu có sang trọng quá. Nhiều khi thấy trên
môi ông gắn điếu thuốc, khói bay vu vơ, bà hâm mộ quá, những
lời cay đắng không làm sao thốt ra
được. Chỉ khi nào có con mẹ, quần
xoa đen, lót tót vội theo
và nhảy ngồi đằng sau xe, lúc
đó, máu ghen mới dâng lên, bóp nghẹt
cổ, và bà nói bậy nói bạ, chửi
bới như con mẹ điên.
"Hê, bà Bắc vô khi nào dzậy ?"
Bảy cà tong đây mà. Còn hỏi
nữa:
"Tính dàn trận nữa sao
đây, bà."
Bà Bắc lắc đầu. Thua lâu rồi. Chẳng qua, lết vô đây vì uất,
vì hận, và cũng vì ở ngoài
không có công việc gì để sống
nữa. Căn hộ được chia như
cái chuồng chim, tù túng, khi đứa con
dâu có thêm một đứa con thì
bà không còn chỗ đặt chân.
"Đi đâu sớm thế
?"
"Đi làm. Thôi tui đi kẻo trễ
xe buýt nghen chị."
Bảy cà tong tất tưởi bước
đi. Bà Bắc nhìn theo,
cái miệng cười há hốc thèm thuồng. Để vào được
đến đây, lần này, bà ta
đã phải ăn xin ngay từ trên xe hỏa.
Bà Bắc tiếp tục thả bộ
qua công viên. Dân bụi đã đi kiếm sống,
chỉ còn con Quê đang cho con bú bình sữa.
Con này chị biết, nó đã rà
mòn đường Tự Do này rồi.
"Mày đẻ rồi hả
?"
Con Quê nhìn lên. Người
đàn bà này đâu xa lạ gì.
Trước đây nó cũng
không thích bà ta. Lúc
nào cũng thấy bà ta ngồi bệt xuống
đất, trước, hoặc cạnh bin-đinh, chửi
xiên chửi xéo nhức cả đầu.
Mà sao, mới đây, trông bà đã bệ
rạc tiều tụy vậy ?
"Giai hay gái, hả ? Thằng
cu hay cái đĩ thế ?"
Nghe hỏi tới Bò Lai, con Quê thấy vui.
"Thằng cu, thím. Nè, thím ngó..."
"Ối giời ! Thằng cu
kháu quá nhỉ ? Mà
"lày", tớ hỏi không phải đừng
“rận”, "ló nai” Tây gì thế ?"
"Biết đâu, thím."
Giọng người đàn bà có
chút ghen thầm:
"Mày mà cũng "nấy" được
Tây cơ à ?"
Con Quê suýt cười lớn. Ối giời,
chỉ mong là đừng dính, đừng đẻ,
chớ để bình thường thì đường
Tự Do này mấy năm nay, con lai các nước
chạy đầy như cóc nhảy trời mưa ! Báu gì !
Nó hỏi:
"Thím muốn có một đứa hôn ? Muốn thì đẻ".
"Tao ? Mày nói cái
gì thế ?"
"Phải, thím cũng hết đẻ
được rồi !"
Thấy con Quê nói chuyện hay hay, bà Bắc
ngồi xuống.
"Mày cho tao "bế"
nó một chút.
Kháu ơi "nà" kháu, xinh quá
"nà" xinh chứ "nị"... Cho bà bế
tí nào..."
Làm như đứa con lai nó khác con
người mình, bà phủi phủi vạt
áo, chùi hai tay vào nhau, rồi
đưa tay ra. Bế cũng nhẹ
thôi, không dám ôm siết, ngắm
nghía. Thằng bé không được mũm
mĩm lắm, da trắng như trứng gà bóc, mắt
xanh mà lông mi thưa, màu vàng như
tóc. Bà nghĩ, ở ngoài Bắc, nhà
nước nhồi nhét bắt nhân dân
ghét thằng Mỹ, thử hỏi, ai ngoài miệng
không phải nói "ghét", nhưng nếu
bà có một đứa cháu như thế
này thì ước mười đời cũng
không có. Nghĩ cũng hãi, nếu con gái
bà mà đẻ ra một thằng cu như
này, ngày trước ở Bắc thì có
yên mà sống không đã nào,
nói gì việc lo cho cháu ?
Mà thằng nhỏ chắc gì sống nổi
mà lo !
"Nó đẹp quá "nà" đẹp...
Cho bà hít một cái
"lào". Bố đĩ
nhà mày, biết cười chưa nào.
Biết cười một cái cho bà ngắm, hả,
hả...?"
Bà Bắc say sưa với thằng bé. Con
Quê thấy bà nựng nịu con mình cũng bớt
dần ác cảm.
"Thím mới vô ?"
"Ừ. ."
"Sao thím không ở ngoải
cho khỏe, vô ra hoài tốn tiền lắm."
Đang vui vẻ nựng nịu thằng bé, mặt người đàn
bà héo úa.
"Ở ngoài đó không
biết lấy cái "rì" mà ăn."
"Vô đây cũng vậy, không
nhà cửa, khổ lắm, thím biết
?"
Người đàn bà thở
dài. Bà kể:
"Ở ngoài đó, tao cũng khổ lắm,
đói là đằng khác mầy ơi ! Có căn hộ ở quê,
phòng không ra phòng, con giai, con dâu, cháu,
ba người đã không quay trở
được. Chúng nó cũng khổ, mà
mày coi, cha chúng nó như thế, đi
Hon-đa đẹp "nà" đẹp", ăn mặc sang như lãnh đạo,
mê con mẹ "cướp chồng" tao, có
màng gì đến con với cháu..."
"Hồi lấy bà có làm giấy tờ
không ? Sao bà không đi kiện ?"
"Ối giời ! Hồi
đó đánh nhau gay lắm mầy ơi. Tao lấy ông là đám cưới tập
thể, có cơ quan chứng nhận đàng
hoàng. Tao có hỏi cấp trên, họ trả
nhời, ông ấy cũng có hôn thú với
người vợ trong Nam,
tập kết ra Bắc lấy vợ nữa là do
hoàn cảnh chiến tranh, “nà” đảng
chỉ đạo. Nay thống nhất,
ông ấy không bị tội, mà kiện
"rì" mày ơi, đời này đồng
bạc đâm xoạt tờ giấy, ai "nại
nà" không biết."
Con Quê cảm thấy xót thương người
đàn bà Bắc, mỗi người, mỗi
nơi, khổ vì những cảnh ngộ khác
nhau.
"Vô đây, thím lấy gì sống ?"
"Tao cũng chưa biết lấy
"rì" sống. Ở ngoài, tao nhờ viết cả chục
đơn kiện không ở đâu xử hết.
Ức quá, tao vô đây, ‘nần này
nà’ tao liều mạng... "
"Rồi thím ăn ngủ ở đâu ?"
"Thật giời có mắt, cái bà
Ba bán thuốc lá bên kia
kìa, mày biết không, nói ra
"nà" người cùng "nàng" với
tao khi xưa. Không có bà ấy
tao "nàm" sao dám vô đây. Ối
này, nó bĩnh ra rồi đây, mày
có ngửi thấy mùi "rì" không ?"
Con Quê đón lấy thằng nhỏ. Cái áo cũ quấn đã muốn
thấm ướt ra ngoài. Nó lấy
đồ thay cho con. Coi, bả ngồi
chòm hỏm, mắt nhìn chăm chú soi
mói. Bộ cứt con lai khác cứt con
người mình sao mà ngó dữ thần vậy,
thiếu điều đưa ngón tay
quẹt cho vào miệng thử. Con Quê buồn
cười sự thật thà của người
đàn bà Bắc nên khi cúi xuống gầm
ghế đá, lôi ra ổ bánh mì thịt
để nguội từ hôm qua, của thằng
Được gửi cho, nó bẻ ổ bánh ra
làm đôi:
"Thím ăn một miếng
đi. Đói bụng lắm phải hôn
?"
Bà Bắc cười, có
chút ngượng ngập.
"Không... không thấy đói..."
"Nhìn thím là biết. Cái bụng xẹp lép
hà... Thôi, cầm đi, còn
ngượng gì chớ. Tui mời
thiệt à nghen."
Vẫn còn cái thói giữ kẽ của
người miền Bắc:
"Không dám đâu."
Con Quê xởi lởi kiểu miền Nam "ruột
để ngoài da":
"Ăn đi mà, mời hoài mệt quá !"
Thì ra vậy, không nề
hà, không kiểu cách. Bà Bắc nhìn con bé cụt
một tay, bế đứa con lai
trên cánh tay còn lại, mặt mày khắc
khổ, thiếu ăn, ốm đói, nhưng vẫn
có một vẻ gì nhẫn nhịn, chịu đựng.
Thương con bé, bà cầm tay
thằng nhỏ hít hít:
"Con mẹ mày
tốt quá !"
"Bữa nào
không có chỗ, thím qua đây ngủ với
tui nghen."
"Tao sợ..."
"Sợ gì ? Tui đây nè, cũng
không nhà không cửa, tui ở đây ai
làm gì tui. Thím biết, nhà của trời,
của đất cho mình chớ của ai mà sợ,
thím."
Nói thì phải.
Nhưng sự thật không có dễ vậy
đâu, bà Bắc biết. Bà cảm kích
con Quê lắm.
"Nuôi thím
thì không được, tụi này cũng
đói lắm, nhưng chỗ ngủ thì tụi
này nhường. Tui bảo đảm cho thím, hổng
sao đâu, đừng sợ."
Nhớ ra, hồi
trước nó ăn ở với một thằng.
Bà ta có nhìn thấy, một đứa
đi, một đứa bò, giỡn hớt, đuổi
nhau, cười cợt nối đuôi khít rịt
trên đường phố.
"Thằng kia
đâu rồi ?"
Con Quê chưa kịp
nhớ ra:
"Thằng nào,
thím".
"Cái thằng
nó chỉ bò. Sao không thấy nó đâu ?"
À, thằng
Bò. Con Quê nuốt một tiếng thở ra. Lại
có người nhắc. Nó ở đâu,
có ông trời biết. Nó cũng từng ngửa
mặt lên trời, kêu, xin giúp nó. Ông
cũng làm ngơ rồi. Còn có tin nó
được đưa đi Mỹ chữa bệnh. Bệnh
gì nó chớ, có tật trời sinh thì
còn chữa gì nữa. Chuyện hoang đường !
"Không biết,
thím."
"Bộ nó bỏ
mày hở ? Sao thằng đó
độc thế ?"
"Không phải
đâu thím ơi. Bị bắt. Công an bắt
đó."
"Bị bắt ? "nàm"
sao mà tin được. Giời ơi, nó
"nàm rì" mà bị bắt chứ ? Bắt thì cũng phải thả..."
"Tui biết
đâu, thím. Bị bắt, ai cũng thấy, chỉ
không thấy về..."
Người
đàn bà thở dài. Sao cảnh ở
đâu cũng vậy, trong này hay ngoài kia cũng
đầy người khổ như thế. Chịu
thôi. Thấy con Quê cứ thở ra. Thở ra, nuốt
vô, đã quá thường đối với
những người như chị.
*
Khi bà Bắc trở
lại góc đường Tự Do-Lê Thánh
Tôn thì dì Ba đã dọn xong hộp thuốc
lá. Dì Ba ngồi đằng sau hộp thuốc,
gác một chân lên kiểu "nước lụt",
ngó mông lung. Thấy người đàn
bà bất thần hiện ra, khuôn mặt dì
Ba không được vui.
"Lại vào rồi
hả ?"
"Vâng."
"Bà thiệt
chưa tởn ? Người ta
đã không ngó ngàng, làm cách chi
cũng trơ trơ vậy thôi..."
Giọng dì Ba nửa
Bắc nửa Nam.
"Ở ngoài
đó sống không nổi..."
"Vô đây
sống nổi ? Bà không biết
thì thôi. Tui vì bà cũng bị cảnh
cáo mấy lần. Lần này không yên với
họ đâu."
Người
đàn bà cúi đầu. Mấy sợi
tóc bạc không ăn nếp trong vành khăn
rung rung. Dì Ba lại thương cảm, thở
dài:
"Đã
nói rồi, kiện tụng còn chưa đi tới
đâu. Người ta làm lớn, nhà báo
kia đấy bà ạ... Gớm, hà tiện vắt
cổ chày ra nước. Lâu lâu, ve chai cân
báo “Sài Gòn Giải Phóng”,, ghính một ghính đi không nổi.
Tiền không đó. Bà lấy cái gì
ra mà so với người ta..."
Thấy người bạn
cùng quê cúi đầu, khuôn mặt khổ
ải, dì Ba lại sót, giận:
"Đã
nói ở ngoài đó cho yên. Làm
cái gì được nữa mà ra với
vô. Nó có sót có thương gì không ? Tui thấy là... Còn nữa,
con mẹ còn nói xỏ nói xiên tui... a,
dám chứa dân lậu, không giấy tờ,
không hộ khẩu. Con này cũng đừng
tưởng, không vừa. Xăn quần, chống tay vặt
lại liền.. vặt
cho một cái là im re, tưởng giỏi...Thấy
bất bằng, không nhảy vô tức chết
!"
Còn nữa, hễ thấy
bà Bắc này là dì Ba nhớ quê:
"Ngoài ra sao,
có khá hơn không ?"
"Ôi dào,
khá cái "rì" mà khá. Chúng
"ló" giàu lên, dân mới
"nà" khổ nhiều chứ "nị"..."
"Ruộng ngoài
đó, có máy cày chưa
?"
"Máy
? Máy "nà" cái "rì" ? Con trâu còn không có
mà cày, người làm trâu cày thế
thôi... "
Như sợ dì Ba
không hiểu ra, bà tiếp:
"Mới
đây, bên Tàu mua móng trâu giá cao
lắm, vậy là ở quê mình, chặt, lột
móng trâu đem qua biên giới bán,
trâu còn mấy con !"
"Mua làm gì
vậy ?"
"Tui
"nàm" sao biết được. Chỉ biết
giá cao lắm, bốn bộ móng chân mua
giá nhời hơn bán một con trâu mới
"nà nạ"..."
Lạ quá
! Nhưng cả hai người đàn bà
đều không hiểu. Họ nói qua chuyện
khác. Đến trưa, dì Ba mua bánh mì
ăn, bà Bắc lại được nửa ổ.
Cả buổi chiều,
bà Bắc đi xuống đi lên con đường
Tự Do, ngắm nhìn dãy phố quen thuộc với
những tiệm buôn. Đã thay đổi nhiều.
Vài tiệm đóng cửa, vài tiệm
đã thay đổi mặt hàng khác. Xuống
nữa là khách sạn, nhiều Tây Mỹ ra
vô quá. Bộ thằng Mỹ nó trở lại
rồi sao ? Theo sự hiểu biết của
bà thì nhà nước thù thằng Mỹ
lắm, đời nào để cho nó sang nước
mình đi khơi khơi như thế. Bà nhớ
ở ngoài Bắc hồi đó, bắt được
một thằng Mỹ giặc lái là trói
gô lại, dẫn đi khắp đường
làng quê, hô hào, vận động bà
con căm thù, ném đá. Người vận
động là ông chồng của bà chứ ai ? Bà nghe chồng, đã ném
đá, nhiều hòn đá đã ném
trúng. .. mà kể cũng lạ,
ném trúng mà bà không thấy vui,
còn thấy chùn tay... Không lẽ trở mặt
nhanh như vậy, chắc là mấy ông
"Liên Xô" cố vấn vĩ đại
thôi. Bà ngó hoài từng tốp đi ra
đi vô khách sạn, như con mán lạc chợ !
Bà canh giờ trở
lại chỗ bán thuốc lá của dì Ba.
Trước giờ công nhân viên đi làm
về thì không trật được. Phải
nhìn cho rõ coi con đàn bà giành chồng
ra làm sao, thằng đàn ông phụ bạc thế
nào. Dì Ba hỏi chuyện, bà không định
tâm, trả lời tầm bậy tầm bạ.
Dì Ba lắc đầu:
"Khổ, già
hai thứ tóc mà còn chưa muốn yên.
Ghen cái gì nữa mà ghen!"
Không uổng
công chờ. Chiếc xe Honda phụ nữ từ
ngã tư Lê Thánh Tôn quẹo lại, tấp
vô lề. Ông đó. Bà run lên. Phải
mà, con người đó, cánh tay đó,
đã từng ôm ấp bà suốt mười
mấy năm với cuộc sống gian truân,
cùng khổ. Vậy mà bây giờ, con người
đã khác đi, béo tốt, tươi tắn.
Còn con đàn bà đâu không thấy ? Chắc giờ này nó
đang dọn mâm cơm ở trên lầu cao kia.
Bà đứng như trời trồng nhìn ông
dẫn chiếc xe lên lề. Ông chợt nhìn
thấy bà, ánh mắt vừa thoáng gặp
đã quay đi. Bà chạy lại:
"Ông..."
Ánh mắt quắc
lên:
"Lại vô nữa,
vô đây làm cái gì
?"
"Tui..."
"Hừ. Đừng
có lải nhải…”
Lạnh lẽo,
tàn nhẫn, ông dẫn chiếc xe vào bên
trong nhà. Người đàn bà lùi lại
đứng kéo vạt áo nâu rách lên
chùi nước mắt.
Hôm đó,
bà Bắc lang thang cả buổi tối, buồn
bã, thất thần. Bà cũng không ngờ ma
đưa lối quỷ dẫn đường gì
mà khi gặp ông, miệng bà cứ gọi, cứ
hỏi... Bà còn biết con đường
nào để đi. Về quê, con trai trăm bề
vật lộn với sinh kế, con dâu phàn
nàn thêm một miệng ăn, thằng cháu
thì có lần chửi
bà "Đéo mẹ mày, không bà nội
bà ngoại gì hết”. Phân bua thì con
trai đấm ngực kêu trời, con dâu đay
nghiến "Bà không ra bà, cháu nó mới
hỗn".
Đường phố
buổi tối nhộn nhịp. Qua một con đường,
bà nghe tiếng nhạc inh tai nhức óc. Toàn
là người ăn vận lịch sự, con trai con
gái từng tốp. Con gái ở trong này
ăn mặc như vậy sao ? Váy
ngắn cũn cỡn, áo mỏng bày cả da,
còn bá vai bá cổ con trai, cười
đùa, giỡn hớt. Bà thấy chói mắt,
xót trong bụng quá... Bà lại lầm lũi
đi ngược trở lại, lúc băng qua
đường ở nhà hát thành phố,
suýt chút bà bị một đoàn xe đạp
đang đua tông phải. Bà nhảy được
lên lề đường, mặt tái xanh mà
trống ngực đập liên hồi.
Đứng một
lúc cho cơn sợ giảm đi, bà mới lo
đi tìm chỗ ngủ. Lúc này đã
khuya, chắc dì Ba ngon giấc lâu rồi. Bà
nhớ tới con Quê, vội bước tới
công viên.
Khu công viên tối
thui, bà con ngủ cả rồi chứ gì?
Càng hay, sẽ không ai nhìn thấy bà ta.
Bà Bắc cẩn thận bước lên mấy bậc
cấp. Có mấy con gì nhúc nhích từng
cục ở cạnh bụi cây? Bà định thần
nhìn xuống, suýt nữa kêu lên. Một cặp
đang làm chuyện "bậy bạ". Bà lắc
đầu, bước tới nữa, lại đụng
một bóng người đang đi tha thẩn:
"Con mẹ mày,
ở đâu tới đây ?"
Bà Bắc đứng
lại. Mũi bà thoáng ngửi một mùi
thơm hăng hắc. Cô gái tóc xõa, gầy
còm, lại nạt tiếp:
"ĐM. Cút
xéo ngay... Mắt với mũi để đâu ?"
Bà đoán ra
rồi, một cô gái "bán hoa"
đây thôi. Bà cũng không vừa:
"Này, cái
đĩ, tông người ta còn "na"
cái "rì", hở ?"
"Nói ai là
cái đĩ, con mụ kia..."
Trong bóng tối, một
giọng:
"Nè, việc ai nấy
làm, ồn ào nửa đêm nửa hôm...
ĐM con nào đó..."
Cô gái lỉnh.
Bà Bắc cũng nín khe. Một sự nhịn
chín sự lành mà, mấy chục năm
bà đã quen nhịn.
Lần đến chỗ
con Quê, ghế đá bỏ trống. Bà ngồi
xuống, rồi mệt mỏi, bà đặt lưng,
và ngủ liền.
Ai kéo, ai đá
bà bình bịch vậy. Bà trở dậy. Một
người đàn bà bế đứa bé
con.
"Ai cho nằm
đây ngủ, đồ vô duyên..."
"Tui...."
"Kinh tế mới phải
không ? Ở đây không còn chỗ chứa,
tìm chỗ khác đi..."
"Tui không phải
kinh tế mới đâu..."
"Không phải ? Ở
tù ra phải không ? Biết mà, coi, kiểu
này là mới ra khỏi tù. Tội gì ?
Ăn cắp, lường gạt ? Vô gia cư há
?"
Tất cả các tội
người kia nói ra bà đều không
có. Nói là "vô gia cư", bà
có một chỗ che mưa che nắng ở ngoài
quê kia mà, nhưng giờ đây...
"Sao, hổng trả lời...
Muốn gì nữa đây ? Tính ăn cắp
gì đây ?"
Khó khăn lắm
bà mới lên tiếng được.
"Tui tìm con cụt..."
Bà định
nói "con cụt tay...", nhưng sợ chọc giận
người đàn bà kia nên sửa lại:
"...con...Que. .."
"Ở đây
không có ai là que, là nhánh gì hết
trơn... Bà đừng có nói láo...
Đi đi..."
Bà Bắc nhận ra
đứa nhỏ trên tay chị đàn bà rồi,
cái thằng bé lai mà lúc sáng bà
đã bồng, đã ôm...
"Tui tìm gặp mẹ
của thằng bé này này.
Người đàn
bà là chị Thìn, ngó kỹ bà ta một
lần nữa....
"Chị biết
?"
"Vâng, mẹ của
nó... cụt một cánh tay..."
"Xì, cụt tay
thì ăn nhằm gì chớ !"
"Vâng,
vâng..."
Chị Thìn ngần
ngại. Lỡ họ quen biết nhau thì sao. Chị muốn
gọi chị Bảy hỏi cho ra lẽ, nhưng giờ
này Bảy cà tong cũng đã ngủ. Tự
nhiên chị thấy giận con Quê. Giờ này
còn chưa thấy về. Làm ăn thì cũng
có chừng mực chớ. Chết nghen con ! Nhưng rồi
giọng chị vui mừng:
"Kia, con Quê
nó dzìa..."
Con Quê tới,
ngó bà Bắc:
"Thím phải
không ? Tui tưởng ai..."
Chị Thìn:
"Tao cũng tưởng
ai nên tới đuổi bả đi đó
mày..."
"Hiểu lầm hết.
Nè, thím, đây là chị Thìn,
còn đây là thím... thím
gì...à thím Bắc...Bắc là tên
thím, còn thím ở ngoài Bắc mới
vô..."
Chuyện gì lạ vậy.
Bộ con Quê có bà thím ở ngoài Bắc
? Bà con mới ở trên trời rớt xuống ?
Con Quê liếng thoắng:
"Chị Thìn tốt
lắm thím. Hổng có bả là tui mệt rồi,
đâu biết nhờ ai coi con để đi
làm..."
Bà Bắc ngơ
ngác:
"Đi làm giờ
này ?"
"Phải, đi
làm vào ban đêm chớ ban ngày tìm
đâu ra mối..."
Tai bà Bắc nghễnh
ngãng, nghe chữ mối, không hiểu rõ lắm,
đoán, con này đêm đi bắt thằn lằn
rắn mối sao ? Nếu có vậy, bà cũng
đi bắt kiếm ăn, khó khăn gì.
"Rắn mối ở
đây nhiều lắm hả ? Đâu, tao đi bắt
cùng..."
Con Quê cười rộ.
Rồi chợt nhớ đang nửa đêm nó bịt
miệng lại. Còn chị Thìn thì lắc
đầu, chê người đàn bà quê
mùa, lại là thím của con Quê. Ở
đâu ra có bà thím vậy.
"Mày bà con với
bả ?"
"Không đâu
chị Thìn. Tui biết bả lâu rồi nhưng mới
nói chuyện sáng nay thôi..."
"Mới sáng
nay... mèn ơi...Mày khùng rồi..."
Con Quê nói:
"Khùng gì,
thì cũng như chị, không có thằng
Hôi giúp, còn lâu chị mới nhập hộ
được đây. Giúp người ta làm
phước bà à..."
Con Quê bế thằng
bé.
"Cám ơn chị
Thìn, chị dzề ngủ nghen... Thôi được
rồi, để tui..."
"Để
tôi..."
Bà Bắc lại
đón lấy thằng bé. Chị Thìn
nhìn, lắc đầu bỏ đi. Chị còn biết
nói gì nữa, hoàn cảnh chị, nếu
không có thằng Hôi, không được
dân bụi thương, giờ chị ra sao rồi...
Buổi tối hôm
đó con Quê thu xếp cho bà Bắc ngủ
chung cùng một chiếc chiếu. Chưa quen cảnh
màn trời chiếu đất, bà Bắc
khó ngủ, thức chong đến gần sáng mới
thiếp đi một lúc. Vậy chớ sáng ra,
bà Bắc cũng bỏ tiền ra mua khúc
bánh mì đãi con Quê, tỏ lòng cảm
kích.
"Mèn ơi, ai biểu
thím mua. Tui có tiền nè..."
Con Quê còn dọa:
"Ở đây
khó kiếm tiền lắm, giữ mà tiêu.
Thím thì hết đi bắt "rắn mối"
được rồi.
Bây giờ thì
bà Bắc đã hiểu đi "bắt mối"
không phải là bắt thằn lằn rắn mối.
Rõ là bà không đi "bắt mối"
được. Hai thím cháu cười nói
vui vẻ. Con Quê định tối nay, nói với
chị Bảy cà tong, giúp đỡ cho thím Bắc
sinh sống chung ở đây. Nhưng đến tối
nó lại "đi làm" sớm, Bảy
cà tong bận. Lúc chiều, thím Bắc lại
sang ngồi bên thùng thuốc lá với
dì Ba, con Quê bỏ lỡ dịp giới thiệu.
Phải mấy ngày sau, bà con mới biết
rõ. Ai cũng thương con Quê, và khi nghe
hoàn cảnh của thím Bắc, không ai nỡ
xua đuổi. Sợ xẩy ra chuyện, con Quê dặn
chị Thìn:
"Nhớ canh chừng
bả, không bả lại nổi điên nổi
khùng sinh chuyện..."
Chị Thìn phàn
nàn:
"Tui đã canh giữ
hai đứa nhỏ, lại còn canh chừng bả nữa,
có là ba đầu sáu tay..."
Thiệt ra, ba đầu
sáu tay cũng không canh giữ thím Bắc
đươc. Vài ngày sau, mọi người dỗ
dành, khuyên bảo tưởng đã nguôi
ngoai. Vậy mà một buổi sáng lại sinh chuyện.
Lúc đó,
bà Bắc ngồi với dì Ba ở thùng thuốc
lá. Dì Ba ngồi trên ghế còn bà Bắc
ngồi bệt dưới đất. Họ cùng
ăn mấy củ khoai lang bọc trong tờ giấy vở
học trò tèm nhem màu mực tím. Ở
góc đường, sáng sáng có một
bà cắp cái thúng bán khoai lang luộc,
đắt hàng lắm.
Thình lình,
bên trong, ông "nhà báo" dắt chiếc
xe ra, bà vợ, quần đen láng, áo xoa
thêu, cầm cái giỏ xách ni-lông, loại
mới sản xuất của một công ty quốc
doanh làm ra do nhựa tái sinh. Thím Bắc ngừng
nhai, củ khoai nằm trên tay.
"Con giành chồng".
Người đàn
bà quê mùa, tội nghiệp đứng bật
dậy. Miếng khoai lang đang ăn dở rơi xuống
đất. Hàm răng chìa ra và ánh mắt
căm hờn. Dì Ba nắm tay người đàn
bà:
"Thôi đi.
Làm gì đây ?"
"Tôi..."
Giọng bà Bắc nghẹn
ngào. Người vợ đang dướn người
để ngồi sau yên xe. Xe nổ máy chờ.
Thình lình bà Bắc nhào tới. Nhanh nhẹn,
một tay túm cục tóc bối, một tay
xô. Người đàn ông nhảy xuống khỏi
xe, giằng vợ lại. Chiếc xe ngã, nằm vắt
trên lề đường, máy vẫn nổ.
"Làm gì thế,
hả ?"
"Con cướp chồng,
tôi sống chết với nó... "
"Dang ra..."
Với người
đàn ông đã từng cầm súng, từng
vượt Trường sơn, một người
đàn bà ốm đói như bà Bắc
thì có nghĩa lý gì. Xô mạnh một
cái, bà Bắc ngã xuống đất, đầu
đụng vào lề đường kêu
đánh cốp một tiếng.
"Ối giời
ơi, nó giết tôi..."
Bà dãy
đành đạch, kêu làng kêu nước,
kêu ông phường, ông quận, ông sở
công an, kêu luôn cả bác Hồ. Người
đàn ông đỡ người vợ miền
Nam, cơn giận làm mặt ông ta xanh dờn, hiện
rõ từng nét nhăn. Tiện chân, ông
đá bà vợ miền Bắc một cái rồi
dằn chân lên người bà.
"Con đàn
bà khốn nạn..."
Thằng Phu sửa xe
cùng dì Ba chạy tới một lượt đỡ
người đàn bà khốn khổ lên.
"Ông làm
gì đánh người ta..."
Thằng Phu sừng sộ.
Bên mé đầu của bà Bắc, máu rỉ
ra, ướt mèm một mớ tóc, chảy
dàn xuống một bên mặt.
"Quân giết
người, bớ ông phường, bớ nhà
nước..."
"Mày dám chửi
cả nhà nước ? Con đĩ già... "
Ông xông tới. Một
cú đá nữa, người đàn bà
lăn xuống lề đường. Không nghe bà
ta kêu la gì nữa. Dì Ba:
"Đánh chết
người sao đây, coi..."
"Nó làm bộ,
giả chết... Màn này thuộc lắm rồi..."
Ông ta dựng chiếc
xe dậy. Máy vẫn nổ. Người vợ leo
lên yên sau, tay ôm chặt eo ếch chồng. Chiếc
xe vù đi, mất dạng.
"Khổ, còn ghen
cái gì nữa mà ghen chớ. Sao mà ngu...
"
Dì Ba cùng thằng
Phu đỡ bà Bắc dậy. Bà đã bất
tỉnh, máu trên đầu chảy rỉ rả.
Quýnh quáng, dì Ba lấy một bánh thuốc
lào gỡ ra, dém vào mảng đầu bị
rỉ máu. Thằng Phu:
"Chở bả vô
nhà thương đi..."
"Nhà thương
gì mày, vô cái nhà ghét đó
còn chết chắc hơn nữa mậy."
Chị Mùi và mấy
người đàn bà nữa chạy ra. Bà Bắc
được vực vào phía sau cầu thang, chỗ
trú mưa nắng của dì Ba. Chiếc ghế bố
được dựng ra và người đàn
bà khốn khổ được đặt nằm
trên đó. Con Quê và chị Thìn tất
tả tới với mớ bông gòn và chai thuốc
đỏ mới "năn nỉ" xin được
bên nhà thuốc quốc doanh. Một lúc sau,
bà Bắc đã khá hơn, mở mắt,
nói được, nhưng toàn là nói sảng.
"Có sao không vậy
nè ?"
Con Quê nóng nảy.
Dì Ba thở ra:
"Tình đời
vậy đó, khi lấy người ta, vợ vợ
chồng chồng, một ngày cũng là tình
nghĩa, con người hơn con chó một chút
là ở chỗ đó thôi... "
"Thằng chả
đánh ?"
"Thì ai vô
đó, bây."
"Đồ ác
nhơn, trời đánh nó đi."
"Đánh xong
còn tàn nhẫn bỏ đi..."
"Rồi bả chết
thì sao ?"
"Sao nữa. Chó
chết là hết chuyện..."
"Phải vậy
hôn ?"
"Hơ, vậy
thì sao? Thưa đi. Mà thưa ai. Người ta
là cán bộ, muốn bỏ tù ai còn
được nữa kìa..."
"Ờ hén !"
Buổi khuya hôm
đó, dì Ba biết người đàn
bà này sẽ không chết chóc gì.
Nhưng lúc bà ta tỉnh dậy, đòi uống
nước. Bà cầm ly nước trên tay,
bàn tay run rẩy và nước sóng đổ
ra ngoài. Dì Ba trách:
"Mèn ơi, cẩn
thận một tí được không..."
Bà Bắc cười.
Vậy là ổn rồi. nhưng nụ cười
không ngừng ở đó, mà cười nữa.
"Làm cái
gì vậy ? Ma bắt sao cười dữ thần vậy,
má !"
Dì Ba rủa. Bực
mình quá đi chớ. Bộ chuyện vui lắm
sao cười ! Vậy mà bà Bắc cười nữa.
"Vui lắm sao cười
hoài vậy ?"
Giọng bà Bắc
như một người nào khác:
"Vui ? Cũng vui chứ
"nị". Cái đầu tui sao nó quay
vòng vòng..."
"Có sao hông
đây?"
Giọng Bắc của
dì Ba lại đặc tiếng miền Nam. Bà Bắc
đưa tay lên đầu xoa xoa, ly nước cầm
một tay lại sánh ra ngoài.
"Chị nói
cái "rì" thế !"
"Cái mả bố
bà. Vớ vẩn ."
"Hi hi, cái mả
bố. Mả bố... mả bố...
Dì Ba mở to mắt
ngạc nhiên. Dưới ánh sáng của ngọn
đèn từ phòng sau, nơi làm kho dọi tới,
khuôn mặt bà Bắc đã như một
người nào khác lạ. Vẻ khắc khổ,
hờn oán đã tiêu tán mất
đâu rồi. Trông cái mặt nghệch ngạc,
cái miệng có hẳn nụ cười chớ
không chỉ hở hàm răng hô. Vừa ngạc
nhiên vừa sợ hãi, dì Ba nạt:
"Nói cái
gì vậy hả ? Điên rồi hả ?"
"Ai điên ?"
Nói xong, bà Bắc
ôm mặt. Ly nước bà đòi uống
chưa có một giọt vô miệng.
"Đau đầu
quá, tui ngủ..."
Bà Bắc nằm xuống,
quay mặt vô tường, im lìm. Dì Ba lắc
đầu. Lôi cái chăn cũ, bà trải
ngay dưới chân ghế bố, đặt lưng xuống.
Kệ chuyện gì xẩy ra, còn ngày mai mệt
nhọc đang chờ. Hễ mở mắt ra là thấy
khổ ! Chiếc ghế bố rung lên. Thì ra,
bà Bắc cũng không ngủ.
Sau bữa "đụng
độ" ít lâu,
suốt ngày bà Bắc lân la bên con
Quê và thằng “bò lai,” trở
thành “thím Bắc” của xóm bụi.
Con Quê lại thêm một miệng ăn.
Dì Ba sau đó
nói phóng lên là bà Bắc khùng
khùng. Khùng gì đâu. Chị Thìn
cãi. Khùng gì mà khôn quá chừng.
Đi qua đường biết tránh xe, bế con cho
con Quê, biết rửa ráy, lau cứt đái
cho thằng nhỏ gọn ghẽ.
Chiều ba mươi tết
năm ấy, Bảy cà tong nấu một nồi
cơm nếp. Con Nết gặp mối sộp, ra chợ Cũ
mua hai con vịt quay. Nước lạnh do mụ Cùi
mang từ máy nước. Chị Thìn và con
Kiểm góp gói đậu phọng nấu với
mấy củ khoai lang.
Ăn tết vui vẻ,
dân bụi chọc thím Bắc:
“Nó "nấy"
chồng của thím, thím không đánh chết
cha con đĩ đi..."
Thím Bắc lắc
đầu, trề môi:
"Mình khôn rồi,
không ngu tranh thủ nữa."
Rồi thím cười:
"Cho nó hầu chết
mẹ luôn !".
Đầu năm, thấy
"chồng cũ" chở con mẹ "giành chồng"
xuất hành, thím
chỉ đứng nhìn theo với ánh mắt hiền
lành, với cái miệng cười quá khổ
không thể khép lại nữa.
Trích
Đường Tự Do Saigon, tập II
NHÃ
CA
(Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)