CHIẾN HỮU
(Tưởng Năng Tiến)
Tôi nhân danh sĩ quan quân lực
Việt Nam
Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với
đồng bào.
Trung úy Đỗ Lệnh Dũng
Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực
Việt Nam Cộng Hòa, cấp bực làng
nhàng, như ông Dũng, tôi quen cả đống.
Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm,
cùng đơn vị khoảng vài chục,
và cùng trại (tù) thì chắc …
vài ngàn ! Tôi đã nghe vô số thằng
kể lại những giờ phút cuối cùng của
đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị
lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa
lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố
một câu (ngon lành) dữ vậy. Cỡ Trung
Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ
phút chót) cũng chỉ âm thầm …
đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở
miệng nói năng gì ráo trọi - với bất
cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ
thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng
chuồn êm - không lâu - sau đó.
Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng
thì hơi khác. Cách hành xử của
ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ.
Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái
đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong
vòng đai Đồng Xoài. Với đại
pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của
Sư Đoàn 7 của Bắc Quân - sử dụng
chiến thuật tiền pháo hậu xung - đã
chiếm được chi khu này, vào rạng
sáng 7/12/1974.
Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang
cùng những quân nhân còn sống sót
tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung
úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một
đoàn người - toàn là đàn
bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải
hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch - nằng
nặc đòi đi theo toán quân của
ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp)
được … hoàn toàn giải phóng.
Trước nguy cơ dân chúng có thể
bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh,
và để thuyết phục mọi người
nên ở lại nhà cho được an toàn,
trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố
với đám đông: ”Tôi nhân danh sĩ
quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ
trở lại với đồng bào.”
Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại
thực, chỉ vài ngày sau, như là một
… tù binh ! Rồi ông bị đấu tố
trước Toà Án Nhân Dân Huyện
Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ
miều hơn) của Đồng Xoài, và
đưa từ Nam ra Bắc - theo đường mòn
Hồ Chí Minh - để đi cải tạo. Gần
mười năm sau, năm 1982, trung úy Đỗ Lệnh
Dũng được chuyển trại từ Bắc
vào Nam
- và tiếp tục … ở tù !
Cuộc đời (rõ ràng và hoàn
toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh
Dũng đã được viết lại bởi
nhà văn Lê Thiệp, bằng một cuốn
sách - dầy đến bốn trăm trang - lấy
tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất
bản Quê Hương đã cho phát hành
phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời
giới thiệu - như sau:
“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ
là câu chuyện về chiến tranh, dù
nhân vật chính là một chiến binh mất
tích giữa chiến khu D sau một trận
đánh dữ dội.” Đây là câu
chuyện về những oan khiên khắc nghiệt
mà người dân Việt Nam phải trải gần
trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.
Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi
tròn 18 tuổi và úc được gặp lại
cha mẹ thì đã gần tới tuổi ngũ
tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn,
là những ngày lê gót trên con
đường mòn vượt rừng núi Trường
Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng
đọa đầy tại những trại tù
…
Dù chỉ là một góc cạnh giữa
muôn ngàn góc cạnh của một thời
bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ
vô giá về thảm trạng con người bị
tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ,
tình yêu gia đình và mọi điều
kiện an bình của cuộc sống". (Đỗ
Lệnh Dũng - Lê Thiệp, nhà xuất bản
Quê Hương)
Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt
vào ngày 21 tháng 1 năm 2007, ở thành phố
San Jose, California. Hôm đó, tôi đã
hân hạnh được nhìn thấy Trung
Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ
Khoái - chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn
Luân - người mà không mấy ai tin là
còn có thể sống sót, sau khi đơn vị
này thất thủ. Thiếu tá Khoái cho biết
nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần
qua, một số những người lính năm
xưa - đang tản mát khắp năm Châu -
đã tìm lại được nhau. Và
ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi
người, vài quân nhân khác của
đơn vị - hiện cũng đang có mặt tại
hội trường. Tôi ngồi ở xa, không
nhìn rõ nét mặt của những nhân vật
này nhưng có thể đoán được
rằng mắt họ đều đang ngấn lệ.
Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng
có cái may mắn lớn lao là còn sống
sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát
thân đến được một quốc gia an
bình phú túc nên cảm thông (thấm
thía) sự xúc động của họ. Trong
giây phút đó (có lẽ) mọi người
đều cảm thấy an ủi và ấm lòng,
trước cảnh trùng phùng bất ngờ
(và khó ngờ) đến thế. Cái cảm
giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm
hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi
chiều hôm ấy, và đã cùng với
tôi đi vào giấc ngủ.
Nửa khuya, tôi thức dậy. Đêm
nào tôi cũng thức dậy vào giấc
đó. Và đó cũng là lúc
mà tôi thường lò mò trở về
… chốn cũ. Như một công dân “part
- time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao
giờ sống hết mình và hết tình
nơi quê hương mới. Gần ba mươi
năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một
cách mộng mị) đều đều - theo kiểu
“ngày ở / đêm về” - như thế.
Tôi thường trở về Đà Lạt.
Đây là nơi mà tôi đã lớn
lên, và đã ướp đẫm tuổi
thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng
rất nhiều đặc sản của núi rừng:
nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn
thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi
Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.
Có dạo tôi hay trở về những đồi
trà, đồi bắp, đồi khoai - bao quanh trại
cải tạo Tân Rai - ở Blao. Tôi cùng lũ
bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những
con đường mịn màng (thơm nồng
mùi đất) sau một đêm mưa.
Cũng có khi tôi về lại Sài
Gòn, ghé thăm một người bạn đồng
đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một
bài báo ngắn - của ký giả Bùi Bảo
Trúc:
Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận
được từ một người không hề
quen biết, không kèm theo một giòng chữ
nào, bức hình một người đàn
ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ.
Hình chụp người đàn ông đang ngồi
trên giường có trải chiếu, đằng
sau là bức tường loang lổ, hoen ố những
vết đen mốc. Ông có một bộ ria,
tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt
nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ
còn một con. Ông không còn chân tay. Hai
chân bị cụt trên đầu gối. Và
hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.
Trong hình có ghi tên ông. Ông tên
là Thìn, NGUYỄN VĂN THÌN. Năm sinh
được ghi là 1952. Hàng chữ phía
dưới cho biết ông là thương phế
binh Việt Nam
Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông
là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp
bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất.
Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng
là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ
30 năm nay, ông không có chân, cũng
không có tay.
Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy
năm không có hai chân mà cũng không
có cả hai tay. Tôi tưởng tượng,
không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra
được những khó khăn của ông.
Trong một chế độ thân thiện với
ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh
vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu
luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh
không thân thiện nếu không muốn nói
là thù nghịch, thì ông còn khổ biết
là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng
tượng thêm ra những chuyện khác trong
đời sống hàng ngày của ông, nếu
đó có thể gọi được là một
đời sống.
Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với
đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu,
như có ý nói là đừng đến
thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.”
Mãi sau này tôi mới biết là … muộn
thật ! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về
trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây
vài năm, tôi đã có dịp phổ biến
địa chỉ của ông: nhà số 9/8
đường Bông Sao, phường 5, quận 8,
Sài Gòn.
Chừng một tháng sau, vài người
báo cho tôi biết là họ đã gửi
quà về biếu ông Thìn nhưng không
còn … kịp nữa. Ông bạn đồng
đội của tôi đã qua đời,
vài tuần, trước đó !
Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần
quê hương khốn khó mà tôi chưa
bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một
đồng đội khác:
Tôi phải vượt đường xa tít
tắp từ Huế tìm đến nơi 1 anh
Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2
chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy
anh DƯƠNG QUANG THƯƠNG nằm xấp ngay ngạch
cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi
dậy hỏi tôi là ai ?
Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy
anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra
từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm
tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ,
vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay
còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt
về để lo bữa ăn chiều, chị chào
hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống
…
Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi
là người mang tiền và thuốc tây
đến cho anh do bà con từ bên Úc
đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100
đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh
đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm
ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc
và Hội.
Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời
cảm ơn đến người điều hành Hội
mà gia đình anh thường thư từ qua lại
nhiều năm nay. Tôi xúc động quá
và cho biết là: Thưa anh chị chính
tôi đây… Nghe đến đó anh quờ
quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật
nhanh về hướng tôi và ôm lấy
tôi mà khóc.
Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc,
người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự
hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và
hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị
đã hy sinh cả cuộc đời cho những
người mà cả tổ quốc phải tri
ân.
Chị đã khóc nhiều lắm vì những
khó khăn đè nặng thân phận của
người phụ nữ ốm o gầy còm cố
vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh
gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn
và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải
cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới
đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn
còn khóc… (Nguyễn Cảnh Tân (2), “Nỗi
Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung,” Việt Luận,
27 Oct. 2006).
Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều
như vậy e hơi (bị) lố. Làm người
Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ
bạc đến đâu chăng nữa vẫn
(có thể) được khối kẻ khát
khao. Tôi liên tưởng đến số phận
te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng
và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng:
đó là cảnh đời mà phế binh
Dương Quang Thương có nằm mơ cũng
không thấy được.
Và hiện tại ở quê tôi còn
bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa
(cũng tàn phế đến độ không thể
đi xin ăn được) đang nằm chờ chết
ở một xó xỉnh nào đó, ước
mơ đến ngày có người đồng
đội cũ (chợt) nhớ đến mình
và ghé thăm chơi - như chiến hữu Nguyễn
Cảnh Tân đã ghé thăm bạn
Dương Quang Thương, vào một buổi chiều
cuối năm 2006.
TƯỞNG NĂNG TIẾN
--------------------------------------------------------------------------------
(1) - Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ
Kim, kể cả cước phí, có thể đặt
mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O.
Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.
(2) - Địa chỉ liên lạc của ông
Nguyễn Cảnh Tân
Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương
Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42
Cardwell St – Canley Vale. NSW, Australia.
Điện thoại: (02) 9728 3640,
Điện thư: VASFIVV@yahoo. com.au.
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)