Mặc cảm "75"
(HUY PHƯƠNG)
Cô giáo hỏi: “Trong lớp này, em
nào có cha đi học tập cải tạo ?” Gần một nửa lớp
đưa tay cao. “Thưa Cô, em” ! Thưa Cô, em!”
Cô giáo hỏi tiếp: “Trong lớp này,
em nào là gia đình cách mạng
?” Một vài cánh tay rụt
rè đưa lên, không mấy hăng hái. Câu chuyện này xẩy ra tại một
lớp tiểu học tại miền nam sau tháng 4
năm 1975. Gặp những người nói giọng
Bắc đích thị “75” mười
mươi, hỏi có phải mới vào sau
năm 1975 không, thì phần đông trả lời
“vào Nam từ năm 1954”. Sự mặc cảm
và sự chối bỏ này, tôi xin tạm
đặt tên gọi đây là “mặc cảm
75” và khổ thay đây lại là mặc
cảm của người thắng trận.
Trong những lần tôi được nghe giọng
nói của các ông Hoàng Cầm, Hữu
Loan trên đài phát thanh hay truyền hình
tại hải ngoại, thì những giọng nói
này không khác gì những bạn bè di
cư tôi gặp ở Saigon, nhưng chắc chắn
là khác xa những giọng nói Hà Nội
bây giờ, điều đó không cần tinh
ý chúng ta cũng nhận ra được.
Đó là cái giọng nói mỗi
đêm nằm trong trại tù ngoài Hoàng
Liên Sơn, chúng tôi vẫn phải nghe qua
cái loa phóng thanh rè rè, trước tiếng
kẻng ngủ một hồi được gióng
lên trên chòi canh: “Đây là tiếng
nói Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam phát thanh từ Hà Nội...” nghe chát
chúa và lanh lảnh đến lạnh mình
như tiếng ai đứng trước cửa nhà
kêu gào chưởi bới đòi nợ.
Bây giờ tôi không hề có ác
ý khi nói đến giọng nói này hay giọng
nói kia, bằng chứng là ở Little Saigon, thỉnh
thoảng tôi vẫn lui tới những ngôi chợ
hay những quán ăn có cái giọng nói
này và tôi nghĩ cũng không sao. Chẳng
qua điều suy nghĩ của tôi là miền Bắc
nay đã thống trị được miền Nam
nhưng thực sự chưa thu phục
được nhân tâm. Chính những vị
đại sứ, lãnh sự Cộng Sản Việt Nam ở
trên đất Mỹ này cũng mang đầy mặc
cảm thắng trận. Hình như họ chẳng
đại diện cho một người dân Việt
nào đang sinh sống trên đất Mỹ
và tội nghiệp nhất là lá cờ đỏ
chỉ có thể treo trước một căn phố
nào mà họ đã bỏ tiền thuê
mướn ở Washington D.C. hay San Francisco thôi,
ngoài ra không thể hiện diện ở một
nơi nào khác. Nếu không có bà con
hải ngoại xin visa về Việt Nam thì chắc
toà lãnh sự cũng chẳng có việc
gì để làm, nhưng xem rõ lại
thì những tờ giấy này cũng được
ký ở Mexico City tận bên đất Mễ.
Sáng ngày 1 tháng 5-1975, tôi được
mục kích cảnh những người lính miền
Bắc chắc là mới được điều
động về Saigon, ở ngã ba Hàng Sanh,
đang ngồi đầy hai bên đường phố,
kín trên những bậc thềm của hai bên
khu phố dài cho tới Cầu Sơn. Không thấy
cảnh đón chào “em hậu phương,
anh tiền tuyến”, cũng không ai thăm hỏi,
chuyện trò, mang thức ăn nước uống với
những người lính, nón cối, áo quần
màu “olive” và súng AK này, phần
đông là quá trẻ, mà mới hôm
qua đây, dân chúng miền Nam còn gọi
họ là Việt Cộng. Những gì mà qua
tuyên truyền, những người lính này
được học tập như miền Nam trong
gông cùm đang vùng dậy, chờ Cách Mạng
như hạn gặp mưa đều là những lời
láo toét. Họ chỉ gặp những
đôi mắt lạnh lùng, thờ ơ và chứa
đầy nghi kỵ của người dân miền Nam trong những ngày đầu
“cách mạng” vô Saigon.
Tết Mậu Thân (1968) Cộng Sản nghĩ rằng
khi họ vào quần chúng sẽ nổi dậy khởi
nghĩa cướp chính quyền và quân đội
sẽ quay súng bắn vào cấp chỉ huy VNCH hoặc
quân đội Mỹ. Việt Cộng tập trung một
lực lượng 84,000 quân đánh Huế
vì nhận định gần hai năm trước
các phong trào phản chiến nổi lên rầm
rộ, kể cả việc biểu tình chống Mỹ,
đốt phá thư viện Hoa Kỳ, quân đội
ly khai chống lại chính quyền trung ương, bắn
trực thăng Mỹ, xem
như thời cơ đã đến. Nhưng khi vào Huế, bộ đội Việt
Cộng đi đến đâu, dân chúng bỏ
nhà cửa chạy tới đó và không
bao giờ thấy việc dân chúng nổi dậy
cướp chính quyền. Phải chăng
thái độ này của dân Huế-Thừa Thiên
đã phải trả bằng một
giá đắt, với nhiều nghìn người
bị giết vì “mặc cảm của những
người thắng trận”. Mặc cảm
này làm họ điên tiết và giết
luôn cả những vị giáo sư y khoa ngoại
quốc đang dạy tại Đại học tại Huế.
Những người lính Việt Cộng thấy
Saigon lần đầu đều sửng sốt, ngạc
nhiên trước cảnh nhà cửa trù
phú, người dân tự do làm ăn, đi
lại, không ai có vẻ lầm than, đói
rách, bị bóc lột như đã được
chính quyền Hà Nội rêu rao trước
đó, và vì người dân miền Bắc
bị bưng tai che mắt nên không hề biết
những gì ở bên ngoài. Ngay cả
những thanh niên có chút kiến thức vẫn
không hề biết họ bị đầu độc
từ trong sự suy nghĩ. Đứa cháu họ
của tôi là kỹ sư tốt nghiệp Đại
Học Hà nội, mãi đến sau năm 1982
vào Saigon, nó đã rụt rè hỏi
tôi: “Nghe nói trong này đàn bà
đều bị cảnh sát hiếp, vậy mợ
có bị không ?” Thay vì đấm
vào mặt thằng cháu vô duyên này,
thì tự lòng tôi lại thấy thương
hại cho nó, thấy cả một dân tộc
bị lừa bịp mà đau lòng.
Rồi thì chúng ta cũng đã hiểu
vì sao thân nhân của chúng ta có thể
ngây ngô đến nỗi đem một chục
chén ngang (chén đất) hay cái ấm nấu
nước vào biếu bà con ở trong Nam, để
rồi đổi lại, trở về với một
cái “đài”, cái “đổng”
hay chiếc xe gắn máy mà suốt đời nằm
mơ cũng không thấy, và nặng hơn hết
là mang cái “mặc cảm thắng trận”
thất thểu trở về. Chúng ta cũng
đã hiểu vì sao một nhà văn Hà
Nội đã khóc khi thấy Saigon
sau ngày “giải phóng”.
Cũng vì mặc
cảm “thắng mà thua” đó nên Cộng Sản
đã muốn xoá sạch hình ảnh người
lính VNCH, đập phá các công trình
nghệ thuật, dù là một công trình
ca tụng sự trù phú của đồng bằng
Cửu Long như tác phẩm “Bông
Lúa” của Mai Chửng ở thị xã Long
Xuyên hay dựng đài “Tổ Quốc Ghi
Công” trên nền đài Nam Giao của tổ
tiên. Đã mang mặc cảm rồi thì
không thể nào Cộng Sản “cho
phép” cái Nghĩa Trang Quân Đội của
chúng ta thành một “di tích lịch sử”
để đời, hay là tạo dựng một
nơi có thể chôn cất chung “người
anh hùng miền Nam cũng là anh hùng của miền
Bắc” như điều mong ước của tất
cả người dân Việt Nam.
HUY PHƯƠNG
(Bai Chuyen)