Hậu 30-4-75:
Hoa Tím Bằng
Lăng
(NGUYỄN DUY-AN)
*
Nguyễn Duy An
là người Á châu đầu tiên
đảm nhiệm chức vụ Senior Vice President của
National Geographic. Năm 2006, ông là tác giả
được trao tặng giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ.
Nhân dịp kỷ niệm 30 tháng Tư năm nay, ông góp
thêm 2 bài viết đặc biệt. Một,
đã phổ biến, là chuyện 32 năm sau của
đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ cuối
cùng đến Việt Nam để di tản Tòa
Đại Sứ và nhân viên Hoa Kỳ ở
Sàigòn vào cuối Tháng 4, 1975. Và hai,
dành cho ngày 30 tháng Tư 2007, là truyện
kể về đứa con của người tù cải
tạo vượt ngục.
Tác giả Nguyễn Duy-An, cư dân Virginia, hiện
là Senior Vice President của National Geographic phụ
trách Information Technology. Lần đầu tham dự Viết
Về Nước Mỹ 2005, ông gửi một tự
truyện bắt đầu từ Bình Giả, địa
danh quen thuộc của Việt Nam thời chiến. Hiện
nay, trong số 10 bài có nhiều người đọc
nhất trên Vietbao Online, riêng Nguyễn Duy An
đã chiếm tới .. 6 bài, với số
lượng hơn 30,000 lượt người đọc.
"Mái Tóc Thề" là một chuyện
tình mùa xuân, vẫn bắt đầu từ
làng quê Bình Giả ra đi, và nối
dài tới Springfield,
Massachusetts .. Bài
trích từ báo xuân Việt Báo Tết
Bính Tuất 2006.
*
Vì chiều cao "rất khiêm nhường"
của mình, tôi cứ phải loay hoay điều
chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng
thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ
từ bước lên khán đài nhận bằng
kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam
"vinh quy bái tổ".
Tuân là đứa con "rất đặc
biệt" của chúng tôi. Vợ chồng
tôi mới cưới nhau được 10 năm
nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi ! Gia
đình bên vợ và người ngoài cứ
nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ
Việt Nam; và
chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế,
vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt
Nam
nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội.
Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng
Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất
thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả
trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.
Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết
chắc chắn tôi không thể có con; thay
vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con
tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay
nàng chạy ngược chạy xuôi lo thủ tục
giấy tờ để tuần sau chúng tôi về
Việt Nam
nhận một đứa cháu gái của tôi
làm con nuôi. Ngày nhận được kết
quả thử nghiệm xác định tôi
không thể có con, Oanh đã âu yếm
nhìn tôi thỏ thẻ: "Ngay từ đầu
em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ ! Em
chấp nhận số phận, nhất là chúng
mình đã có Tuân .. Tuy nhiên, em nghĩ
chúng mình cũng nên nhận thêm một
đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh
đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để
chúng mình nhận một đứa con của
chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu
vẫn tốt hơn .." Đó là lý do
Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường,
chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia
đình và nhất là đưa Tuân về
thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của
Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày
nó mới được 3 tháng tuổi, và
Tuân trở thành "con trai" của tôi từ
hơn hai mươi năm về trước tại
Bình Giả, Việt Nam.
*
Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi
của Tuân bây giờ. Tôi trở về
Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng
mình cầm cự với nghề "gõ đầu
trẻ" tại một vùng kinh tế mới ở
Sông Bé. Tôi thương đám học
trò nghèo đói nhiều lắm nhưng
chính tôi cũng không chịu nổi cảnh
đói nghèo vì lương không đủ
ăn nên đành phải bỏ trường về
quê ăn bám gia đình sống qua ngày.
Sau bốn năm trời vừa dạy học, vừa
làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức
tôi đã kiệt quệ ! Tôi đã
"cắt hộ khẩu" ở trường cũ,
nhưng không xin "nhập hộ khẩu" tại
Bình Giả vì tôi trở về với ý
định tìm đường vượt biên.
Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai
cũng biết tôi đi dạy học ở vùng
"Kinh Tế Mới", và thỉnh thoảng vẫn
về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo,
bắp .. nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy
tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó,
ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến
vượt biên chung với một số bạn
bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo
các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất
là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp
mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp
lại anh Thành, một người trốn trại cải
tạo, đang lẩn trốn trong rừng để
tìm cách liên lạc với người vợ
mới cưới được mấy tuần trước
ngày anh đi học tập. Hôm đó trời
trở cơn giông đột ngột, tôi chạy
vội tới một gốc cây bằng lăng để
trú mưa vì lúc đi rừng tôi
quên không mang theo áo mưa. Lúc tới
được gốc "cây cổ thụ",
tôi đã "hồn vía lên mây"
khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ
ngọn cây:
- Toàn. Toàn phải không ?
Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai
đã gọi mình, nhưng trời đã tối
mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy
gì. Tôi sợ quá, đang định chạy
trốn thì một sợi giây thòng xuống từ
một cành bằng lăng rậm rạp phía
trên đầu .. Một bóng người trùm
kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột
xuống vừa lên tiếng:
- Mình đây. Thành đây.
Anh Thành đã xuống đất. Tôi
đứng chết sững ngó đăm đăm
người "đàn anh" nổi tiếng đẹp
trai và hào hùng của mấy năm về trước,
bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen
đủi hốc hác đang run cầm cập vì
đói và rét. Tôi ngập ngừng:
- Trời ơi ! Đúng là anh Thành
đây mà. Sao anh ra nông nổi này ?
- Mình trốn trại cải tạo về
đây đã mấy tuần rồi nhưng
không dám về nhà, sợ bị bắt lại.
Trời xui đất khiến cho mình gặp
được Toàn ở đây. Đúng
là số mình chưa chết.
- Anh đừng nói gở. Bây giờ anh
tính sao ?
- Toàn có gì ăn không ? Hơn hai tuần
nay mình ..
Tôi chỉ định đi kiếm măng
vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo
gì ngoài con dao cán dài để
đào măng. Cũng may trong túi còn gói
thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing
gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc
đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ
một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc
một dấu hiệu đặc biệt lên
đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ
anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân
Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn
hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh
vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với
một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ
và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng
tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi
đứa em gái về Trang, vợ của anh
Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện
anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với
một cô gái người miền Nam, bổn đạo
mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận
nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép
cưới cho hai người mấy tuần trước
ngày anh ấy lên đường đi "học
tập". Năm đó Trang mới 17 tuổi,
nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng
còn ai nên đã theo người yêu
là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm
vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang
trái đã chia cách đôi vợ chồng
trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia
đình cha mẹ chồng như một chiếc
bóng cô đơn bên đường, mòn
mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại
!
Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu
tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh
Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi
tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về
sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả
đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái;
hơn nữa, nàng lại là một người
con gái đã có chồng ! Từ nhà bếp
đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng
lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững
sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói
không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:
- Có người nhờ tôi trao cành hoa
này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên
đó.
Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức
nở:
- Trời ơi ! Anh Thành ! Anh đã gặp
anh Thành ..
Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống
bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:
- Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà
tôi ở mô rứa ? Công an đang truy nã
nó mấy tuần nay.
Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết
! Chết cả nhà bây giờ ! Ngày nào cũng
có người tới nhà hạch hỏi về
nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ
thân con tôi !
Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp
gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai
bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết
định sẽ chuẩn bị một số thức
ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng
hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng
tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi
thì nói là gia đình tôi thuê
nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng
Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng
không dám vì sợ hôm sau công an lại
tới nhà làm việc.
Suốt một tuần liền, ngày nào
Trang cũng "đi làm thuê" cho tôi để
vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh
trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy
ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi
đã quyết định nhường chỗ
trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp
xếp cho anh Thành theo xe bò của một người
quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để
tránh gặp gỡ những người quen, rồi
tôi đón anh ấy ra Long Hương "ở nhờ"
nhà một người bạn thân của tôi
để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời,
tôi và Trang trở thành những người
đi buôn chuyến. Thực ra, tôi chỉ chở
Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở
đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố
Nai, Gia Kiệm .. lo việc riêng. Người trong
làng đã bắt đầu đồn
đãi về việc tôi và Trang đi
buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua
đêm nữa ! Mẹ tôi buồn lắm ! Mặc
dầu tin tôi, nhưng "lời ong tiếng ve"
đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn
về chúng tôi nên bà rất khổ
tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ
bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời
đồn đãi đó sẽ làm người
ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải
tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn
thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một
tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một
đứa em ruột, "một vị cứu tinh"
đã dám liều mình cưu mang và
giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.
Anh Thành và một số bạn bè của
tôi đã ra đi đột ngột trước
ngày dự tính vì công việc "bến
bãi" bị đổ bể. Sau một tuần
không thấy tin tức gì về chiếc ghe
đó, chúng tôi yên chí anh Thành
đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn
bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ
ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ
tạm trú và bắt đầu công việc sửa
chữa chuẩn bị một chuyến đi mới.
Công việc bề bộn nên gần ba tháng
sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ
tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về
hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có
thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh
Thành coi như mất tích vì không có
tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn
nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng.
Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng
không biết làm sao để giải thích. Mọi
người đổ tiếng xấu cho tôi và
nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng
cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ,
nhất là chờ mãi không thấy tin tức
gì của anh Thành nên bắt đầu hạch
hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống
nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ
trách móc và đặt vấn đề tại
sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy
tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi
khóc vì tủi nhục ! Em gái tôi cũng
nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp
Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải
thích của Trang nên càng ngày càng
thân với nàng.
Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự
ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ
anh Thành đôi co và cãi vã với cả
gia đình và giòng họ anh ấy để
bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người
lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều
hơn trước. Quá tủi nhục và hổ
thẹn, Trang đã liều mình tự tử ! Cũng
may người nhà phát giác kịp thời
và cứu chữa cho nàng và bào thai trong
bụng. Mặc dầu được cứu sống
nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói,
sống vật vờ như một cái xác
không hồn giữa sự khinh ghét của
giòng họ nhà chồng.
Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới
mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang
về ở chung cho đỡ buồn và cùng
đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu
bì cho có chị có em. Chính vì
lòng tốt của em gái tôi mà cả
làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang
là của tôi. Mỗi lần tôi về
thăm, Trang khóc nức nở không phải
vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người
phỉ báng, nhưng nàng khóc vì
đã làm hại danh dự của gia
đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ
tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn,
và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề
có tà ý với nhau, mẹ tôi đã
"ngồi xổm trên dư luận" để nhận
Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ
rằng mẹ tôi làm thế để tránh
tiếng vì bà đã biết chắc chắn
bào thai trong bụng Trang là cháu nội của
bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt
cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt
một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang
lại liều mình tự tử như mấy
tháng trước. Ôi ! Mẹ đã hy sinh chịu
nhục vì con và vì thương một
người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con
xin cúi đầu bái phục lòng can đảm
của mẹ cho đến trọn đời.
Trước ngày ra đi, tôi đã trở
về để từ giã gia đình. Ngay khi biết
tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc
nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao
nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời
kỳ mang thai, Trang đã trải qua một
đêm dài đau đớn, quằn quại đến
kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị
phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh
viện để mổ. Đáng lẽ sáng
hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ
để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi
không đành nên đã lỡ một
"chuyến đò". Tôi theo mẹ và
Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục
giấy tờ trước khi đưa Trang lên
bàn mổ, người ta đòi phải có
thân nhân ký tên trong giấy tờ nên
tôi đã đứng ra lo liệu .. Cũng
có thể vì lầm lẫn, và cũng
có thể do số phận an bài nên các
bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi
là "chồng" của Trang trong hồ sơ bệnh
lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở
thành con tôi ! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ
anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ
tôi vì những hiểu lầm trước
đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất
gì nên mọi người đều vui vẻ.
Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở
về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn
qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội
cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện
ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã
gây nên sóng gió ồn ào cả xứ
đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành
Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết
liệt phản đối. Họ đến nhà hạch
hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ
háo thắng nên tôi đã nổi nóng
đuổi hết mọi người và quyết
định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân
nữa ! Tôi chỉ muốn mọi người để
cho chúng tôi yên nhưng miệng người
không phải dễ "khóa" ! Tôi ngang
tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi
người và cứ hiên ngang ngẩng đầu
tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện
vượt biên lần nữa. Lần này tôi
quyết định sẽ đưa mẹ con Trang
cùng đi. Tôi có thể "đạp dư
luận xuống bùn đen" để sống,
nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng
đêm, nức nở đè nén "nỗi
oan Thị Kính" từng giờ từng phút
nên đã bị băng huyết cho đến chết,
và chết trong tủi nhục vào một
đêm tôi vắng nhà ! Tôi trở về
nhìn xác Trang nằm im bất động mà
thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc
chắn những phút cuối đời Trang
đã phải quằn quại trong đớn đau tủi
nhục ! Tôi đã thực sự thù
ghét mọi người trong xứ khi biết tin
"người ta" không muốn cho tôi chôn
Trang ở nghĩa địa giáo xứ vì
bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự
tử ! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại
lên án và "trừng phạt" thân
xác một người đã chết trong khi hằng
tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh
"Thương Người Có 14 Mối,
Thương Xác 7 Mối", trong đó có
ghi rõ việc "chôn xác kẻ chết"
! Đâu có ai hiểu được nỗi
đau đớn và tủi nhục đã gặm
nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì
bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức,
và nhất là sự dằn vặt nàng phải
gánh chịu vì đã "gieo họa" cho
gia đình tôi ! Đâu có ai ở gần
kề bên Trang trong những giây phút cuối
đời của nàng để "kết
án" nàng đã "liều mình tự
tử" !!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ
giúp đỡ nhưng tôi đã điên
lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở
xa về đào huyệt chôn Trang trong một
góc rẫy của gia đình tôi ở
mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ
lễ cả mấy năm trời vì lòng
thù hận vẫn chưa nguôi ! Đã nhiều
đêm tôi gục đầu dưới tượng
chịu nạn van xin lòng nhân từ hay
thương xót của Chúa thay đổi
trái tim "thù hận" của tôi, và
tôi cũng xin Ngài thương tha cho những
người đã kết tội "oan" cho
chúng tôi ! Tôi chỉ thật sự trở về
với Chúa như "một con chiên lạc"
mấy tuần trước ngày vượt biên ..
Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng
được bú nhờ sữa của em gái
tôi cũng mới sinh được vài tháng
nên cháu vẫn lớn lên theo ngày
tháng trong tình thương yêu đùm bọc
của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi,
về về tìm mối làm ghe vượt biển.
Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế
Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn
nguyện. Công việc làm ghe càng ngày
càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi
mới thành công. Trước khi lên đường,
tôi đã vô rừng tìm kiếm và
đào được một cây bằng lăng
nhỏ đem trồng bên mộ Trang để
làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân
đã chạy nhanh, nói sõi và lúc
nào cũng quấn quít bên tôi những
ngày tôi về quê. Cuối cùng tôi quyết
định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu
mẹ tôi can ngăn nhiều lần.
Tôi đã đi và tôi đã
đến.
Chính nhờ sự liều lĩnh của
tôi mà Tuân có được ngày
hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành
đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì
nàng đã tận tình yêu thương
săn sóc "cha con" tôi từ bao nhiêu
năm qua. Nếu không có tình yêu và
lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi
đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ
lạ quê người, và Tuân lại một lần
nữa thành trẻ "mồ côi" !
Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước
lên khán đài, tôi cảm động
rưng rưng nước mắt. Tôi không
khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải
chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở
nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không
khóc khi từ giã mẹ già và gia
đình ra đi, nhưng giờ này tôi
khóc vì biết chắc chắn Tuân
đã trưởng thành, và mấy ngày
nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm
cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng
lăng "cha con" tôi đã trồng trước
ngày "biệt xứ".
*
Oanh đứng nép sát vào người
tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt
hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống
gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến
cạnh gốc cây bằng lăng đã bị
đốn từ mấy năm trước, chỉ
còn một số chồi non mới lên được
vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra
một cành bằng lăng mới chớm vài nụ
hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi
cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ
nhàng đặt cành hoa mầu tím trên
ngôi mộ của Trang.
Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng
tôi khẽ nói:
- Con biết mẹ con đang mỉm cười
bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ
lạy ba má đã nuôi con nên người.
Vậy là Tuân đã biết về tờ
giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định
nó và tôi không phải "cha con." Chắc
Oanh thấy đã tới lúc có thể cho Tuân biết điều này.
NGUYỄN DUY AN
(Bai Chuyen)