MÓN KHẾ CHUA
(Huy Phương)
“Quê hương thì vẫn
quê hương đó
Sông rộng trời xa thấy
ngút ngàn”.
Huy Phương
Những người xa quê hương như
chúng ta, mỗi lần nghe một tiếng đàn
bầu nỉ non, một giọng hò khoan nhặt hay một
câu vọng cổ thiết tha, không khỏi
bùi ngùi, có khi rơi lệ thổn thức
nhớ đến quê hương. Người lớn
lên sống suốt đời với quê
hương, ít khi nhìn thấy quê hương
đẹp đẽ, chỉ những người đi xa
trở lại như câu chuyện “chốn quê
hương đẹp hơn cả” trong sách
giáo khoa thư với câu nói quen thuộc
“tôi đã đi du lịch ở nhiều
nơi, nhưng không nơi nào đẹp bằng
quê hương!” mới thấy quý
thương quê hương. Chúng ta, những
người đã bỏ quê hương ra đi
trong nhiều năm, có người thề không
bao giờ trở lại quê hương khi ở
đó còn chế độ Cộng Sản
còn chế ngự lên đầu lên cổ
nhân dân, thì lại thương nhớ quê
hương biết chừng nào, vì đây
không phải là “xa quê hương”
mà là “mất quê hương”. Đối
với những người đang bước tới tuổi
xế chiều, thì tiếng gọi quê
hương còn thúc giục mãnh liệt
hơn nữa, nung nấu tấm lòng, trăn trở
qua những đêm không ngủ, khi gặp phải
những cảnh trái ngang không vừa lòng,
khó hoà nhập vì cuộc sống mới, bất
mãn vì những việc riêng tư, buồn việc
gia đình, hay vì cách đối xử của
con cái.
Chúng ta thử tưởng tượng hình
ảnh một chiều mùa đông giá buốt
ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, một người
già ngồi trong cửa sổ nhìn tuyết rơi
mà lòng nhớ đến quê hương
xót xa biết chừng nào. Mà không phải
chỉ nơi đó, ngày nay ở Nga Xô, Trung
Quốc, Úc Đại Lợi, Âu Châu và cả
những miền nắng cháy Phi Châu, đâu cũng
có người Việt xa xứ thương nhớ
quê hương.
Ngày xưa thuở thanh bình, một người
ở ngay trên quê hương của mình,
trưa nghe “một tiếng
gà trưa gáy não nùng” đã thấy
buồn, gợi nhớ đến dĩ vãng. Bạch
Cư Dị mới bị đày đi Giang Châu
cùng trong một nước Trung Quốc, một
đêm nghe tiếng đàn tỳ trên sông,
nghe lời tâm sự của một nàng ca kỷ
lưu lạc mà đã “lệ ai chan chứa
hơn người, Giang Châu Tư Mã đượm
màu áo xanh”. Huống gì ta, nơi chân
trời góc bể, xa quê hương nghìn dặm
đường mà với những khoảng cách
không bao giờ làm ngắn lại được,
sẽ đau lòng biết bao nhiêu ? Người về
lại với quê hương thì cũng chừng ấy
người với những lượt đi về
thường trực tiếp nối, người không
muốn về với quê hương thì chưa về.
Người sống xa quê hương như cây trồng
trong chậu, có lẽ dù tưới bón tới
đâu thì gốc rễ vẫn không nằm
sâu trong đất.
Chúng ta có bao nhiêu điều xót xa
vì tình cảnh ly hương như thế
mà phải cam chịu, nhưng lòng ta không bao
giờ là không nghĩ, nhớ đến quê
hương. Như vậy quê hương phải
chăng là tiếng gọi sâu kín nhất trong
lòng mỗi người, để những lúc yếu
lòng vì ngoại cảnh, một đám
mây “hồn quê theo ngọn mây Tần xa
xa”, hay một làn khói trên sông
“trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai” mà nhớ nhà, nhớ nước.
Quê hương và quá khứ đã
gắn liền với nhau, vì chúng ta đã
có đoạn thời gian quá dài gắn
bó với quê hương, dù nghèo
đói, chiến tranh. Bỏ quê hương bao giờ
cũng là điều bất đắc dĩ. Phải
chăng quê hương là chỗ yếu lòng
người ly hương, chỗ “gót d’
Achille” của mỗi một chúng ta nên chế
độ ở trong nước luôn luôn tìm
cách đánh vào chỗ yếu ấy, chỗ
tình cảm sâu khuất nhất trong lòng mỗi
người.
Lâu nay chúng ta thấy bao nhiêu lời mời
gọi từ trong nước, quanh quẩn trong hai chữ
“quê hương”. Nhẹ nhàng thì
phong cảnh quê hương, ca nhạc dân tộc,
thực tế và đôi khi thô thiển hơn
thì Saigon ăn chơi, Vũng Tàu du hí,
Hà Nội hoa hậu, tinh tế mời gọi hơn
thì “duyên dáng Việt Nam”,
“Festival Huế”. Ai lại không muốn về
với quê hương, nghe giọng thổ âm
thân quen, ăn món ngon quê hương quen miệng
từ ngày thơ ấu, đi lại trên con
đường làng quen thuộc sau suốt một cuộc
đi dài, nhất là khi mái tóc
đã hoa râm, tấm thân đã mệt mỏi.
Có bao nhiêu người đã trở về, mỗi
năm một đôi lần, khi chúng ta đã
muốn đi thì có biết bao động lực
và lý do, xây lại nấm mồ cha mẹ,
làm lại ngôi nhà thờ, làm lễ
mãn tang, chúc thọ người thân .. Việt
Nam
hiện nay rẻ của, rẻ người, đồng
đô la có thể làm biến dạng một
ông già thành người trai trẻ, một
người sống trong lãng quên thành một
hoàng tử giữa một cung đình.
Người ta nói rằng “Duyên
Dáng Việt Nam”
là một chương trình nghệ thuật
hoàn toàn không mang một sự tuyên truyền
chính trị nào, nó không có cờ
đỏ, không có hình ảnh lãnh tụ
hay khẩu hiệu tuyên truyền. Nhưng chúng ta
cũng nên hiểu rằng nó đã được
nhà nước công phu tuyển chọn những
giai nhân tuyệt sắc, những y phục đẹp
nhất, những kỹ thuật mới mẻ nhất,
công phu dàn dựng và một ngân khoản
lớn không tiếc tiền trong khi dân tình
còn đói khổ, chế độ còn bất
công và áp bức còn đầy rẫy. Họ
đến đây hẳn không vì lý do
thương mãi hay để mua vui cho “núm ruột
thân thương nghìn dặm” ? Quả là
viên thuốc “quê hương” bọc
đường ngọt ngào như những dòng
thơ của Nguyễn Trung Quân.
Trên thế giới này có hằng
trăm triệu con người có tự do để
chọn một nơi khác làm quê hương
của mình. Sau ngày 20 tháng 7-1954, một triệu
người miền Bắc đã đến miền Nam “xin
nhận nơi này làm quê hương”. Sau
ngày 30 tháng 4-1975, gần ba triệu người
Việt đi tìm một quê hương khác
trên khắp quả địa cầu. Dù ai cũng
biết “quê hương là chùm khế ngọt”,
biết rằng “quê hương mỗi người
chỉ một” người ta vẫn đi tìm một
quê hương khác để khỏi nếm phải
chất chua của chế độ. Bây giờ hầu
hết xem quê nhà như một nơi du lịch,
đến và ra đi như một người
khách lạ. Ở những quê hương thứ
hai này, con người rõ ràng đã
“lớn nổi thành người”, thứ con
người tử tế, có nhân cách, không
biết xảo trá hay chiều chuộng ai. Quả
đất tròn, nên đi hết biển có thể
trở lại nơi khởi hành, tuy vậy con
cá hồi, con chim én còn chọn mùa, chọn
vùng biển, vùng trời, huống gì con
người.
Tuy vậy rồi tất cả, đều trở lại
nơi không phải là quê hương của
mình mà cảm thấy bình yên như
chính ở quê hương. Nghe mà xót xa
thay khi bà con chúng ta đi Việt Nam lúc
trở về nơi “ăn nhờ ở đậu”
lại có cảm tưởng “trở về
nhà”.
“Dù ai nói ngọt nói ngon”,
dù ai đem “núm ruột ngàn dặm”
chiêu dụ thì quê hương vẫn là
quê hương, nhưng xin hẹn một ngày về
chưa phải là hôm nay, và hy vọng của
chúng ta sẽ không bao giờ tàn lụi.
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)