Thằng Con Lang Bạt
(Tâm Bút: Hà Huyền Chi)
Ở thời điểm 1954, cả Hà Nội bừng
lên cơn sốt với nhiều dấu hỏi lớn:
Di cư vào Nam
hay ở lại với Việt Cộng ?
Tuổi 16 cũng đang bừng lên cơn sốt
vỡ da: Ta sẽ làm gì đời ta ? Ở lại
cùng đói nghèo hay phiêu lưu tìm một
chân trời mới ?
Vào một buổi sáng cuối tháng 3,
gã trai 16 ngờ nghệch là tôi đã
làm một việc phi thường. Gã viết nguệch
ngoạc hai câu thơ của ai đó lên trang
giấy học trò:
"Ôm mộng ra đi bàn tay trắng
Chí lớn không về bàn
tay không."
Gã phóng cây bút ngòi lá tre
ghim mảnh giấy lên mặt bàn viết, và
khăn gói quả mướp ra đi cùng thằng
bạn học. Gã cố ý đảo một
vòng qua khu chợ chồm hổm để nhìn
người mẹ lần cuối. Gã không
dám lại gần, bởi có thể mẹ
gã sẽ nhìn được nét thay đổi
lớn trên gương mặt thằng con ngờ nghệch
ấy. Bằng giác quan thứ sáu.
Chợ nhà nghèo, người bán nhiều
hơn kẻ mua. Người mẹ lam lũ ngồi
bó gối sau những thúng mủng, quang gánh.
Hắn bậm môi thầm nói lời chia biệt:
-"Mẹ ơi ! Con
đi đây. Mẹ đừng buồn nhé mẹ
! Con sẽ cố gắng sống cho ra một con người.
Con hứa với mẹ như thế .."
Khi thằng con lêu
bêu trên bờ biển Nha Trang, chờ đợi một
cái gì không rõ tên, không rõ mặt
ở tương lai gần, ước vọng xa, thì
người mẹ khốn
khổ kia đã gần mù vì khóc. Khóc
vì thương thằng con ngờ nghệch. Khóc
tới khô lệ. Khóc tới chảy máu mắt
tội tình.
Và đó
cùng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy
mẹ. Cho đến khi người qua đời với
bệnh đau dạ dày cấp tính.
Khi thầy tôi tê
liệt nằm một đống với cứt
đái, thì mẹ tôi cần chút rượu
trắng dằn cơn lợm giọng lúc qua bữa. Cũng
chỉ là những cút rượu ngang cháy cổ
ấy đã gây thành chứng nghiện,
và những cơn đau dạ dày. Chọt một
cái, không nhâm nhi, không thức nhắm. Cữ
rượu đầy đọa mẹ tôi ở
cơn đau ngày một tăng dần, và cũng
ở cảnh bần hàn không đủ tiền
ăn, nói gì mua rượu. Mẹ tôi là
người suốt đời cung cúc tận tụy
lo chồng con, nào biết
đến thú vui riêng. Vậy mà phải
nhín đầu này, xén đầu kia để
có tiền mua rượu.
Khi thầy tôi mất,
cữ rượu vẫn không mất. Chọt một
cái, mẹ tôi đã như một người
nào khác. Mẹ gọi tên thằng con lang bạt
tội tình. Rượu chảy theo nước mắt
ở Mậu Thân, ở Lam Sơn, Hạ Lào ..
-"Biết nó
còn sống nổi hay không hả giời ?"
Sau tháng Tư, 1975
tôi đã có những thư từ và tiếp
tế đều đặn bằng tiền khô. Kèm
theo những lời hứa hẹn sẽ trở về
thăm mẹ một ngày không xa. Mẹ tôi hẳn
vui lắm, khi ấy. Những bữa rượu
đã đều đặn, thoải mái hơn
và cơn đau dạ dày cũng tăng trưởng
mạnh hơn. Mẹ giấu, nhưng lũ em tôi
đã phát hiện, và đều "nhất
trí" rằng liều thuốc hay nhất, công
hiệu nhất là năn nỉ mẹ tôi đừng
uống rượu nữa. Vô ích. Thiếu rượu,
mẹ như người chết rồi. Đúng
hơn là một thây sống biết đấm ngực
nằm vạ, biết chửi rủa lũ con bất hiếu.
Từ Mỹ, tôi cố
khuyên lũ em, hãy để mẹ yên vui nốt
những ngày già. Uống hay kiêng cũng vậy
thôi. Đừng làm cho mẹ buồn, tội nghiệp.
Những chai thuốc bổ gửi về được
tôi đổ đầy rượu mạnh. Hẳn
là mẹ tôi chăm uống thứ "thuốc bổ"
ấy hơn. Và thương thằng con lang bạt
chí hiếu này hơn.
Những lần chậm
tiền, mẹ tôi đã biết đem mấy
cái thư ra ngoài quán dùng như một
tín vật:
-"Cho một cút
đi ông chủ. Thằng con tôi sắp gửi tiền
về rồi đó. Không tin ông đọc thử
coi."
Khi lãnh tiền, mẹ tôi cầm cả nắm
vung vẩy khoe cùng xóm:
-"Tao có tiền rồi. Nhiều lắm. Mả
mẹ đứa nào khinh tao nghèo chứ ?"
Tôi không nghĩ rằng mẹ khoe tiền,
khi ấy. Cái mẹ tôi nắm được
trong tay và muốn khoe, chỉ là một chút
hình ảnh thằng con lang bạt bên trời.
Vợ chồng tôi phải lãnh việc
chùi dọn tư sở, ban đêm, để
có thêm tý tiền tươi mua thuốc bệnh,
và "thuốc bổ" biếu mẹ. Nhưng rồi
mẹ tôi cũng không thể ép lòng chờ
thằng con lang bạt được lâu hơn. Mẹ
khóc thầm ở những lúc cuối đời.
Sinh lực còm cõi mẹ, theo dòng lệ
thương tủi ứa ra không ngớt. Mẹ muốn
đi từ tháng Chạp, nhưng vẫn ráng chờ
thằng con, tới Tết, rồi Giêng, Hai. Mẹ thảm
thiết gọi tên thằng con lang bạt nhiều lần
trước khi tắt thở. Khi ấy, ngôn ngữ
loài người chỉ còn thu gọn lại bằng
một chữ, tên người. Tên thằng con lang
bạt.
HÀ HUYỀN CHI