Ba Tuần ở Việt-Nam
(Phạm Quang Tuấn)
LGT: Một
cái nhìn về Việt Nam của GSTS, nhạc sĩ Phạm Quang
Tuấn, một người Việt Nam tỵ nạn CSVN tại
Úc, trong chuyến thăm nhà 3 tuần mới
đây.
* XUẤT NHẬP CẢNH
Thủ tục ở Tân Sơn Nhất rất
nhanh chóng, qua công an cửa khẩu chỉ trong
vòng 1, 2 phút, và hải quan cũng rất dễ
dãi. Những banderole chào mừng Việt Kiều
về ăn Tết cũng gây cảm tưởng tốt.
Chỉ có một điểm nhỏ, không làm
tốn thời giờ nhưng cũng gây một
chút bực bội: gia đình không được
trình hộ chiếu cùng lượt mà phải
vào từng người một. Tại sao không bỏ
cái lệ ngớ ngẩn và vô dụng
này để theo đúng thông lệ quốc
tế và tránh làm du khách ngỡ
ngàng bực bội ?
* TIẾNG VIỆT
Gọi cho hãng du lịch nhờ họ mua
vé xe lửa đi Nha Trang, họ không hiểu
mình nói gì. Sau phải nói lại là
tàu hỏa họ mới hiểu !
Giọng Hà Nội không còn nữa ở
giới trẻ. Có lẽ vì người
“Hà Nội gốc” đã thành thiểu
số. Giọng Hà Nội xưa phân biệt rất
rõ các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng,
nhưng ngày nay giới trẻ (dưới 30 tuổi)
hầu như không còn nói được dấu
sắc mà đã biến nó thành dấu
hỏi:
“Yêu nhau cởi ảo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu giỏ
bay…”
“Thưa quỉ vị khản giả…“
Trẻ con bây giờ nói chuyện cứ
như người lớn, dùng những từ ngữ
văn vẻ, có lẽ vì được nghe nhiều
trên TV.
* TIẾNG ANH
Trong toilet tàu hỏa: “Please press one button to
have a piss (Vui lòng ấn 1 nút khi tiểu tiện).
Please press two buttons to go to stool (Vui lòng ấn 2 nút
khi đại tiện)”.
Trên tiệm phở ở giữa Sài
Gòn: “No pay, no delicious” (Không ngon không trả
tiền).
* TV
Đầy rẫy game show đủ loại trên
các kênh, hầu như giờ nào cũng
có. Có một show trong đó cứ mỗi kỳ
một đại học cử một nhóm sinh
viên ra trả lời câu đố. Trả lời
sai một câu thì đi ra, cứ thế cho đến
khi không còn người nào. Hôm
đó là sinh viên Đại học Dân lập
Văn Lang, gặp câu hỏi "quốc hiệu đầu
tiên của Việt Nam là gì ?", ba phần
tư số sinh viên không trả lời được
(dù đó chính là tên trường
mình !) và có một số trả lời
là “An Nam” !
* TÀU HỎA
Ra Nha Trang bằng tàu 5 sao của tư nhân mới
thành lập. Trong toa sang trọng chẳng kém TGV
bên Pháp. Tuy nhiên vì đường ray hẹp
nên đi không nhanh lắm và vẫn lắc
lư mạnh khiến Mai gần ói.
Ra Huế và trở lại Sài Gòn bằng
tàu Thống Nhất SE của nhà nước.
Có một chuyến thermostat bị hỏng, toa lạnh
cóng, giữa đêm tìm không thấy nhân
viên, cuối cùng tôi phải tự đi tắt
điều hòa không khí. Lúc sắp qua
đèo Hải Vân nghe loa nói: "Các
đồng chí nhân viên sửa soạn để
tàu qua đèo Hải Vân". Tôi buồn
cười nghĩ thầm chẳng lẽ phải là
đảng viên thì mới được làm
nhân viên đường sắt Việt Nam ?
Tuy nhiên các “đồng chí” phục
vụ rất tận tình, chu đáo và vui vẻ.
Mỗi khách sắp đến ga của mình
là được báo trước từng người,
tới vào ban đêm thì được
đánh thức.
* NHA TRANG
Nha Trang đầu tư vào du lịch một
cách hối hả, lộn xộn và kệch cỡm.
Biển Nha Trang hầu như đã mất hết vẻ
thơ mộng. Giữa bãi biển chính là một
tòa nhà cao tầng đang xây rồi bỏ dở,
vì dính vào tham nhũng. Trên hòn đảo
lớn nhất ngoài khơi là chữ
“Vinpearl” khổng lồ theo kiểu
“Hollywood”, cùng những sườn núi bị
cạo trọc và những building khoa trương kệch
cỡm trong khu giải trí Vinpearl. Nguyên phía Nam vịnh
Nha Trang thật chướng mắt với hệ thống
cáp treo khổng lồ nối từ bờ biển Cầu
Đá ra Hòn Tre, nay có tên mới là
Hòn Ngọc Việt. Vé phà khứ hồi ra
đảo là 100.000 đồng và vào khu giải
trí là 200.000 đồng, chắc chắn không
phải là cho túi tiền phó thường
dân !
Hòn Chồng xây một ngôi nhà cổ
(chở từ đâu về và phục chế) thật
to và huy hoàng nhưng bãi biển chung quanh
thì dơ bẩn, hoang phế. Một khách sạn
khổng lồ, do một Việt kiều từ Nga về
xây, chiếm cả Bãi Tiên thơ mộng
ngày xưa, xây gần xong thì vỡ lở
chuyện tham nhũng nên để hoang. Một con
đường thật tốt dài nhiều km dẫn
từ thành phố tới cái hotel hoang phế
đó, nay vắng tanh chẳng có ai đi. Họ
bảo sẽ nối vào Quốc lộ 1, nhưng hiện
vẫn để chỏng trơ. Trong khi đó
đường trong thành phố thì vẫn
lúi xùi chật hẹp. Ai trả tiền cho những
lãng phí đó ? Người dân hay viện
trợ ? Không có EIS và chính quyền chẳng
bao giờ hỏi ý người dân sở tại
về những “phát triển” trong địa
phương của họ.
Tháp Bà bị bắt mang một hàng chữ
“Tháp Bà Po Nagar” thật lớn (lại Hollywood !) cạnh
đồi và một lá cờ đỏ sao
vàng ngay cạnh tháp chính. Thật là ấu
trĩ và chướng mắt ! Gọi là ấu
trĩ cũng không đúng, một đứa trẻ
cũng có thể thấy là không thích hợp
chút nào. Xem lại những ảnh Angkor
đã chụp, không bao giờ thấy những
cái chướng mắt như thế !
* HUẾ
Trên đồi Vọng Cảnh của Huế, thấy
một tấm bảng thật lớn, đề ngày
30-9-2005: “Cán bộ và nhân dân đến
tham quan đồi Vọng Cảnh yêu cầu thực
hiện một số quy định sau: …” Tại
sao phải phân biệt “quan” với
“dân” thế nhỉ ? Cán bộ thì
không phải là nhân dân sao ? Và du
khách ngoại quốc (không phải quan hoặc
dân) thì không cần tuân theo qui định
sao ?
“Cấm chôn người chết, xây
lăng mộ…” Nhìn quanh mới hiểu tại
sao: mộ - cái thì có bia, cái thì
không - lổm chổm đầy khắp khu này.
Đất hàm rồng chắc ?
* THĂM LĂNG TẨM. NGHE NHÃ NHẠC
VỚI… ĐÀN BẦU ĐIỆN VÀ
ĐÀN TRANH !
Đọc văn bia Tự Đức tại
Khiêm Lăng, Lê Nguyễn Lưu dịch trong tạp
chí “Nghiên Cứu và Phát Triển”
của Huế. Quả là khiêm tốn, đến
độ khôi hài: “Sao [ta] lại lấy
cái khiêm của ta mà bắt núi kia,
sông kia, nhà kia, điện kia cũng phải
khiêm theo ? Mà sao ta lại lấy chữ khiêm
làm tên ? Khiêm mà gọi là khiêm
thì có thực không ? Nào có tài
năng công đức gì mà không khiêm
?"
Tự dằn vặt, tự vấn bản thân
kiểu đó, đến Woody Allen cũng chưa bằng
! Nhưng sao không đủ khiêm tốn để
nhường ngôi cho người khác giỏi
hơn ? Và tại sao các ông quan bằng
đá trong lăng các vua phải tạc thật
lùn như những đứa trẻ với dáng
điệu khúm núm để chứng tỏ
là họ không bằng vua ? Nhìn những
ngôi tượng lùn xủn khúm núm
đó, làm sao mà kính phục vua của họ
được ? Tôi nghĩ đến những bức
tượng chiến sĩ lực lưỡng, hiên
ngang thấy khắp bên Âu châu, và cảm
thấy xấu hổ cho cách suy nghĩ của giới
thống trị Việt Nam thời đó. Vua
như vậy thì nước hèn yếu là dĩ
nhiên.
Nghe kể: sau một thời gian dài bài trừ
phong kiến, xây đài liệt sĩ trên
đàn Nam Giao, gần đây lễ tế Nam Giao
được phục hồi. Nhưng có một vấn
đề: ai sẽ đóng vai vua ? Cuối cùng
các vị lãnh đạo quyết định hai
điều: thứ nhất, “vua” không
được là dòng dõi hoàng gia; thứ
hai, “vua” phải là đảng viên ! Hai thế
kỷ đã qua nhưng vẫn còn suy nghĩ luẩn
quẩn!
* CẦN THƠ
Chỉ ghé Cần Thơ hai ngày, nhưng thấy
thật dễ thương. Dân chúng hiền
hòa, thành phố phồn thịnh, đường
sá rộng rãi (4, 6, 8 đường xe),
đêm bật đèn sáng trưng, các chợ,
khu buôn bán và các trung tâm giải
trí nhộn nhịp. Hậu Giang mênh mông,
sông Cái Răng tươi mát. Xứng
đáng danh hiệu Tây Đô. Phồn thịnh,
phát triển, nhưng không quá đông
đúc như Sài Gòn hay chỉ ồ ạt
nhắm vào du khách mà quên mất dân
đen như Nha Trang.
* SÀI GÒN
Sài Gòn đường càng ngày
càng lớn - 6, 8, 10 làn xe - nhưng mật độ
xe cộ vẫn không thay đổi. Bao giờ mới
có metro ? Đứng ở các ngã tư để
kiểm soát giao thông bây giờ không phải
là cảnh sát mà là những nhân
viên của “Công ty Dịch vụ Đường
Xá”. Tư hữu hóa hơn Úc !
Công viên nhiều hơn trước, dân
Sài Gòn nay có nhiều chỗ đi dạo, chạy,
tập thể thao. Tòa Đô Chính sơn sửa
lại, trồng cây đằng trước, rất
đẹp. Nhưng bến Bạch Đằng thì xấu
kinh khiếp, thua các bãi biển, bờ sông của
Nha Trang, Huế, Cần Thơ.
Tuyền đưa bọn mình và
Bình-Hà đi coi mấy khu đô thị mới
(Phú Mỹ Hưng, v.v…) Nghe nói là có
những khu “Tây da vàng” và
“Tây da trắng”. Tây da vàng
(Đài Loan, Singapore…) thích
nhà phố đẹp, Tây da trắng thích
có cảnh sông.
Ngoài số xe cộ và bề rộng của
đường xá, tốc độ phát triển
của Sài Gòn còn có thể đo
được bằng dây điện !
* CỦ CHI
Ngôi đền liệt sĩ làm theo kiểu
chùa cổ rất đẹp. Các “hướng
dẫn viên du lịch” mặc quân phục, chỉ
dẫn du khách qua những “chốt”
chính. Chốt đầu là xem một phim thuyết
minh. Chỉ nghe vài câu đã thấy…. khiếp
vì giọng điệu tuyên truyền cực
đoan một chiều kiểu 1975. Ráng coi vài
phút xem có thông tin thực tế gì về
hệ thống hầm không (không có !), rồi
đi ra hỏi “hướng dẫn viên” còn
chỗ nào nữa không. Anh ta ngần ngại
không muốn chỉ, có lẽ vì thấy
“khách” không ngoan ngoãn coi hết,
nhưng người bạn đồng ngũ - có lẽ
thực tế hơn - bảo “thôi chỉ cho họ
đi !” Chỉ tội nghiệp mấy người
đi tour xe buýt, phải ngồi “lãnh đủ”
cả cuốn phim. Củ Chi cũng là nơi duy nhất
mà hỏi “người hướng dẫn”
(bộ đội) có khi họ không thèm trả
lời, mà cũng không thèm nhìn mình,
chỉ vênh mặt một cách hách dịch
như cán bộ đối xử với “ngụy”
thời 75 !
Chui thử vào một đoạn hầm
dài 40 mét - đã làm rộng cho Tây,
và có chăng đèn nên chẳng có
gì ghê -, nhưng vài thanh niên đi sau cũng
luôn miệng kêu: “Thấy ngõ ra chưa
bác ? Thôi quay lại đi !"
Nếu mục đích của họ là
gây lại cái không khí ghê sợ của
“thời đó”, thì những người
coi sóc Củ Chi rất thành công. Các
nhóm cực đoan hải ngoại muốn tuyên
truyền chống chế độ, chỉ cần mua cuốn
phim thuyết minh của Củ Chi đem về chiếu, bảo
đảm sẽ thành công 100%.
* ĐỜI SỐNG
Người dân thường vẫn chật vật
nhưng cảm thấy càng ngày càng khá
hơn và không có cảm tưởng bị
áp bức quá đáng. Họ được
tự do đi lại, làm ăn, thờ phượng.
Tham nhũng lớn nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng
và đời sống vật chất càng
ngày càng hơn, giải trí đủ loại.
Những đút lót lặt vặt không
còn nữa. Ai cũng có TV, DVD, điện thoại
di động, hoặc có thể mua được dễ
dàng không thiếu thứ gì. Dịch vụ
gì cũng có công ty tư nhân tham dự, từ
tàu hỏa đến cảnh sát chỉ
đường, và có đủ mọi tiêu
chuẩn hợp với mọi túi tiền, từ
bình dân tới sang trọng, từ năm sao tới
ngàn sao. Trình độ phục vụ mọi
nơi luôn luôn chu đáo. Báo chí
ăn nói khá bạo và mọi người
thoải mái chỉ trích chính phủ,
không cần hạ giọng, miễn đừng
đòi lật đổ chế độ (tức
là cũng như thời Pháp hoặc miền Nam
1964-75, và tự do hơn thời Ngô Đình
Diệm trước đó). Người dân cũng
cảm thấy là Việt Nam đang thay đổi
theo chiều hướng tốt hơn. Phải công nhận
là chính phủ có những nỗ lực cải
tiến, tuy không đồng đều về mọi
phương diện. Thiệt thòi nhất có lẽ
chỉ là những người bị giải tỏa
cho các công trình xây dựng. Kinh nghiệm
gia đình cho thấy là cán bộ, vốn
đã được cho không hay mua rẻ nhà
cửa tịch thu của “ngụy”, thì
luôn luôn được đền bù xứng
đáng (nhờ quan hệ ? hay nhờ quen cách
“chạy” ?), còn thường dân
thì… chưa chắc.
Tiệm sách đầy rẫy truyện Sơn
Nam và Nguyễn Ngọc Tư. Gần một phần
ba số truyện Việt Nam trên kệ là của
hai tác giả này. Nếu Ban Tuyên Giáo
Cà Mau dạo đó không kiểm điểm
truyện “Cánh Đồng Bất Tận” của
Nguyễn Ngọc Tư thì không biết cô
này có trở thành bestselling như vậy
không.
Báo đang ồn ào về những căn
nhà cao tầng xây trái phép. Có
ngôi nhà chỉ được phép xây 15 tầng
mà xây thành 22 tầng, có nhà 8 tầng
xây không có giấy phép gì hết. Sai
phạm như vậy mà chỉ bị phạt 200.000
đồng (13 USD) ! Chính phủ bất lực,
không phải là vì dân chủ quá
đáng, mà vì đằng sau mỗi dự
án lớn là một lực lượng của
đảng viên bự, công an, quân đội…
tự đặt mình lên trên luật
pháp.
Ở ngoại quốc về thì rất bực
dọc vì tới phân nửa những trang web quen
thuộc của mình, kể cả groups.yahoo. com, bị
“tường lửa” ngăn chặn, nhưng
người ở trong nước thì không cảm
thấy thiếu thốn vì chưa bao giờ có.
Sách và nhạc miền Nam thời xưa phục
hồi khá nhiều, nhưng bị cấm cũng
còn rất nhiều (kể cả gần một
ngàn bản nhạc của Phạm Duy), tuy rằng vẫn
hát “đại” ở các phòng
trà. Trong mỗi internet cafe là những yết thị
“Cấm truy cập những trang web đồi trụy
và phản động” nhưng hầu hết
khách là trẻ em vào chơi game đâu
có để ý.
Dịch vụ rất nhiều hạng và nhiều
giá tiền khác nhau. Những lần trước
về thăm Việt Nam
thấy gì cũng rẻ, kể cả những nơi
sang trọng. Kỳ này thấy nhiều nơi vượt
xa túi tiền của Việt kiều và cần phải
xem giá trước khi bước vào, nhất
là khi chiêu đãi đông bạn bè
và gia đình !
* CA NHẠC
Vợ chồng Nghiêm dẫn đi nghe nhạc ở
phòng trà Văn Nghệ của Phạm Duy ở
Bình Thạnh. Đông nghẹt, ca sĩ hát hay
và nhạc đệm rất khá. “Bố
già” cũng tới nghe cùng các con. Nửa
đầu hát nhạc Phạm Duy và các ca
khúc miền Nam
khác trước 75 (bây giờ gọi là
“nhạc tiền chiến”!), thính giả nhiệt
liệt vỗ tay. Nửa sau là “special guest
star” (khách mời đặc biệt), ca sĩ trẻ
Tùng Dương từ Hà Nội hát cả nhạc
cũ lẫn nhạc mới (Phó Đức Phương,
Trần Tiến…). Chàng ca sĩ này hát rất
hay và sinh động, giọng thật là khỏe
và kỹ thuật rất tốt, nhưng phong
cách và cách ăn mặc “thời thượng”
của anh ta có lẽ không làm hài
lòng giới khán giả của phòng trà
này ! Khi chuyển sang hát những bài mới
của các nhạc sĩ miền Bắc, gần một
nửa thính giả lục tục ra về. Ngồi
đằng sau tôi là một chàng có lẽ
hơi say rượu, nói cười ầm ỹ
và chửi đổng “pê-đê”.
Tôi quay lại làm dấu bảo anh ta bớt ồn
thì anh ta sinh sự: “Thằng cha này là bố
thằng pê-đê hay sao mà thích nó dữ
vậy !” Cuối cùng mấy người bạn
của anh chàng kéo anh ta ra về.
Có lẽ là âm nhạc bây giờ
phân hóa quá nhiều và cũng chia theo trục
Bắc Nam.
Miền Nam
đeo nặng truyền thống nhạc lãng mạn
tiền chiến, còn miền Bắc, sau mấy chục
năm nhạc (và thơ văn) tình cảm bị
cấm, không có hành trang gì đáng kể
và lanh lẹ vọt theo những trào lưu trẻ
trung nhộn nhịp của ngoại quốc. Ít
có thính giả nào thưởng thức
được hơn một dòng nhạc. Không
như ngày xưa, khi mọi cái tai đều nghe
nhạc qua đài phát thanh, bây giờ mỗi
người có thể mua những đĩa mình
thích và thính giả phân hóa
thành nhiều bộ lạc, như ở ngoại quốc.
Nhiều người rất bỡ ngỡ về chuyện
đó và nhảy vào phê bình những
dòng nhạc mình không quen thuộc một
cách ngớ ngẩn.
Gần khách sạn có một phòng
trà nho nhỏ của ca sĩ Bích Hồng, dạy
thanh nhạc ở Nhạc viện. Rủ vợ chồng
Nghiêm-Phượng và Chính-Lan tới nghe.
Té ra Bích Hồng cũng là “người
nhà”: bạn cũ của Hoàng Ngọc-Tuấn,
và mới được Chính nhờ hát, với
một số thù lao rất “đẹp”,
mười nốt nhạc “Tình Ca” mà
“chàng” đã mua của Phạm Duy cũng
với một giá rất “đẹp”: 100 triệu
đồng. Phòng trà nho nhỏ, thân mật,
khách được mời lên hát. Nghe giọng
hát của Bích Hồng và Lệ Mai trong
không khí ấm cúng đó thật là
đã. Anh chàng đệm nhạc nhiều khi
quá ồn, tôi phải nhăn mặt chạy
lên nói anh ta giảm bớt. Chắc anh ta cũng
hơi ngạc nhiên tại sao khán giả mà bạo
gan dám phê bình nhạc công !
Cái tật ban nhạc đệm quá to,
đè ca sĩ, và để echo, reverb quá nhiều,
dường như đang trở thành phổ biến
hơn ở Việt Nam,
tệ chẳng kém các ban nhạc Việt Nam ở
Úc. Ở một phòng trà nổi tiếng
là ATB của Ánh Tuyết, ban nhạc (nhất
là trống) ồn đến nỗi phải lắng
tai hết sức mới nghe được vài…
echo của giọng ca sĩ trong những khoảng
cách ngắn ngủi giữa các tiếng trống,
đàn (giọng thật của ca sĩ thì…
đừng có hy vọng nghe, “quên đi”
!) Ngay cả bà chủ phòng trà Ánh Tuyết
cũng bị ban nhạc “đè” không
chút nể nang, hầu như không còn nghe
gì nữa. Thính giả chắc cho vậy là
hay nên không ai than phiền, còn ca sĩ thì
chắc không dám than sợ bị trù !
Võ Thanh Tùng tới thăm và tặng
edition mới của CD-ROM “Nhạc Khí Dân Tộc
Việt” mới hoàn thành. Sau bao nhiêu
năm cặm cụi nghiên cứu, cuối cùng anh
đã phải bỏ Nhạc viện để ra
làm nghề khác kiếm sống. Thật
đáng tiếc !
Tới thăm Phạm Duy tại căn nhà ở
Lê Đại Hành mà Công ty Phương Nam
đã tặng ông như một phần của
giao kèo bản quyền. Phạm Duy vẫn minh mẫn,
làm việc hăng hái, rất vui vẻ và
hài lòng với đời sống ở Việt
Nam của mình, với các chuyến du lịch từ
Bắc chí Nam, với sự “tôn thờ”
của dân chúng địa phương (biếu thức
ăn hàng ngày), với các ca sĩ trẻ
hát nhạc và ra đĩa nhạc mình,
và với các sinh viên Nhạc viện bắt
đầu nghiên cứu nhạc Phạm Duy. Ông
có một thái độ “thực tế”
và kiên nhẫn (hay cam chịu) về chế độ
kiểm duyệt ở Việt Nam, dù sau hai năm ở
nhà vẫn mới chỉ có ba chục bản nhạc
được cho lưu hành.
* VÕ HỒNG
Không hiểu sao tôi chưa bao giờ tới
gặp nhà văn Võ Hồng, dù con ông
là bạn học và bạn của gia
đình từ nhỏ và nhà ông chỉ
cách nhà tôi vài trăm mét. Diệu Hằng
gọi mẹ tôi là “Mẹ” và
tìm ở bà người mẹ ruột
đã mất. Kỳ này, nghe tin Võ Hồng ốm
nặng và Hằng phải ở bên ông để
săn sóc, tôi và Lệ Mai vội tới
thăm. Gặp ông trên sân thượng.
Nhìn ông lờ đờ ngồi trên xe lăn,
Mai tuôn nước mắt vì vốn ngưỡng
mộ ông từ lâu. Ông ngồi im lặng, cho
tới khi Mai nói về văn của ông thì mới
như tỉnh lại, bắt đầu nói chuyện.
Khi Hằng nói là Mai hát và tôi viết
nhạc, ông tỏ vẻ chú ý. Tôi đề
nghị Mai hát, ông yêu cầu Mai hát nhạc
của tôi. Hết một bài ông đòi
nghe một bản nhạc mới nữa. Dưới bầu
trời đêm Nha Trang mát mẻ và yên tĩnh,
Mai hát ba bài a cappella. Khi Hằng hỏi ông
có mệt và muốn nằm không, ông gạt
đi: "Vô lễ, có nghệ sĩ tới
thăm". Chúng tôi cảm động trước
sự trân trọng đó và kính phục
tâm hồn nghệ sĩ còn nguyên vẹn của
ông. Cũng vui phần nào vì đã
đem tới cho ông một chút hoạt động
văn nghệ bình thường.
PHẠM QUANG TUẤN
(Bai Chuyen)