Trích Ðoạn:
PHÊ
BÌNH, MỘT ÐÓNG GÓP CHO TIẾN BỘ
(Lê Công Truyền)
….
Không thấu triệt hoặc không tìm hiểu
toàn bộ vấn đề mà mình đem ra
phê bình, người phê bình dễ
gây cho đối tượng phê bình một sự
khó chịu vô ích, làm mất niềm
hòa khí giữa người phê bình
và đối tượng phê bình và biến
thiện ý thành ác ý, biến phê
bình thành xuyên tạc. Ngoài
ra, trước khi nắm vững vấn đề, người
phê bình có thể sẽ rơi vào
tình trạng phê bình sai. Trong
văn học sử Trung quốc cổ thời, có hai
giai thoại khá lý thú về trường hợp
nêu trên, xin được tóm lược
dưới đây.
a) Hai câu thơ của
Vương An Thạch
Vào một buổi đầu xuân, Tô
Đông Pha (TĐP), một danh sĩ đời Tống,
cùng vài người bạn đến vấn an
và chúc thọ Tể tướng Vương An Thạch
(VAT). Trong khi chờ Tể tướng tiếp kiến,
TĐP chợt nhìn thấy hai câu thơ do
chính VAT viết và treo nơi đại sảnh:
“Minh Nguyệt
sơn đầu khiếu.
“Hoàng Khuyển ngọa hoa
tâm
Tạm dịch:
Chim Minh Nguyệt hót trên đỉnh
núi
Sâu Hoàng Khuyển nằm trong
lòng hoa
Sau khi chúc thọ xong, trên đường về,
TĐP nêu nhận xét về hai câu thơ của
VAT: “Hai câu thơ của Tể tướng
không được chỉnh”. Các
bằng hữu hỏi tại sao không chỉnh. Họ
Tô giải thích: “Tể tướng viết
“Minh nguyệt sơn đầu khiếu” có
nghĩa là “trăng sáng hót trên đỉnh
núi” Quý hữu nghĩ xem trăng làm sao
biết hót! Tại hạ chưa từng thấy
trăng hót bao giờ cả, dù trăng có
sáng đến đâu chăng nữa. Trăng chỉ
có thể chiếu hoặc soi sáng đỉnh
núi, nhứt định không thể hót
được. Còn một điểm nữa,
ai đời quan lại cho con chó vàng (hoàng
khuyển) nằm trong lòng một đóa hoa (hoa
tâm). Hoa nào to đến độ có thể
chứa cả một con chó, dù là một con
chó chưa mở mắt.” Các bằng hữu
hỏi họ Tô: “Như vậy
thì theo hiền hữu phải sửa thế nào
cho chỉnh?” TĐP đáp: “Rất dễ ! Chỉ cần sửa chữ
“khiếu” thành chữ “chiếu”và
chữ “tâm” thành “âm“
thì hai câu thơ sẽ tuyệt vời”. Cao hứng,
TĐP khẽ ngâm hai câu thơ mà ông vừa
nhuận sắc:
“Minh
Nguyệt sơn đầu chiếu,
“Hoàng Khuyển
ngọa hoa âm”.
Tạm dịch:
Trăng sáng chiếu đỉnh
núi
Chó vàng nằm dưới
bóng hoa
Các bạn của TĐP vỗ tay
tán thưởng và cho rằng họ Tô
đáng bậc thần thơ và có lẽ thi
tài của Tể tướng VAT đã biến
đổi ngược chiều với số tuổi của
ông.
Trong khi cao hứng bình thơ như
trên, TĐP đâu có ngờ trong đám bằng
hữu lại có một tên “chỉ điểm”. Do đó, câu chuyện thấu tai VAT. Ông không giận
mà chỉ mỉm cười một cách bao dung,
độ lượng.
Sau tết Nguyên đán năm
đó, TĐP nhận được chiếu chỉ
đi trấn nhậm một Huyện nọ. Một hôm rỗi rảnh việc quan, quan
huyện họ Tô cùng người lính hầu
dạo chơi vùng núi tiếp cận thị trấn.
Đó là một buổi sáng đẹp trời,
cây cỏ, hoa lá, muông thú như bừng sống
dậy sau một mùa đông ngập tuyết. Đang nhìn ngắm cảnh trời mây,
TĐP bỗng thấy một đôi chim lượn
trên vòm trời xanh. Đôi chim thật
đẹp, họ Tô chưa từng
thấy. Sau một hồi bay lượn,
đôi chim đáp trên đỉnh núi, cất
tiếng hót thật lảnh lót, tựa một nhạc
khúc mừng xuân. TĐP hỏi người
lính hầu: “Loại chim này ta chưa từng
thấy. Ngay tại kinh đô cũng
không có. Ngươi có biết tên
nó là gì không ? Người
lính hầu vội đáp: “Kính bẩm
thượng quan, loại chim này thuộc loại hiếm
và quý. Chúng chỉ sống tại
vùng núi bao la này mà thôi. Tên loài chim này là Minh Nguyệt”.
Giựt mình vì chợt nhớ lại
câu thơ của Tể tướng VAT: “Minh nguyệt
sơn đầu khiếu” mà mình đã
sửa lại thành “Minh nguyệt sơn đầu
chiếu” vì chỉ hiểu “minh nguyệt”
là trăng sáng, TĐP cảm thấy kiến thức
mà mình thu thập được quá từ
chương, chỉ biết “minh” là sáng
và “nguyệt” là trăng chớ chưa
đủ từng trải và lịch lảm để
biết rằng trên cõi đời này có
một loài chim quý tên là “Minh Nguyệt”!
Thế rồi thời gian lặng lẽ
trôi. Xuân tàn,
hạ đến, lá úa tàn thu,
rồi tuyết lại ngập tràn phố thị. Vào một
ngày tàn đông, TĐP lại nhận
được chiếu chỉ thăng tri phủ và
đến trấn nhậm một Phủ nọ, thuộc
miền nắng ấm. Vùng đất
này nổi tiếng có nhiều kỳ hoa dị thảo.
Một buổi sáng sương còn đọng
trên cành cây, ngọn cỏ, TĐP một
mình dạo chơi vùng ngoại ô thị trấn.
Mùi hương thơm lãng
đãng trong không gian buổi sáng dẫn
ông đến một vườn hoa bao la bát
ngát. Đang tưới hoa, thấy quan
phủ tới viếng, chủ vườn vội vã
ra nghinh đón, mời ông vào nhà
dùng trà, đoạn mời ông ra thưởng
ngoạn những loài hoa quý. Một điều
khiến quan phủ họ Tô rất
đổi ngạc nhiên là thấy nhiều cụm
hoa mà mỗi đóa hoa chứa đựng một
con sâu bé nhỏ, màu vàng. Trước vẻ ngạc
nhiên của quan phủ, chủ vườn vội giải
thích: “Kính bẩm thượng quan,
đây là một loại hoa hiếm có tại
xứ ta, chỉ có thể trồng taị phủ
nhà mà thôi ! Con sâu
bé nhỏ này tiết ra một chất nhờn,
giúp hoa tỏa mùi hương sực nức, chiếm
cả một không gian rộng lớn. Khi
sâu chết đi, đóa hoa úa tàn. Cả sâu lẫn hoa lại trở thành
phân bón. Người địa
phương gọi loại sâu này là
Hoàng Khuyển.
Thì ra Hoàng khuyển mà VAT đề cập
trong câu thơ của ông là tên một
loài sâu chớ không phải là “con
chó vàng” như TĐP đã ngộ nhận.
Một niềm hối hận lẫn hổ
thẹn len vào hồn. Hổ thẹn vì sự
thiếu hiểu biết của mình, hối hận
vì đã phê bình VAT một cách
quá vội vã, không tìm hiểu chín
chắn ý nghĩa những chữ trong hai câu
thơ của ông !
Kết luận giai thoại này, chúng ta thấy:
VAT là người từng
trải. Trước khi về triều, ông đã
từng phó nhậm nhiều nơi. Nhờ đó
mà ông thấy nhiều, biết nhiều và nhớ
nhiều. Để ghi lại kỷ niệm những
nơi đã đi qua, VAT sáng tác hai câu
thơ treo tại sảnh đường:
“Minh Nguyệt
sơn đầu khiếu.
“ Hoàng
Khuyển ngọa hoa tâm”.
TĐP, mặc dầu
là một danh sĩ nổi tiếng, nhưng chưa từng
đi đó đi đây nhiều nên không
biết có một loài chim tên gọi “Minh
Nguyệt” và một loài sâu tên gọi
“HoàngKkhuyển”. Do đó, ông ngỡ
là VAT đã sai trong thuật dụng ngữ
nên vội buông lời phê bình và sửa
thơ của VAT, tự đưa mình vào thể
“dở khóc dở cười”.
b) Thi Phẩm
Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế
Một đêm neo thuyền
tại bến Cô Tô, Trương Kế - một
thi hào thời thịnh Đường - cảm hứng
sáng tác một bài thơ tứ tuyệt với
nhan đề “Phong Kiều Dạ Bạc”. Thi phẩm
này thường được biết qua hai câu
cuối:
“Cô Tô
thành ngoại Hàn San Tự
“Dạ
bán thanh chung đáo khách thuyền
(“Thuyền ai
đậu bến Cô Tô,
“Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)
Vì không thấu
rõ nguồn gốc thi phẩm Phong Kiều Dạ Bạc
nên có người nghĩ rằng các
chùa thường chỉ thỉnh chuông vào
lúc công phu sáng và công phu chiều;
chùa nào thỉnh chuông vào nửa
đêm để Trương Kế: “Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”
? Sau đây là nguồn cội của hai câu
thơ vừa ghi:
Vào một
đêm đầu tháng, sư cụ chùa
Hàn San dạo chơi trước sân chùa.
Đêm khuya tĩnh mịch, vầng trăng non e ấp,
thẹn thùa sau dãy phi lao trước cổng. Cảm
hứng, sư cụ gieo vần, định sáng
tác một bài thơ tứ tuyệt, nhưng mới
được hai câu nguồn thi hứng bỗng
ngưng đọng. Sư Cụ nghĩ mãi vẫn
không tìm được hai câu kết.
Đúng vào lúc ấy, chú tiểu đệ
tử của sư cụ từ trong bước ra sân
chùa:
- Bạch sư phụ,
chẳng hay sư phụ có đìều chi lo nghĩ
?
- À ! thầy
đang tìm hai câu kết cho bài tứ tuyệt
“Vọng Sơ Nguyệt” mà nghĩ mãi
chưa xong !
- Bạch sư phụ,
xin sư phụ cho con được nghe hai câu thơ
của sư phụ.
- “Sơ tam,
sơ tứ nguyệt mông lung,
“Bán tựa
ngân câu, bán tựa cung.
Nhìn lên không
trung, thấy vầng trăng non, nhìn xuống hồ
sen, thấy bóng trăng non rọi chiếu,
Chú tiểu cảm
khái, xin sư cụ cho phép hoàn tất
bài “Vọng Sơ Nguyệt” với hai
câu mà chú mới nghĩ ra. Được
phép của sư phụ, chú tiểu khẻ
ngâm:
“Nhứt phiến
ngọc hồ phân lưỡng đoạn:
“Bán trầm
thủy để, bán phù không.
Sư cụ vỗ tay
tán thưởng. Mừng vì có đệ tử
thông minh, tài giỏi và thi phẩm “Vọng
Sơ Nguyệt” được hoàn tất, sư
cụ khẽ ngâm toàn bài:
“Sơ tam
sơ tứ, nguyệt mông lung
“Bán tựa
ngân câu, bán tựa cung
“Nhứt phiến
ngọc hồ phân lưỡng đoạn
“Bán trầm
thủy để, bán phù không.
Tản Đà dịch
“Đêm
nay đầu tháng trăng mờ
“Nửa
như móc bạc, nửa ngờ vành cung
“Hồ xanh
phân xẻ làm đôi
“Nửa
chìm đáy nước, nửa cài không
trung.
Sau đó, sư cụ
bảo đệ tử vào chánh điện thỉnh
một hồi chuông để sư cụ lạy tạ
ơn Tam Bảo. Khi hồi chuông ngân dài trong
đêm vắng thì dưới thôn xóm
vùng cận sơn, tiếng trống ở điếm
canh cũng báo hiệu đã sang đầu giờ
Tý.
Cùng lúc sư cụ
và đệ tử sáng tác thi phẩm “Vọng
Sơ Nguyệt”, dưới bến Cô Tô,
Trương Kế cũng gieo vần để tả cảnh
sông vắng trong đêm trăng mờ. Ông hứng
khởi bằng hai câu:
“Nguyệt lạc
ô đề sương mãn thiên
“Giang phong
ngư hỏa đối sầu miên.
Đến đây,
Trương Kế cũng cạn nguồn thi hứng, nghĩ
mãi không ra hai câu kết. Đang triền
miên suy nghĩ để tìm ý thơ, bỗng
nghe hồi chuông vang dội từ đỉnh Hàn
San, hồi chuông mà chú tiểu thỉnh theo lịnh
của sư cụ. Hồi chuông ấy đã
khơi lại nguồn thi hứng nơi Trương Kế.
Nhờ đó, ông tìm được hai
câu kết và hoàn tất bài “Phong Kiều
Dạ Bạc”:
“Cô Tô
thành ngoại Hàn San Tự
“Dạ
bán thanh chung đáo khách thuyền
Cao hứng, Trương
Kế, khẽ ngâm toàn bài thơ:
“Nguyệt lạc
ô đề sương mãn thiên
“Giang phong
ngư hỏa đối sầu miên.
“Cô Tô
thành ngoại Hàn San Tự
“Dạ
bán thanh chung đáo khách thuyền
Tản Đà dịch:
“Trăng
tà tiếng quạ kêu sương
“Lửa
chài cây ánh, sầu vương giấc hồ.
“Thuyền ai
đậu bến Cô Tô
“Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Kết luận giai thoại
này, chúng ta thấy:
Thật ra,nếu
chỉ đọc thi phẩm “Phong Kiều Dạ Bạc”
không thôi, thì
ai cũng phải thắc mắc: Tại sao chùa
Hàn San lại thỉnh chuông vào lúc nửa
đêm ? Tuy nhiên, thắc mắc xong, nghĩ cũng
nên tìm hiểu tại sao một thi hào như
Trương Kế lại thiên về niêm luật
để lãng quên ý thơ. Nếu chưa
tìm được lý do, tốt hơn hết
không nên vội phê bình như anh bạn
trung học của kẻ viết bài này
đã làm cách nay gần 60 năm.
Nhưng cũng nhờ
đó mà Thầy Việt văn chúng tôi
mới giảng cho chúng tôi về thi phẩm
“Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế
và thi phẩm “Vọng Sơ Nguyệt” của
sư cụ chùa Hàn San..
Sau khi giảng xong hai thi
phẩm nói trên, Thầy Việt văn chúng
tôi ân cần khuyên nhủ: Mọi việc
trên đời này đều chằng chịt chặt
chẽ với nhau, chặt chẽ đến độ ta “không thể
gây xao động cho một cành hoa dưới
đất mà không làm cho một vì sao
trên trời bị xao động.” Bất cứ việc
gì cũng có đầu, có đuôi.
Không thể ngắt một đoạn của câu
chuyện để đem ra phê bình; làm
như thế sự phê bình trở nên phiến
diện, khiến cho sự phê bình không
làm tròn nhiệm vụ của nó:
đóng góp cho tiến bộ. Vả lại đối
với người ngoại cuộc, mọi việc đều
hàm chứa ít nhiều ẩn số. Chưa nắm
vững được những ẩn số ấy, nghĩ
không nên vội đưa ra lời phê
bình.
…
LÊ
CÔNG TRUYỀN
(HungViet Vo chuyển)