Sống và chết
trong lãng quên
(HUY PHƯƠNG)
Cách đây gần 12 năm, tôi lạc
đến vùng down-town Philadelphia, một vùng phố
cổ với nhiều thứ dân tạp chủng,
xô bồ với những quán rượu, miểng
chai đầy đường, graffiti dày đặc
trên vách phố. Nhưng những gia đình
người Mỹ sống ở đây lâu năm,
từ thế hệ này sang thế hệ khác, lại
không muốn chuyển đi nơi khác, hình
như họ trung thành với những dấu
tích, hơi hám của tổ tiên. Do
đó có những ông bà cụ, hoặc
những người già sống đơn lẻ vẫn
còn lại trong những căn nhà khép
kín, trong khi con cái đã bay nhảy đi xa.
Láng giềng của tôi ở
là một ngôi nhà như thế. Mấy hôm nay tôi
nghe tiếng chuông điện thoại reo liên tục
trong ngôi nhà đóng kín ấy từng hồi,
nhưng không có người nhấc máy.
Buổi chiều, rồi tối, tiếng
chuông lại tiếp tục. Ngày hôm sau,
ông cụ hàng xóm cho tôi biết, trong
ngôi nhà ấy có hai mẹ con, nhưng người
con trai đã bỏ đi làm ăn
ở tiểu bang khác từ lâu, chỉ còn mỗi
cụ bà sống lặng lẽ một mình.
Cách đây một tuần, xe cấp
cứu đã đến gõ cửa nhà
và đưa bà cụ vào bệnh viện. Khi
tôi hỏi về những hồi chuông điện
thoại dai dẳng, ông cụ
hàng xóm phân trần, cho rằng đó
có thể là điện thoại của một
người quen, và cũng có thể là đứa
con ở xa gọi về thăm mẹ. Bà
cụ này đã vào bệnh viện và
biết đâu đã qua đời, xác
vô thừa nhận vì không có ai là
thân nhân. Điều đó
không có gì lạ lùng, vẫn thường
xẩy ra trên đất Mỹ này.
Ở thành phố New
York, tại khu Hampton Bays, khi cảnh
sát đến điều tra một vụ nổ ống
nước tại đây, họ phát giác ra
trong một căn nhà, một ông cụ chết
đã hơn một năm qua, đang ngồi trên
ghế trước màn ảnh TV vẫn còn chiếu
các chương trình liên tục. Ông
Vincenzo Ricardo, gốc Ý, 70 tuổi, đã chết
vì những lý do tự nhiên, nghĩa là
không vì những lý do như trụy tim, hay tai
biến mạch máu não. Có lẽ
ông cụ ra đi như một thân cây
đã khô héo, hết nhựa sống.
Hàng xóm thì vẫn nghĩ rằng ông cụ
này đang nằm trong một bệnh viện nào
đó với căn bệnh tiểu đường
đến hồi trầm trọng. Cũng không ai
để ý đến căn nhà đèn vẫn
sáng từ suốt gần hai năm nay, từ
tháng 12 năm 2005. Chuyện này
không phải mới nghe lần đầu, mà hai
ba năm về trước cũng đã có những
trường hợp tương tự xẩy ra
đâu đó trên đất Mỹ.
Ở Quận
Cam, California,
nơi có nhiều người Việt cao niên nhất
nước Mỹ sinh sống, chúng ta cũng biết
đến những trường hợp như thế. Một vị cựu tướng
lãnh đã chết trong một căn nhà
dành cho người cao niên, phải ba ngày sau
người ta mới biết. Một người
khác, té quỵ trong phòng tắm, phải
sáng hôm sau người ở tầng dưới mới
phát giác ra vì nước suốt đêm
đã tràn xuống nhà dưới. Một học
giả cũng lặng lẽ với giấc ngủ
dài trong căn nhà của mình nhưng
không ai hay. Những ai đang sống trong những
căn nhà già cô quạnh, trong cơn đau yếu
bất chợt nếu không kịp nắm giây
chuông cấp cứu, cũng đều có thể
lâm vào tình huống ấy.
Nhiều người bạn già của
tôi, tâm sự muốn sau khi chết, thi hài của
họ phải được thiêu đốt rồi
“gởi gió cho mây ngàn bay”. Họ không muốn nằm trong phần
mộ để rồi bị quên lãng không ai
thăm viếng, như những đứa con đã
quên cha mẹ trong những “hộp cao ốc”
người già, quên cha mẹ lạnh lẽo trong
nursing home.
Năm ngoái, nhằm mục
đích thực hiện loạt bài phóng sự
về các cựu quân nhân, tôi có
đi thăm một vài vị cao tuổi, bệnh hoạn
hiện đang nằm trong nursing home. Sau khi chuyện trò, tôi có
xin chụp một vài bức ảnh, và nói với
các vị này tôi sẽ đăng lên
báo để anh em biết hoàn cảnh của những
người cựu quân nhân ngày nay sinh sống
ra sao trên đất Mỹ. Mới nghe đên
đây, các cụ gần như hoảng hốt,
các cụ nói con cái mà biết các cụ
cho những thông tin này, thì chúng “giết”
các cụ mất. “Giết” chỉ là một
lối nói, nhưng chúng ta cũng biết rằng,
những đứa con này không muốn ai biết
đến cha mẹ chúng đang nằm trong trong
nursing home.
Nhiều bậc cha mẹ đã trải qua chiến
tranh, tù đày, vất vả nuôi con, rồi
lại đưa con đến đây, nơi mà
chúng có thể ăn học thành tài,
nhưng rồi cha mẹ lại nhận sự trả
ơn một cách nguội lạnh, thờ ơ.
Trong bài “Thính Biên Phòng”
(Nghe Tiếng Ngỗng Trời Ngoài Biên Ải)
nhà thơ Bạch Cư Dị mô tả cảnh
ngoài cửa ải, một đàn ngỗng bị
cơn gió mạnh thổi đến phải bay
lên, một nửa đáp xuống bãi
cát, một nửa bay khuất vào trong mây,
và ông tự hỏi nếu nàng Chiêu Quân trong hoàn
cảnh đang dưới ánh trăng, hay ông
Tô Vũ, trong bãi tuyết lạnh nghe tiếng ngỗng
kêu như thế thì họ sẽ nghĩ gì
(vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính-
hà như Tô Vũ tuyết trung văn ?). Ta cũng
biết tích nàng Chiêu Quân, thời
Hán Nguyên Đế bị đem gả cho Hung
Nô và ông Tô Vũ, cũng đời
Hán Nguyên Đế, đi sứ Hung Nô, bị
đày đi chăn dê trên núi tuyết, mười chín
năm mới được tha về. Cả
hai đều vì hoàn cảnh của đất
nước, buộc phải ly hương, mang trong lòng
nỗi thống hận khôn nguôi. Bản thân ông Bạch Cư Dị cũng
có lần bị đày đi làm Tư
Mã Giang Châu, tâm thân lưu lạc nên cảm
hoài tới cổ nhân, mà viết nên
bài thơ trên.
Bây giờ đã vào giữa tháng
giêng, nhưng trời còn lạnh, những người
lính già đất khách, đem thân
lưu lạc không có ngày về, lại quạnh
hiu, cô đơn trong những ngôi nhà bị bỏ
quên, không biết họ có phiền muộn
không ? Đây là những người
đã bỏ nước ra đi, đến nay
ròng rã nhiều năm, vẫn canh cánh niềm
riêng bên lòng, chưa hề một lần trở
lại quê nhà, khi đất nước còn ở
trong chế độ “hà chính mãnh ư
hổ” (chính sách hà khắc tệ
hơn là hổ dữ). Không ai muốn sống ly
hương, dù nơi đó có những
điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn ở
quê nhà, phải chăng là vạn bất
đắc dĩ.
Nhiều người trong chúng ta cũng bỏ
nước ra đi, nhưng vì ở nơi chăn
êm nệm ấm, gia đình yên vui, con cái
học hành đỗ đạt, một vài
năm lại qui cố hương, xênh xang áo gấm
về làng thì sao gọi được là
người lưu lạc, làm sao có nỗi cảm
hoài để thông cảm với nỗi cô quạnh của
người xưa như thế.
Ông cụ người Mỹ gốc Ý khi ngồi
trên rocking-chair xem TV một mình không biết có buồn
vì nỗi cô quạnh của mình không,
nhưng bao nhiêu người Việt sau những biến
cố đổi đời, trôi giạt đến
đây, nghĩ sao khi cuối đời sống lạnh
lẽo trong những căn nhà hộp không sinh khí
và đôi khi ra đi trong sự quên lãng của
mọi người ?
HUY PHƯƠNG
(Bai Chuyen)