Ngày 30 Tháng 4
(Tâm bút của Trần trung
Đạo)
Đối với người Việt Tự
Do, ngày 30 tháng 4 mang nhiều ý nghĩa. Trên bình diện lịch
sử ngày 30 tháng 4 là một ngày
đen.
Ngày những chiếc tăng T54 do
Liên-Xô chế tạo nghiền nát đường
phố Sài Gòn thân yêu rợp bóng me
xanh. Ngày những chiếc trực
thăng cất cánh từ sân thượng của
những cao ốc. Ngày có những
tiếng loa phóng thanh ra lịnh các cấp
chính quyền miền Nam tập trung, trình
diện vang lên trên đường phố.
Ngày với những tiếng hát cao the thé của
những nữ văn công miền Bắc vọng ra từ
đài phát thanh vừa rơi vào tay Cộng Sản.
Ngày những Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ,
Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn
Văn Long và bao nhiêu người con yêu
khác của mẹ VN đã dò theo bước
chân của Trần Bình Trọng, Hoàng Diệu,
Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương mà lần
lượt ra đi.
Trong bình diện xã hội, 30
tháng 4 là ngày điêu tàn tang
tóc. Mẹ mất
cha, anh xa em, vợ lạc chồng, những đứa trẻ
mồ côi lạc loài trên đường phố,
nước mắt ai rơi trên bờ biển, tiếng
khóc thét của em bé vừa sinh ra trên những
chuyến hải hành vội vã trong đói
khát, lo âu, tuyệt vọng
Trong bình diện đấu tranh 30
tháng 4 là ngày quốc kháng. Ngày khởi điểm cho một
mặt trận mới vì nhân quyền, tự do
và dân chủ. Dù gọi 30 tháng 4 là
ngày quốc hận, quốc nạn, quốc kháng
hay là ngày gì đi nữa, thì trong
tâm tư của mỗi người miền Nam sống
trong ngày tháng đó vẫn là một
tâm tư hãi hùng, lo sợ, bàng hoàng
và đau xót.
Tất cả hình ảnh
đó dường như đang xảy ra trong
phút giây chúng ta đang thở. Tiếng súng như vẫn còn
nghe. Ngọn lửa như vẫn còn
đang nóng.
Thế nhưng đã là 29
năm. Đứa bé
nằm trên bụng mẹ ngậm núm vú lạnh
tanh không còn một giọt sữa mà
không biết mẹ mình đã chết từ
lâu, trong một bức ảnh đăng trong một tờ
báo Mỹ, nay đã gần 30 tuổi. Và
chúng ta, những người VN may mắn còn sống
sót, vẫn như em bé kia,
đang ngậm nỗi buồn nơi đất khách.
Dù tự an ủi bằng bao nhiêu bài
thơ, bài hát chuyên chở niềm tin và
hy vọng, bao nhiêu tuyên ngôn, tuyên cáo
khẳng định lập trường, thì giấc
mơ VN về một buổi sáng đẹp trời
cho dân tộc vẫn còn là một giấc
mơ thôi.
Hai mươi chín năm qua đi. Thế giới đã đổi
thay nhanh chóng. Cuộc vận hành của lịch
sử văn minh con người không chạy bằng
những chuyến tàu điện nhưng đã
chuyển sang thời kỳ của những máy bay
siêu tốc. Tín hiệu Morse
đã được chính thức thành lịch
sử. Ông Denis Tito đã mua vé đi du
lich trong quỹ đạo trái đất và trở
về bình an. Ông Nelson Mandela đã ra khỏi
tù và đưa đất nước ông vững
tiến trên con đường dân chủ. Anh Ismail
Darramy cụt hai tay của xứ Sierra Leon
đã cười tươi vì được
quyền bỏ phiếu. Những đồ dùng
chúng ta đang xử dụng trong nhà từ chiếc
máy vi tính, chiếc microwave, DVD
v.v. đều không có ba mươi năm trước,
hay nếu có, cũng chỉ trong phòng thí nghiệm.
Nói chung, tiến bộ và
văn minh nhân loại đã bước một
bước rất dài.
Nhìn lại đất nước VN, trong mọi
lãnh vực, sau 29 năm chẳng những không
bước thêm một bước nào; trái lại,
về kinh tế, chính trị, đã lùi xa
hơn vào quá khứ, và văn hóa đạo
đức thì đang trở về gần với thời
sơ khai nô lệ, nghĩa là thời kỳ mọi
của cải đều có thể mua bán, trao
đổi, kể cả mua bán, trao đổi
chính con người. Và do đó, vấn nạn
lớn nhất mà dân tộc VN đang phải
đối diện hiện nay là lạc hậu về kinh tế
chính trị và lạc hậu về văn
hóa tư tưởng.
Khi nhận xét rằng VN lạc hậu
kinh tế, không ít độc giả trong nước
chưa có dịp tiếp xúc và so sánh giữa
tiến bộ của thế giới và thay đổi
tại VN, có thể không đồng ý với
tôi. VN có cao ốc
mới, khách sạn mới, cầu mới, đường
mới, xe mới, nhà mới, số
lượng du khách ngày càng tăng. Vâng, không ai chối cãi điều
đó. Thế nhưng, trong một
nền kinh tế thế giới đang toàn cầu
hóa, mức độ phát triển của một
quốc gia được xác định không phải
bằng các chỉ tiêu riêng của từng quốc
gia nhưng bằng sự so sánh với các quốc
gia trong cùng khu vực, cũng như trong tương
quan kinh tế thế giới. So
sánh với đà phát triển của
nhân loại, hai mươi chín năm, nền kinh
tế VN như người bộ hành già nua
đang đếm từng bước thầm trên xa lộ
tân thời. Hãy nhìn bầy kiến
cõng những hạt gạo nhỏ li ti kia,
nếu chúng cõng liên tục ba mươi
năm cũng có thể tạo nên một cao ốc
đừng nói chi con người. Câu khẩu hiệu
"Với sức người sỏi đá cũng
thành cơm" không phải nói lên sự
cố gắng nhưng phản ảnh sự lạc hậu
về kỹ thuật, và cũng tố cáo bản
chất bất nhân, tàn nhẫn của một giai
cấp thống trị đối với nhân dân
VN.
Hai mươi chín năm qua, nếu không
có nhiều tỉ đô-la hàng năm gởi
về từ những người một thời
đã bị chế độ nguyền rủa,
trù ẻo để bị chết trôi, chết
chìm trên biển Đông thì nền kinh tế
VN còn tệ hại đến mức nào. Hai triệu
người Việt hải ngoại gởi tiền về
để giúp đỡ gia đình, bà con,
thân thuộc, trại mồ côi, trại cùi bởi
vì họ là những người đã
được nuôi dưỡng bằng những lời
ru đậm đà tình thương của mẹ,
bằng những câu ca dao chan chứa tình đồng
bào "Lá lành đùm lá
rách", "Chị ngã em nâng". Nếu họ
được giáo dục bằng hận thù giai
cấp, bằng sắt máu đấu tranh như những
người Cộng Sản thì nền kinh tế VN
ngày nay có thể vẫn còn đứng đầu
bảng xếp hạng các quốc gia nghèo
đói hàng năm của Liên Hiệp Quốc.
Khi nhắc đến những đổi
thay kinh tế tại VN, một yếu tố quan trọng
khác cũng cần lưu ý là những
cái mới đó thuộc về ai. Hãy bước ra đường hỏi
người lái chiếc xe Nhật
đắt tiền kia ông là ai, bà là ai.
Hãy bước vào một cao ốc hỏi
ông chủ khách sạn năm sao nguy nga tráng lệ
kia, trong điều kiện xã hội
chủ nghĩa thì tiền ở đâu ông
có để xây một khách sạn nhiều
tầng như thế. Hãy bước vào nhà
ông Chủ Tịch Huyện Sơn Hòa, tỉnh
Phú Yên hỏi rằng với đồng
lương của cán bộ cấp thấp như
ông, thì mấy chiếc xe tải
và đàn bò mấy chục con của
ông từ đâu tới. Hãy bước
vào trụ sở Hội Đồng Bộ Trưởng
để hỏi các ông bà ủy Viên
Trung Ương Đảng, Bộ Trưởng, với cấp
số lương Bộ Trưởng mà Chủ Tịch
Quốc Hội Cộng Sản Nguyễn Văn An than thở
"Lãnh đạo VN là những người
nghèo nhất" thì làm sao các ông,
các bà có dư hàng trăm ngàn
đô-la để lo cho con sang Mỹ học. Sẽ không ai trả lời. Đơn
giản bởi vì chẳng
một kẻ cướp nào muốn thừa nhận
mình là cướp,
nhất là cướp từ những người
cùng khổ nhất trong xã hội. Tương tự,
hãy đi bờ sông Thu Bồn, sông Trà
Khúc và hỏi những người đang
đào hến, họ đã đào như thế
bao nhiêu năm rồi. Hãy bước vào chợ
Bến Thành hỏi những đứa bé đang
lượm từng con cá ươn trong buổi chợ
chiều, cha mẹ em đâu, nhà cửa em
đâu, trường học em đâu. Hãy lên bịnh viện Chợ Rẫy hỏi
những bà mẹ đang sắp hàng chờ
bán máu, trong hai mươi chín năm qua,
bà đã bao nhiêu lần bán máu.
Hãy bước ra đường hỏi
người phu đang cong chiếc lưng hốt từng
đống rác, bao nhiêu chiếc chổi đời
đã quét xuống lưng ông.
Hãy vào những con hẻm tối hỏi
các em thanh niên nam nữ tuổi hai mươi
đang bán á-phiện, ma túy, làm điếm
trên những công viên tăm tối hay đang tự
giết đời mình bằng những cuộc
đua xe bạt mạng trên đường phố,
hoài bão của các em về cuộc sống
hôm qua, hôm nay và mai sau rồi sẽ ra sao. Họ
có thể cũng không trả lời; không phải
họ không muốn nói, nhưng như một Mục
Sư làm công tác thiện nguyện tại VN
đã viết: "Tuổi trẻ VN ngày nay
không biết định nghĩa của hai chữ
hoài bão là gì". Một dân tộc
mà thế hệ hai mươi không có một
hoài bão cho đời mình, dân tộc
đó sẽ đi về đâu ?
Một dân tộc với 65 phần trăm tuổi trẻ
nhưng không có một cơ hội để tiến
thân, sống trong hoang phí, sống như những
tử tù đang chờ chết thì tương
lai của họ sẽ về đâu ?
Muốn biết đất nước về đâu,
hãy nhìn thẳng vào đôi mắt
sâu chứa đầy nỗi lo âu, chiếc
lưng đầy vết sẹo, bàn tay
còn hàng trăm dấu chích của họ
để qua đó đọc được cả
quá khứ lẫn tương lai của một đất
nước. Đất nước của họ không
phải là bài ca anh hùng đánh thắng
bao nhiêu đế quốc nhưng là một địa
ngục đày đọa kiếp con người mấy
chục năm qua.
Số lượng du khách đến
VN ngày một đông. Vâng. Hãy hỏi một
người du khách, phải chăng bà đến
đây vì lòng kính phục VN như một
nhà thơ phản chiến Thụy Điển,
đã từng viết trong thời kỳ chiến
tranh: "Tôi mơ sáng mai thức dậy biến
thành người VN", hay chỉ vì VN là một
nơi hưởng thụ rẻ nhất Á Châu.
Hãy hỏi ông du khách phải
chăng ông đến VN để tìm hiểu một
dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn
hiến hay là vì trên quê hương
tôi giá trị đồng đô-la còn hấp
dẫn hơn nhân cách con người. Hai chữ đầu tiên trên những tờ
quảng cáo du lịch VN bao giờ cũng bắt
đầu hai chữ Hấp
Dẫn và Rẻ Tiền. Hấp
dẫn và rẻ tiền chứ không phải
nhân phẩm và lịch sử.
Đúng thế. Phóng viên ký tên
Tương Lai của báo tuổi trẻ trong bài
viết "Nỗi Đau Từ Những Con Số",
đăng vào sáng ngày mùng Một Tết
vừa qua, mô tả số phận của 65 ngàn
phụ nữ VN đang sống với những ông chồng
già Đài Loan, bất đồng ngôn ngữ,
tuổi tác, học vấn. Họ bỏ
gia đình và quê hương đi làm
tôi mọi cho ngoại nhân, chỉ vì một
vài trăm đô-la. Ngoại trừ VN,
có lẽ không có nơi nào trên thế
giới, chính phủ lại cho phép mua bán
đàn bà, con gái một cách công khai
như thế. Ngoại trừ VN, có lẽ không một
quốc gia nào có một bà Bộ Trưởng
Lao Động Xã Hội và Thương Binh Nguyễn
Thị Hằng miệng cười như hoa nở khi
đặt bút ký hợp đồng xuất cảng
lao động ra nước ngoài, thực chất
là xuất cảng mồ hôi, máu, nước
mắt và cả thể diện quốc gia.
Phải chăng, sau 29 năm, những định nghĩa
của phẩm cách con người cũng theo đà tiến lên chủ nghĩa
xã hội mà thay dần ý nghĩa. Nhắc
chuyện đạo đức, tôi chợt nhớ lại
một đêm thật khuya của mười hai
năm trước, ngồi đọc phóng sự của
một nhà báo Mỹ viết về cảnh
các cô gái VN vừa mới lớn đang
hành nghề mãi dâm trên trên đại
lộ Sri Ayuthaya, thủ đô Bankok, Thái Lan. Tôi buồn không ngủ được.
Các em đều trong tuổi vị
thành niên. Hầu hết chỉ
mười sáu, mười bảy tuổi. Lẽ
ra giờ này các em phải ngồi trong lớp học,
học làm người phụ nữ VN, học chuyện
thêu thùa, may vá, trông con và học cả
chuyện yêu đương, đẹp
như trăng khi tròn khi khuyết. Thế
nhưng, nghèo đói đã xô đẩy
em khỏi ngôi trường mà em yêu mến.
Nghiệt ngã đã xua em ra khỏi vòng tay nuông chiều của mẹ. Lạc hậu đã xô em xuống
giòng sông Chao Phraya nước
đục quê người. Ngày đó
tôi vẫn nghĩ hoàn cảnh như thế
là đau thương và bi thảm nhất,
như tôi đã viết trong bài thơ:
Sau những lúc đau thương
da thịt rã rời
Em có khóc một mình trong
bóng tối
Mỗi giọt lệ sẽ mang
màu sám hối
Mỗi lời rên chôn giấu
những ăn năn
Tóc thu buồn
như những sợi oan khiên
Trói lấy cuộc đời em
nghiệt ngã
Về
đâu em chiều nay trên đất lạ
Về
đâu em mưa gió phủ đầy sông
Người
con gái VN trên đại lộ Sri Ayuthaya
Đang nhắm
mắt nhìn đời trôi vô tận
Lịch sử
VN vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận
Nhưng
chưa bao giờ đen tối hơn hôm nay.
Ngày đó
Internet chưa thịnh hành như bây giờ,
nhưng cũng đã có nhiều khuynh hướng.
Có anh chị thích bài thơ, nhưng cũng
có người cho rằng tôi đã bi thảm
hóa tình trạng VN chỉ nhằm mục
đích tuyên truyền chống chế độ.
Theo anh chị đó, đất nước
đã chuyển mình sang thời kỳ mới,
nghèo đói đã đi dần vào
quá khứ, một tương lai tươi sáng
đang mở ra, hãy để cho nhà nước
một cơ hội thay cũ và đổi mới,
v.v.và v.v. Mười hai năm sau, điều mà
trước đây tôi bị gọi là
đã làm "thảm hóa" thực trạng
VN lại càng thê thảm hơn nhiều. Những
cô gái 16, 17 tuổi đứng trên đường
Sri Ayuthaya hay trên đường phố Nam Vang
ngày nào, bây giờ không còn nữa.
Các em đã về đâu giữa một
thành phố, mà nơi đó, theo thống
kê của cơ quan AIDS Liên Hiệp Quốc, UNAIDS,
44 phần trăm gái mãi dâm mang trong người
bịnh AIDS. Các em hoặc đã chết trong một
trại AIDS ở Bangkok, ở Chiang Mai, hay nếu may mắn
sống sót trở về được quê
hương cũng chỉ để lây lất ở một
góc tối nào đó trong chuỗi ngày
tàn tạ của đời mình. Chỗ của
em đứng ngày xưa không phải vì em chết
đi mà bỏ trống. Chiếc giường tre
nơi em đã nằm chờ khách không phải
vì em ra đi mà bỏ trống. Nơi em đứng
năm xưa đã có một bàn chân
khác vừa đứng đó. Trên manh chiếu
em nằm đã có người con gái
khác đang nằm. Bàn chân của kẻ
đến sau nhỏ nhắn hơn em. Bàn tay như
hai búp măng non của kẻ đến sau hồng
hào xinh xắn hơn em. Đôi mắt của kẻ
đến sau đen và tròn hơn đôi mắt
của em. Thân hình của kẻ đến sau
không lớn hơn thân hình của những con
búp-bê Barbie đang bày trên giá của
tiệm bán đồ chơi.
Vâng, những kẻ
đến sau chính là những Barbie VN. Nói
như chị Nam Dao, chúng là những con
búp-bê biết khóc tiếng người. Những
kẻ đến sau chính là những cháu
bé, lẽ ra giờ này đang ngồi trong trường
mẫu giáo, học những bài hát tuổi
thơ "Kìa con bướm vàng",
"Ông trăng xuống chơi" thay vì những
tiếng lóng "yum yum", "bom bom" nhục
nhã. Nghe các cháu vừa cất giọng bằng
tiếng Việt, tôi cảm thấy như đang
có một viên thuốc đắng vừa vỡ
ra trong cổ mình. Tôi chỉ mong các cháu
nói dùm tiếng Thái, tiếng Miên, tiếng
Lào. Tôi biết mình nghĩ thế là
ích kỷ nhưng vẫn hơn là tiếng Việt.
Không, các cháu nói tiếng Việt. Đau
xót, nhục nhã, bất hạnh đã không
còn đủ nghĩa. Lâu lắm rồi tôi mới
cảm thất mất bình tĩnh như thế.
Tôi viết
khá nhiều thơ về thực trạng VN, từ những
bà mẹ chết trôi sông cho đến những
trẻ thơ lạc loài trên vùng Kinh Tế Mới,
nhưng tôi không đủ can đảm xem hết
đoạn phim phóng sự về nạn bán
dâm tại Campuchia, đừng nói gì đến
chuyện cầm bút viết một bài thơ hay
một đoản văn. Tôi sẽ viết gì ?
Ngôn ngữ dù phong phú bao nhiêu cũng
có giới hạn, nhưng sự tủi nhục khi
nhìn một đứa bé VN 8 tuổi bán
dâm đã vượt qua sức chịu đựng
của tôi. Loài cầm thú còn biết chọn
nơi, chọn tuổi đừng nói chi là con
người. Khi bàn đến sự lạc hậu về
tư tưởng tại VN, cũng có thể một
số bạn trong nước cho rằng tôi xa nhà
lâu năm nên không biết.
VN có tư tưởng
chứ. Tư tưởng Mác Lê-Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó là những ngọn hải
đăng của thời đại. Nhắc đến
Mác, tôi chợt nhớ câu chuyện đọc
trên báo cách đây không lâu
nhân ngày sinh nhật 5 tháng 5 của Các
Mác. Sáng ngày đó, một bản tin nhỏ
được gởi đi từ nghĩa trang High Gates,
nơi có ngôi mộ của triết gia Cộng Sản
này. Bản tin không phải trích lời
chúc mừng sinh nhật Các Mác của một
chủ tịch nước hay một tổng bí
thư đảng Cộng Sản nhưng trích lời
than thở của người quản lý 166 ngàn
ngôi mộ, trong đó có Các Mác, chen
chúc nhau trong nghĩa địa thuộc phía
đông thành phố London, Anh Quốc. Trong bản
tin, người quản lý nghĩa địa High Gates
than phiền rằng ông không có một
ngân khoản nào để mướn người
cắt cỏ hoang trong nghĩa trang rộng 36 mẫu
này. Từ sau khi Liên Xô và hệ thống
Cộng Sản thế giới sụp đổ không
còn ai buồn thăm viếng Mác, và
đương nhiên cũng không còn ai
đóng góp tiền bạc để chăm
sóc mộ Mác. Nghĩa trang High Gates tiêu điều
và hoang vu đến nỗi một lần đã
được chọn để làm ngoại cảnh
cho một cuốn phim ma. Mặc dù nơi chôn cất
của Mác là nơi dựng phim kinh dị,
câu chuyện về thiên đường Cộng Sản
đã nhiều lần được viết
thành hài kịch, chủ nghĩa Mác
đã bị các phần lớn trường
đại học thế giới loại bỏ khỏi
giáo trình, thành phố Leningrad đã
được đổi lại tên cũ Saint
Petersburg, có một nơi vẫn còn con đường
mang tên Mác, còn công viên mang tên
Lênin, và những bài viết đấu tranh
giai cấp đầy sắc máu hận thù của
Mác, Lênin, Stalin vẫn được xem là
kinh điển, vẫn mỗi ngày nhuộm đỏ
lên tâm hồn trong như ngọc của tuổi
thơ. Nơi đó là VN.
Sau sự sụp đổ
của hệ thống Cộng Sản thế giới, giới
lãnh đạo Cộng Sản VN không còn chỗ
dựa về mặt lý luận nên đã Việt
hóa ý thức hệ Cộng Sản bằng việc
thêm cụm từ tư tưởng Hồ Chí Minh
sau khẩu hiệu chủ nghĩa Mác Lênin
đã không còn dụ dỗ được
ai. Thật sự làm gì có tư tưởng
Hồ Chí Minh, một người cả đời
không viết được một tác phẩm
lý luận hoàn chỉnh, ngoài tác phẩm
Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động
Của Hồ Chủ Tịch ký dưới tên Trần
Dân Tiên. Hầu hết các tác phẩm gọi
là của Hồ Chí Minh được phát
hành tại VN luôn bắt đầu với chữ
"Về", như "Về Độc Lập
Dân Tộc", "Về Chủ Nghĩa Xã Hội".
Đó là những lời phát biểu trong
các buổi mít-tinh được chép lại.
Khi gọi những bài nói chuyện, bài viết
không đầu không đuôi của Hồ
Chí Minh là tư tưởng độc lập của
dân tộc VN, giới lãnh đạo Cộng Sản
đã chứng tỏ sự khinh mạn đối với
truyền thống lịch sử dân tộc.
Ý thức độc
lập tự do của dân tộc bắt đầu từ
hơn bốn ngàn năm trước chứ không
phải từ ngày thành lập đảng Cộng
Sản Đông Dương năm 1930.
Quyền tự chủ
của dân tộc VN đã được Trưng
Trắc, Trưng Nhị, Ngô Quyền, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi
và vô số anh hùng dân tộc khẳng
định từ nhiều ngàn năm trước chứ
không phải từ Hồ Chí Minh.
Giới lãnh đạo
Cộng Sản VN đã cướp đoạt
không những chỉ tài nguyên của cải
đất nước, mà cướp đoạt cả
những giá trị tinh thần đã hun đúc
nên giòng giống Đại Việt. Mười
lăm năm sau ngày đế quốc Cộng Sản
Liên Xô sụp đổ, trên đường
phố Hà Nội vẫn còn treo khẩu hiệu
"Chủ Nghĩa Mác-Lênin Vô Địch
Muôn Năm" để mừng ngày đại hội
đảng. Thật là chuyện mỉa mai, buồn
cười và ngu xuẩn vượt thời gian. Nếu
Jay Leno và David Letterman có dịp thăm viếng
VN, hai danh hề này sau khi trở về, sẽ
làm khán giả cười nghiêng ngửa với
những mẫu chuyện có thực trong đời sống
tại VN.
Hiểu được
điều này chúng ta sẽ thấy tại sao
các thế hệ trẻ VN ngày nay không
còn quan tâm đến trường học,
không biết chọn một hướng đi cho đời
mình. Làm sao các em có thể thấy
hướng đi khi bị nhồi sọ bằng những
lý thuyết viển vông mà nhân loại
đã xếp vào ngăn tủ từ bao nhiêu
năm trước. Làm sao các em có thể thấy
tương lai, hiểu được tình người,
khi cả tuổi ấu thơ đến lúc trưởng
thành bị nhào nặn bằng những tư
tưởng hận thù giai cấp, bóc lột,
đấu tranh. Tuổi trẻ VN thà chọn lựa
những trò tiêu khiển hiểm nguy, chọn lựa
đời sống ngoài khuôn thước hơn
là phấn đấu để vào đoàn,
vào đảng.
Chúng ta đều
biết đến thảm trạng tại VN nhưng ai sẽ
là những người chịu trách nhiệm
trước lịch sử và trước tòa
án lương tâm của dân tộc VN sau
này ? Đối với tuyệt đại đa số
người Việt yêu chuộng tự do, câu trả
lời rất dễ dàng. Thủ phạm đã
gây ra những điêu linh tang tóc, nghèo
nàn lạc hậu, làm mất nhân phẩm của
người Việt, đầu độc các thệ
trẻ VN, hủy diệt mọi mầm xanh đang cố
gắng vươn lên của dân tộc, không
ai khác hơn là giới lãnh đạo Đảng
Cộng Sản VN. Điều đó không sai
nhưng tôi vẫn cảm thấy chưa đủ. Một
băng cướp ngân hàng không thể di chuyển
hàng tỉ đô-la ra khỏi nhà băng nếu
không có kẻ đưa đường, người
dẫn lối, không có tay trong, tay ngoài, bao
che, thờ ơ, dung túng. Tương tự, đảng
Cộng Sản VN sau 29 năm vẫn còn tiếp tục
trấn áp nhân dân VN bởi vì, ngoài
nhà tù và sân bắn, họ cũng
đã được dung túng, bao che, thờ ơ
và thỏa hiệp. Và những người
đã thờ ơ, dung túng cho Cộng Sản
trong 29 năm qua không ai khác hơn là những
người VN có quyền hạn tinh thần, có
trách nhiệm xã hội, có kiến thức
văn hóa, có lương tâm tôn giáo
nhưng đã vì quyền lợi cá nhân,
tổ chức, tôn giáo riêng mà làm
ngơ trước đau thương của đất
nước.
Tôi thật sự
không tin rằng nhà nước Cộng Sản sẽ
bỏ tù Hòa Thượng Thích Chơn Thiện
hay Linh Mục Nguyễn Công Danh nếu hai ngài
đã từ chối không chịu ra ứng cử
dân biểu quốc hội bù nhìn tại VN.
Tôi thật sự không tin Cộng Sản VN
dám kết án Hòa Thượng Thích
Trí Tịnh hay Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn
đã "âm mưu lật đổ chính quyền
nhân dân" nếu các ngài gióng
lên tiếng nói bất bình trước cảnh
những em bé 8 tuổi đã phải làm những
việc vô cùng thương luân bại lý
tại Campuchia. Cả nhân loại đều phẫn uất
khi biết một em bé VN chỉ vỏn vẹn 8 tuổi
đầu phải phục vụ nhu cầu sinh lý cho
những người bằng tuổi cha, bằng tuổi
ông của các cháu. Ký giả Chris Hansen
lên tiếng. Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ
lên tiếng. Bộ trưởng Tư Pháp Mỹ
lên tiếng. Liên Hiệp Quốc lên tiếng.
Đức Giám Mục Agustinus Agus của Nam
Dương lên tiếng. Nhưng các ngài
thì không.
Con biết các
ngài có trọng trách đối với
giáo hội mà các ngài đang lãnh
đạo. Con biết mọi hành vi của các
ngài có ảnh hưởng nghiêm trọng
đối với tôn giáo mà các ngài
đang dẫn dắt tại VN. Vâng, nhưng tôn
giáo đó, giáo hội đó, tín
đồ đó từ đâu mà có. Phải
chăng đã bắt đầu từ những tiếng
khóc, tiếng cười, trái tim, bàn tay, khối
óc của một giống dân đã vượt
qua bốn nghìn năm gian khổ để tạo
thành dải đất thân thương hình
cong chữ S hiện nay ? Phải chăng đã bắt
đầu từ Cha Lạc Long, Mẹ Âu Cơ trong một
đêm huyền diệu của đất trời
và để lại 80 triệu người con, trong
đó có các ngài, hiện diện
cùng năm châu nhân loại như ngày nay
?. Trên con đường các ngài đi
còn vọng lên tiếng kêu trầm thống của
cả dân tộc chịu đựng khổ đau suốt
29 năm qua. Hạt gạo, hạt muối mà các
ngài ăn là tích lũy của bao nhiêu hy
sinh gian khổ mà dân tộc VN đã đổ
xuống trong 29 năm qua. Tất cả đều từ
Dân Tộc VN mà có. Các ngài có
trách nhiệm với giáo hội của các
ngài thì ai sẽ có trách nhiệm với
đất nước đây ? Các ngài quan
tâm đến sự thịnh suy của tôn
giáo các ngài, thì ai sẽ quan tâm
đến sự thịnh suy của dân tộc VN đây
? Phát triển tôn giáo là trách vụ
của các bậc lãnh đạo tinh thần,
vâng, nhưng trách vụ đó không
nên và ngay cả không được quyền
đi ngược lại quyền lợi sống còn
và thiêng liêng của dân tộc VN.
Hôm nay, những tiếng
kêu của những con búp-bê VN biết
khóc ở Campuchia vẫn như những viên sỏi
nhỏ rơi vào biển cả, không tạo
nên chút sóng lương tâm nào trong
lòng những vị lãnh đạo tinh thần cao
cấp nhất VN. Trong lời kinh đêm nay, ngoài
việc cầu nguyện các đấng thiêng
liêng để ban cho các ngài cuộc sống
bình an, phò trợ cho tôn giáo của
các ngài không ngừng phát triển, xin
các ngài dành một lời cầu nguyện
cho những đứa bé 8 tuổi bất hạnh kia
được có cơ hội trở về với lớp
học mẫu giáo của các cháu như
hàng triệu trẻ thơ khác trên thế giới.
Tôi không tin đảng Cộng Sản VN có thể
đồng loạt bỏ tù hàng trăm nhà
văn, nhà thơ một lúc nếu họ
gióng lên tiếng nói ủng hộ nhà
thơ Tiêu Dao Bảo Cự, ủng hộ nhà
văn Dương Thu Hương, ủng hộ nhà
trí thức phản kháng Hà Sĩ Phu.
Tôi không tin rằng
đảng Cộng Sản có thể bỏ tù tất
cả trí thức VN vì dám lên tiếng
chia xẻ quan điểm dân chủ của bác sĩ
Phạm Hồng Sơn, luật sư Lê Chí Quang.
Tôi không tin chế độ Cộng Sản VN bỏ
tù tất cả những người cầm bút
khi họ viết về cuộc sống khổ đau của
hàng trăm ngàn phụ nữ VN trên đất
Thái, Miên, Đài Loan, Nam Hàn. Cuộc
đời họ là những tác phẩm, những
vở kịch, những cuốn phim đau thương
đang cần được viết lại, chiếu lại
cho các thế hệ hôm nay để đọc,
để xem và và cho ngàn đời sau để
tránh. Im lặng là đồng lõa. Im lặng
là dung túng. Nếu một nhà văn, nhà
thơ không đủ can đảm nói lên sự
thật, viết lên sự thật của xã hội
mình đang sống thì liệu có xứng
đáng để được gọi là
"những phát ngôn nhân thời đại"
hay không ?
Điều kiện
chính trị ngày nay không giống như thời
Nhân Văn Giai Phẩm. Để nhận được
viện trợ của nước ngoài và
được công nhận như một chính phủ
trong cộng đồng thế giới, Cộng Sản VN
buộc lòng phải tháo lỏng bớt chiếc
dây thòng lọng trên cổ văn nghệ sĩ.
Nhưng tiếc thay những nhà văn, nhà thơ
sĩ khí thời nay lại cũng không nhiều
như thời Nhân Văn Giai Phẩm. Một tiếng
nói trung thực chưa kịp vang xa đã
chìm vào im lặng. Một tác phẩm mang tinh
thần cách mạng xã hội vừa ra đời
đã bị thu hồi. Tác giả của
chúng sau một chuyến được phép tham
quan nước ngoài đã tự nguyện biến
thành những con cừu non nằm yên trong một
góc chuồng để được chờ chủ
nhân sai bảo như xưa. Ngày 30 tháng 4,
ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta
đã biết, với tôi, còn là
ngày để mỗi chúng ta nhìn lại
chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự
hỏi mình đã làm gì cho đất
nước, và đang đứng đâu trong cuộc
vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi
người VN có hoàn cảnh sống khác
nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác
nhau, bức xúc khác nhau và mang trên
thân thể những thương tích khác nhau,
nhưng chỉ có một đất nước để
cùng lo gánh vác. Đất nước phải
vượt qua những hố thẳm đói
nghèo lạc hậu và đi lên cùng
nhân loại. Không ai có quyền bắt đất
nước phải đau nỗi đau của mình
hay bắt đất nước phải đi ngược
chiều kim lịch sử như mình đang đi
lùi dần vào quá khứ.
Sức mạnh của
dân tộc VN không nằm trong tay thiểu số lãnh
đạo đảng Cộng Sản VN. Tương lai
dân tộc không nằm trong tay thiểu số
lãnh đạo đảng Cộng Sản VN. Sinh mệnh
dân tộc VN do chính nhân dân VN quyết
định. Và do đó, con đường chung
để đến một điểm hẹn lịch sử
huy hoàng cho con cháu, chính là con đường
dân tộc và không có một con đường
nào khác.
TRẦN
TRUNG ÐẠO
(Tran Van Long
sưu tầm- DaiDoiHaiQuan chuyển)