Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | TA.P GHI | TA.P GHI (tt) | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | CHUYÊ.N LA. KHÓ TIN | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | SU'U TÂ`M .. TÊ'U | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | SU'U TÂ`M .. TIN | NU. CU'̉'I VA(N HO.C | P.P. Slideshow

TA.P GHI 8

Phóng Sự - Ký Sự

 

Đời bốc vác trong đêm

(THẾ ANH)

 

Khi thành phố đã lên đèn, họ mới bắt đầu vào cuộc mưu sinh cho đến rạng sáng. Họ từ các vùng quê khắp nơi về Sài Gòn để mưu sinh: từ miền Bắc xa xôi, miền Trung khô cằn và miền Tây lụt... Với hai bàn tay trắng, họ nỗ lực làm thuê với ước mơ bình dị nhất: cơm cháo sống qua ngày. Người ta gọi họ là dân bốc vác. Phóng viên Tuổi Trẻ cùng sống và làm việc với họ trong những đêm trắng thật dài.

 

Kỳ 1 - Những người cùng khổ

 

Giữa Sài Gòn phồn hoa, vẫn có hàng ngàn người xem bốc vác như là một nghề, một nghề mà nhiều người thành thị khi nhắc đến đều tỏ ra xem thường. Nhưng với họ, đó là cơm áo gạo tiền, là cuộc sống.

 

Khi mặt trời tắt nắng

Để sống cùng cuộc sống của giới bốc vác, chỉ cần có sức khỏe và một bản “lý lịch miệng” thật nghèo khó là đủ. Sau vài đêm ngồi than vắn thở dài bên mấy anh bốc vác ở chợ đầu mối nông sản Thủ Đức, tôi được đồng nghiệp tên Mười gật đầu giúp đỡ: “Ừ, chú mày là sinh viên nghèo, ra đây làm cùng anh em vậy, tao giúp”.

 

Nghe lời anh Mười dặn, cứ đến 6 giờ chiều mỗi ngày, khi mặt trời tắt nắng là tôi có mặt cùng các đồng nghiệp tại chợ đầu mối nông sản Thủ Đức chờ đợi. Những ngày Sài Gòn trời trở lạnh, chúng tôi phải ngồi sát vào nhau để chống lại những cơn gió lạnh hiếm hoi của đất phương Nam. Khác với anh em hợp tác xã bốc vác, dân “bốc vác tự do” chúng tôi ngồi ở rìa chợ chờ những ông bà chủ trong vựa kêu sai việc vặt và chỉ được khuân vác hàng từ chợ ra, còn hàng đã vào chợ thì không được sờ tới. Điều đó có nghĩa là cơm cháo của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc lượng khách đến mua sỉ tại đây vào mỗi đêm. Mà điều đó cũng thất thường lắm.

 

Đã gần 11giờ đêm, cả nhóm chúng tôi vẫn ngồi ngáp ngắn ngáp dài, chẳng một ai ngó ngàng đến ánh mắt mỏi mòn của chúng tôi. Cu Nhân, con anh Mười, không cưỡng lại được cơn buồn ngủ, đặt nghiêng cái xe đẩy của cha xuống rồi khoanh tròn trong cái áo khoác đánh một giấc. Đưa tay sửa lại áo cho đứa con 13 tuổi, anh Mười thở dài buồn bã: “Nó thích đi học lắm, nhưng nhà nghèo nên phải bỏ giữa chừng. Hồi mới lên Sài Gòn, nó thấp hơn cái xe đẩy, vậy mà giờ thì phụ cha đẩy xe ngon ơ rồi”.

 

Mọi người đang dáo dác đảo mắt chờ đợi thì bỗng anh Mười đứng bật dậy, nét mặt mừng như bắt được của. Từ xa, dáng một bà chủ mập mạp đưa tay vẫy vẫy. Nghe tiếng cha “Dạ, để tui làm cho bà chủ” rõ to, cu Nhân đang ngủ cũng bật dậy lấy xe kéo lọc tọc chạy theo cha. Mấy anh em bốc vác khác ngồi nhìn theo bóng cha con họ với một chút ganh tị và thầm mong đến lượt mình được người ta sai khiến. Cô Loan ngồi nhìn trời đầy ánh sao thở dài: “Trời lạnh, hàng trái cây bán chậm nên ít người thuê bốc vác lắm, ráng chịu khó chờ nha con, đừng nản. Nếu có ai kêu, nhiều việc thì cô san cho mày kiếm tiền ăn bánh mì. Mà sao hôm nay trời mau sáng vậy, chắc đêm nay “lốc” quá !”.

 

Hơn 3 giờ sáng, cha con anh Mười mới chuyển xong số hàng ra xe cho bà chủ. Sương và gió lùa từng cơn lạnh thấu xương mà anh Mười vẫn đánh trần thở hổn hển. Chưa kịp nhai xong ổ bánh mì, lại có người tới gọi anh đi theo lấy hàng. Chẳng biết do mệt hay thương mấy đồng nghiệp trẻ mà anh nói với bà chủ: “Đây là thằng em tui, từ tối đến giờ chưa có cuốc nào, tui kêu nó làm cho bà chủ nghe”. Nói rồi anh dúi chiếc xe đẩy vào tay tôi.

 

Tôi mừng rỡ kéo xe theo bà chủ, còn bà ta thì cứ chăm chú xem hàng, trả giá. Ghé chỗ này mua vài ký rau, ghé nơi kia mua dăm ký cà rốt, rồi lại đảo qua hàng trái cây… Chẳng mấy chốc cái xe kéo trên tay tôi nặng trĩu, phải còng cả lưng, gồng hết sức nó mới chịu đi theo ý mình. Chợ thì đông, chen chúc người mua kẻ bán, lâu lâu tôi bị kẹt giữa đoàn xe kéo của các đồng nghiệp. Những lúc như thế bà chủ lại tỏ ra bực bội, lớn tiếng: “Mới vô nghề hả, chậm như rùa vậy, nghèo mà làm biếng quá sao khá nổi”. Sau khi xếp một đống hàng ngay ngắn lên xe, chưa kịp lau những giọt mồ hôi cay xè ở mí mắt thì bà chủ đã dúi vào tay tôi mười ngàn bạc rồi vẫy tay kêu một anh bốc vác khác. “Bữa sau gặp bà thì đừng đưa cái mặt đần ra nữa nhé. Chậm mà yếu vầy thì có ma nó mướn !”- chủ gằn giọng từng tiếng.

 

Bình minh đã lấp ló ở phía chân trời. Tôi móc túi đưa Nam - đồng nghiệp bốc vác của tôi trong đêm - sáu ngàn đồng tiền thuê xe, số tiền còn lại chúng tôi gom mỗi người hai ngàn để mua mỗi người một ổ bánh mì lót dạ. Trở về căn nhà trọ gần đó cùng với Nam, mặc cho bụng đói cồn cào, cả hai chúng tôi ngã vật xuống sàn nhà. Tay chân rã rời, mắt như muốn sụp xuống sau một đêm thức trắng mệt nhoài.

 

Người không chọn nghề

Khi tôi hỏi tại sao lại chọn nghề này, anh Mười cười kể: “Nghề này chọn tao chứ tao đâu có chọn nghề này ! Bán mấy sào ruộng ở quê, tao và vợ dẫn hai đứa con lên đây mong cuộc sống đổi thay, ai dè lại đi làm bốc vác. Lúc mới lên, tao cùng vợ cũng buôn bán lặt vặt, nhưng dân quê cả đời đâu có biết bán buôn, vì thế đồng vốn cứ cụt dần. Đến khi không còn vốn, vợ bệnh con đói tao mới bò ra đây làm rồi thành bốc vác lúc nào không hay”.

 

Cô Loan là nữ bốc vác duy nhất trong nhóm chúng tôi, năm nay đã ở tuổi 49 nhưng đêm đêm vẫn phải chầu chực khuân vác như đám thanh niên mới lớn. Khi hỏi đã bao nhiêu năm làm nghề bốc vác rồi, cô chỉ nhớ láng máng: “Cũng đâu mấy chục năm. Nhà nghèo nên cô phải đi làm từ thời còn bé tí. Lúc đầu thì phụ người ta nhặt rau, hốt rác ở chợ Cầu Muối. Lớn hơn chút nữa thì đi bốc vác với người ta, ai kêu chi làm đó, miễn là ngày có vài chục bạc để nuôi thân và mẹ già gần 90 tuổi. Làm riết rồi tay chân gợn cả cơ bắp, tiêu tan mất thời con gái”. Trong bóng đèn vàng phủ sương, tôi thấy mắt cô ngấn lệ khi vô tình hỏi đến chuyện chồng con: “Ai mà lấy dân bốc vác làm vợ hả con ! Ước chi ai cho một đứa con cũng đỡ buồn lúc về già”.

 

Rời quê nhà Sóc Trăng khi mới 16 tuổi, Nam cũng không hề nghĩ rằng mình lại trở thành bốc vác: “Nhà đông anh em, lại nghèo nên học hết lớp 9 là cha em bắt nghỉ học theo bạn bè trong xóm lên Sài Gòn kiếm ăn, làm thuê gánh mướn ở những chợ đêm”. Cũng như Nam, có lẽ sau này cu Nhân con anh Mười cũng không thể nhớ nổi tại sao nó lại đi làm bốc vác. Bởi năm nay nó mới 13 tuổi nhưng đã theo cha đi làm mấy năm rồi, ai kêu gì làm đó, miễn là có tiền. Nhìn Nhân hồn nhiên, cười nói cùng mấy đứa bạn bán vé số ở chợ, tôi hiểu rằng nó chưa hề ý thức được thân phận bốc vác của mình. Có chăng, Nhân chỉ biết được là vì nghèo mà phải đêm đêm cầm xe đẩy phụ cha kiếm cơm qua ngày.

 

Trong những phận đời bốc vác mà tôi gặp ở những phiên chợ đêm, dường như chẳng có ai nhớ nổi mình đã trở thành bốc vác lúc nào, điều duy nhất họ nhớ là bắt đầu vào nghề khi trong túi không còn đồng bạc và trước mắt là những đêm dài không nghề nghiệp. Họ cứ bước vào cái nghề rẻ mạt này một cách vô định, không được quyền chọn lựa.

 

Phận người bốc vác là vậy, họ biết rằng cuộc mưu sinh hôm nay đang bị đánh đổi bằng tương lai của chính họ và con cái họ. Dù có mù lòa hay bệnh tật thì đó là chuyện của mai sau. Còn hiện tại, những lo toan hằng ngày đang đè nặng lên cái bóng gầy nhỏ của đời người bốc vác trong những đêm dài bạc mắt.

 

 

THẾ ANH

(TRỊNH SƠN LƯỢNG sưu tầm từ:
 http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=189497 )

 

 

Con heo vàng

 

CON HEO VÀNG

Ba Quốc (tế)

 

 

Chiều Mùng Một Tết, hổng biết đi đâu. Tui đảo qua chỗ quán chú Tư. Không ngờ đông vui ghê. Hình như ai cũng thấp thỏm ghé qua coi sao. Ông chủ quán cũng vậy. Không định mở cửa nhưng ra thử coi có ai không. Ai dè quá xá người tụ tập. Người ngồi trên yên xe máy. Kẻ ngồi bệ cửa. Chuyện trò rôm rả. Anh Sáu xe ôm ra từ sớm bắt khách. Cô Mai sáng về quê nhưng cũng lên sớm. Ghé công ty bật máy “chủ” rồi xách laptop ra ngoài cửa quán chú Tư ngồi. Chú Tư lật đật mở cửa dọn ghế ra lẹ lẹ. Chơi sang. Bật cái máy phun sương cho mát. Trời Sài Gòn đang nắng gắt.

 

Năm nay văn võ bá quan tụ tập sớm quá hén. Anh chàng công an phường ngồi xuống liền. Bữa nay mặc bộ xi-vin. Hỏi giọng cầu tài muốn nhập bọn. Chứ hổng phải thắc mắc cạnh khóe. Năm ngoái chung tiền với hội chơi chứng khoán trong quán. Vốn dành dụm đâu chừng hai trăm triệu giờ thành tỷ rưỡi rồi. Ðang tính ra Giêng mua nhà. Có lẽ đồng tiền làm con người ta thay đổi quan điểm. Dạo này không thấy anh ta dị ứng với mấy câu chuyện “chính chị chính em” ngoài quán nữa.

 

Vô WTO rồi mà sao năm nay Sài Gòn ăn Tết hổng có lớn. Ông Tám khảo cổ đặt câu hỏi từ kết luận sau chuyến khảo sát bằng xe đạp hai bữa nay. Hôm qua hàng tồn quá trời. Mấy người bán hoa từ dưới tỉnh lên lỗ vốn nặng. Tết nhất mà nằm lại Sài Gòn luôn chứ hổng dám về nữa. Ðại hạ giá để kiếm chút sở hụi về quê mà cũng hổng ai mua. Ông già than thở. Chợ búa nhiều chỗ trưa Mùng Một là họp lại rồi. Thịt thà rau củ bán tới khuya 30 mà cũng hổng hết. Phải ráng bán tiếp chứ không thôi để đó thiu hết. Hàng quán cũng vậy. Lác đác mở lại gần nửa rồi.

 

Ðúng rồi đó bác. Cô Mai laptop bàn vô. Năm nay mấy người bà con trúng cổ phiếu quá chừng. Mà cũng đâu có ăn Tết lớn. Tại vì có bao nhiêu tiền mặt gom hết vô cổ phiếu rồi. Vậy là tốt đó. Một anh doanh nhân trong hội nối đuôi. Xã hội đang dồn tiền vô đầu . Tức là có việc làm. Chứ mấy năm trước hổng có chuyện gì làm. Nên mang tiền ra đốt chơi hết. Phần nào thôi. Ông Năm cán bộ có ý khác. Tiêu xài nhiều là cán bộ chứ hổng phải doanh nhân. Năm rồi đánh tham nhũng quá trời. Ðám còn lại cũng rét. Ðâu dám ăn nhiều. Cho nên Tết đến không có nhiều tiền để phung phí.

 

Chú nói vậy cũng có lý. Anh Sáu xe ôm chen vô. Nhưng mà xài tiền dễ nhứt là Việt kiều. Hồi trước lâu lâu Việt kiều mới về một lần. Nhiều người cả chục năm mới về lần đầu tiên. Tới nhà thấy anh em họ hàng nghèo quá mới rút tiền ra cho lia lịa. Ai cũng có tiền sắm Tết. Giờ Việt kiều về liền liền. Có năm còn về hai ba lần. Ðâu có cho tiền “tràn lan” nữa chớ. Nhiều người hổng những không cho mà còn tính đường làm ăn kiếm lời mang tiền ngược về bển.

 

Phải tính thanh niên nữa. Bữa nay chị Bảy bán bánh mì cũng mạnh dạn góp ý kiến. Ðám thanh niên mới là dám xài tiền bạt mạng nhứt. Tui thấy mấy đứa học trò hay mua bánh mì đó. Hồi trước có mối khách là bán tới lúc tụi nó đi làm luôn. Còn giờ hết 3 năm phổ thông là thấy biệt tăm biệt tích. Lâu lâu mới thấy có đứa ghé. Nói là đi học nước ngoài. Mỗi lần về phép là phải chạy ra mua bánh mì của tui ăn cho đã thèm. Lớp dồn tiền cho con đi du học. Lớp nhà cửa trống trải hổng có ai. Hỏi mấy anh mấy cậu nếu là bậc cha mẹ có con đi nước ngoài có còn lòng dạ nào ăn Tết lớn không. Cả quán ngồi gật gù khen cái lý luận của bà bán bánh mì.

 

Tức thì có quá trời chả lụa, jambon với đồ chua miễn phí được chị Bảy bưng vô. Anh doanh nhân góp một thùng Budweisser lấy trong cốp xe ra. Chú Tư lật đật lấy ly, đập đá. Nguyên một đoạn lề đường rôm rả lời chúc tụng nhau trong năm con heo vàng. Bữa nay khỏi lo đội dọn dẹp lòng lề đường. Ðội trưởng là công an phường chứ ai. Ðang mắc ngồi nhậu với đám này rồi. Mấy người khách du lịch nước ngoài đi qua. Ai cũng cười và nói thành thạo bốn chữ tiếng Việt: Chúc mừng năm mới.

 

 

BA QUỐC (tế)

(Bai Chuyen)

 

 

website counter