Bức tường của
các huyễn tưởng
(Dương Thu Hương)
Giữa hai cá thể luôn
luôn tồn tại một bức tường vô
hình.
Ấy là sự nhầm tưởng. Sự
nhầm tưởng nảy sinh trên những khác
biệt về văn hóa, cách cảm thụ
và nhận thức đời sống, thiên hướng
và ảo tưởng (bởi các ảo tưởng
là một bộ phận quan trọng trong cuộc sống
của con người). Khi bức tường
ngăn cách hai cá thể không đủ cao
để che khuất tầm mắt, người ta
còn có thể hiểu nhau. Nếu
bức tường che chắn đường chân trời,
sự cảm thông là bất khả.
Hiện thực này cũng thấy
rõ trong quan hệ giữa dân tộc, hai quốc
gia, giữa phương tây và phương
đông. Xu thế
phóng chiếu bản thân lên phần còn lại
của thế giới là đặc tính chung của con người, từ kẻ
mù chữ đến bậc hiền triết. Càng học rộng tài cao, nhu cầu thống trị
tinh thần càng mãnh liệt. Chính từ sự đam mê mãnh liệt
ấy, những ảo ảnh nảy sinh. Những ảo ảnh này tới lượt
chúng tạo nên bức tường của sự
huyễn tưởng. Một vật cản ngăn
cách con người với hiện thực và
chân lý.
Nếu quý vị đã quên, xin cho
phép tôi nhắc lại sự kiện này:
vào những năm 60 - 70, những bộ óc vĩ
đại nhất nước Pháp đã quay cuồng
vì hình ảnh Mao Trạch Đông, những
cái đầu mẫn tiệp nhất của nước
Pháp đã ngẩng lên nhìn “người
cầm lái vĩ đại Trung Hoa” như
nhìn một thiên tài xuất chúng, vị
thần tái sinh cứu rỗi loài người.
Dưới ảnh hưởng của các
ông thầy danh tiếng, sinh viên Pháp ào ạt
đổ xuống đường biểu tình, tung
hô Mao Trạch Đông với sự say mê rồ
dại như xưa kia, tiền nhân của họ từng
tung hô Napoléon. (Thật bất
công với Napoléon khi dùng so sánh kiểu này.
Tôi xin được thứ lỗi
vì chưa tìm ra cách diễn đạt
nào khác). Như thế
đó, cơn si cuồng tập thể kéo
dài khá lâu. Phải có một độ
lùi đáng kể của thời gian để
các bậc học giả Pháp nhìn rõ
chân dung thật sự của Mao: một trong những
tên đao phủ kinh tởm nhất lịch sử
nhân loại, không thua kém một ly Staline hoặc
Hitler nếu cần so sánh.
Gần như cùng thời gian đó,
Jean-Paul Sartre đã lập tòa án
Nuremberg
để bênh vực những người cộng sản
Hà Nội trong cuộc chiến tranh Mỹ - Việt. Cũng phải chờ năm tháng trôi
qua, tới khi xác các thuyền nhân trôi dạt
khắp bốn biển để nhà văn này nhận
ra sai lầm của mình. Ông hối tiếc
là đã biện hộ cho những tên
sát nhân, những kẻ hành quyết
chính nhân dân của chúng.
Không riêng Jean-Paul Sartre mà rất nhiều
văn nghệ sĩ trên thế giới đã
có chung một hối tiếc. Trong
số ấy phải kể tên Jane Fonda, người
đặt tên con trai là “Trỗi” và
đã cất công bay sang tận Hà Nội
để chụp ảnh chung với bông hoa mỹ miều
nhất của chính phủ cộng sản Bắc Việt
- nữ diễn viên đại biểu Quốc hội
Trà Giang.
Giờ đây, quay lại nhìn bức tường huyễn tưởng dựng lên giữa hai thế giới,
tôi thấy nó vẫn còn nguyên ở
đó, che khuất mọi tầm mắt. Dù có thiện
chí, phương Tây vẫn gần như bất
khả khi muốn tìm kiếm hiện thực cuối
cùng, thứ hiện thực đáng tin cẩn
trong giới hạn của thời gian và không
gian. Ở đây, họ vấp phải
một thứ mánh khóe, tôi tạm đặt
tên là “phương thức châu
Á”.
Vậy, thế nào là “phương thức
châu Á” ?
Đó là cách hành
động riêng biệt của những người cộng
sản châu Á, hoàn toàn tương
thích với thể chế chính trị. Thể chế này là món nộm
hòa trộn ba đặc tính: phong kiến, độc
tài và mafia.
Vì nghi ngờ khả năng biện hộ non yểu
của mình, tôi xin tạm chứng minh bằng một
sự kiện cụ thể: Cách đây chừng
một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn
của nông dân Thái Bình. Những người
dân cày đói ăn biểu
tình yêu cầu bọn quan chức địa
phương hoàn lại những món tiền bị
cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi
loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện
trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ,
sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải
Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh …
Phóng viên nước ngoài rầm
rộ đổ đến Hà Nội. Đương nhiên đây
là bộ phận đáng e ngại nhất đối
với nhà cầm quyền Hà Nội vì ở
Việt Nam
chưa có báo chí theo
đúng nghĩa. Đối với đảng Cộng
sản, phóng viên là con cháu trong nhà,
bảo gì phải nghe nấy, nếu hỗn hào sẽ
đuổi ra khỏi cửa, bẻ gẫy cần câu
cơm .. Cho dù vẫn dương
dương tự đắc là độc lập,
quan lại Việt Nam chỉ e ngại mấy ông mắt
xanh mũi lõ, vì chỉ mấy ông này mới
có khả năng gia tăng hoặc làm hao hụt
hầu bao của các bậc lãnh đạo
dân chúng. (Những chiếc vé
xanh là quốc hồn quốc túy bây giờ).
Vậy thì họ sẽ phản ứng ra sao với
đám phóng viên ngoại quốc
?
Họ đón tiếp niềm nở, nụ
cười thường trực gắn trên môi:
trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền
nhưng lạ mắt .. Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm
mỏng: “chúng tôi sẽ để các
ông các bà xuống tỉnh Thái Bình
trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện
đảm bảo được sự an toàn của
quý vị”. Sự trì hoãn
đó có hiệu lực. Một
tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không
còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi.
Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ
xoàng. Hành tinh mênh mông còn
có biết bao nơi chốn mời gọi
.. Họ lần lượt ra đi.
Khi phóng viên nước ngoài cuối
cùng lên máy bay và các ống kính
đã chĩa về hướng khác là
lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu
chiến binh đã bị bắt. Không
một tờ lệnh. Hoàn toàn
là lệnh mồm. Ở
Việt Nam, lệnh mồm là thứ hiệu lực
nhất. Lực lượng đàn
áp là bộ phận được trả
lương hậu hĩnh nhất trong guồng máy
này. Trên 40% kinh phí quốc dân dành
để nuôi họ. Vì thế,
cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm.
Sót lại là tiếng kêu khóc của
đám dân quê đói khổ, thất học,
thân nhân của những người bị
cùm trói và tống vào xe
thùng sắt.
Các cựu chiến binh Thái Bình, những
người đã hiến dâng toàn bộ tuổi
thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những
thương bệnh binh nạn nhân của chất
độc da cam, những người thường
được ca ngợi véo von là anh hùng cứu
nước. Họ sẽ được đảng Cộng
sản thân yêu đối xử ra sao
?
Họ bị phân tán vào khắp
các trại tù, sống trà trộn giữa
đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ
chết trong một thời gian rất ngắn bởi
chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ
tiêu họ. Đương nhiên,
“lệnh mồm” và ban bố một cách
thì thầm đến tận từng cá nhân.
Đây chính là “phương thức châu
Á”, nhóm danh từ
tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở
phương Tây. Bọn
tội phạm được hứa hẹn giảm
án theo thành tích: giết một
người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết
hai người, 18 năm còn lại 16 ..
Cứ thế mà thực thi.
Khởi sự là các cuộc
khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn
sát bằng các hình thức khác biệt,
trong đó một hình thức đặc biệt
hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa
ăn. Người
châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng
cụ ẩm thực biến thành vũ khí
sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời.
Người ta vót những chiếc đũa bằng
gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một
đầu đũa được chuốt nhọn
như kim đan. Khi các cựu chiến
binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm
bất thình lình đóng chiếc đũa
này vào lỗ tai của họ.
Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ
tai nọ sang tai kia. Nạn
nhân chết tức khắc không kịp bật một
tiếng kêu.
Như thế, trong bóng đêm và trong sự
im lặng, những người cầm đầu cuộc
biểu tình của dân cày Thái Bình
đã chết theo kiểu ấy.
Chính quyền Việt Nam thực sự là kẻ
sáng tạo lỗi lạc. Với nguyên tắc: hiệu quả tuyệt đối trong
sự an toàn tuyệt đối, họ đã thực hiện một
Thiên An Môn nhung lụa mà sự
thành công ở mức tối đa. Hiệu quả
tuyệt đối vì số người bị giết
nhiều gấp bội số người chết bởi xe tăng và súng liên thanh
trên quảng trường Thiên An Môn Trung Quốc.
An toàn tuyệt đối vì không một
nhà báo nước ngoài nào nhòm
ngó nổi nhà ngục Việt Nam,
không một ống kính nào ghi lại
được, dù một hình ảnh nhù
nhòa, tội ác của họ. Đó,
“phương thức châu Á”. Nói một cách văn vẻ hơn,
cách thức hành xử của loài rắn rết
hay ác thú chốn rừng già.
Về đời sống chính trị
ở các xứ hậu cộng sản đã
có nhiều người phân tích. Tôi chỉ xin đơn cử một
nghiệm sinh. Khi dấn thân vào cuộc
đấu tranh cho nền dân chủ, tôi cũng
như nhiều anh em khác xác định nhiệm
vụ của mình là vạch trần sự thật.
Nói đúng hơn là duy danh
định nghĩa những sự thật hiển
nhiên mà dân chúng chỉ dám thì thầm
trong xó bếp hoặc góc tường. Tuy
nhiên, trước khi thật sự bắt tay vào việc này, có hai điều
tối cần thiết phải thực thi tức khắc:
Thứ nhất, tôi phải tự
thiến mình bằng cách sử dụng thứ
thuốc gọi là thuốc “triệt kinh”. Thuốc “triệt
kinh” nhằm phá hủy oestrogène, loại
hormones xui khiến các góa phụ thời xưa
khôn ba năm dại một giờ. Hẳn
các bách khoa toàn thư ở
phương Tây không đưa vào danh mục
loại thuốc này vì nó là một trong
các bí truyền nảy sinh từ các hậu
cung của triều đình phong kiến phương
đông, trước hết là Trung Quốc.
Một ông vua da vàng thường có
vô số vợ, được phân hạng bằng
các phẩm tước khác nhau: hoàng, phi, mỹ
nữ, cung tần… Thời thịnh vượng con số
này có thể kể đến vài trăm.
Trong số vài trăm ấy, rất nhiều người
có thể vẫn còn là gái trinh cho đến
lúc chết vì bị vua quên dùng. Một số khác trải qua thời sủng
ái rồi rơi vào thân phận thất sủng.
Đám người đẹp thất sủng
chính là duyên cớ gây ra những vụ
mưu sát tàn độc, xúi bẩy
đám cấm quân hoặc kiêu binh khởi loạn,
gây sóng gió cho triều đình và
đôi phen ngai vàng sụp đổ. Vì hiểu
rõ căn nguyên cuối cùng của những sự
khởi loạn này là sự thiếu hụt
tình dục: “cung không đáp ứng
được cầu”, nói cách khác
là cuộc cạnh tranh khốc liệt và tuyệt
vọng giữa 300 con gà mái trước một
con gà trống, các bậc lương đống
triều đình phải tìm phương thuốc
triệt kinh. Thuốc triệt kinh là biện pháp
hóa giải cuộc nổi loạn của đám
quần hồng, một thứ thuốc độc
dài hạn khiến người đàn bà suy
tàn nhanh chóng: tóc bạc và rụng,
lưng đau, xương giòn, răng hư hoại,
bàn tay bàn chân lạnh
và nhu cầu tình dục cạn kiệt. Bản sắc
châu Á đậm đà ở chỗ nó
dành quyền dâm dục tối đa cho một số
tối thiểu và khuyến khích tuyệt đại
đa số con người thực thi một cuộc sống
khổ hạnh với một mớ giáo lý nhằm
khống chế và phỉ báng phụ nữ. Trong xã hội kiểu ấy, cái đũng
quần của người đàn bà là mục
đích tối thượng cho những cuộc thanh
trừng cũng như tấn công chính trị.
Tự xét rằng cái đũng quần là
nơi xung yếu nhất, là con mồi dễ ngoạm
nhất của đảng Cộng sản Việt Nam
nên tôi tự hoạn để được an toàn.
Việc thứ hai cũng quan trọng
không kém, ấy là việc từ bỏ mọi
người thân. Phật
đã dạy con cái là những sợi
xích bằng vàng. Nhưng không chỉ con
cái mà cha mẹ và anh em cũng có thể
trở thành vũ khí tấn công những
người tranh đấu. Đã dấn
thân vào trận tuyến thì phải chấp nhận cuộc
sống đơn độc để tránh mảnh
đạn bắn vào những người xung quanh
và giữ cho được tinh thần tự chủ.
Cách hành xử như vậy hẳn
là xa lạ với các chính khách Mỹ cũng
như phương Tây.
Muốn hiểu rõ hiện thực
này cần phải làm đổ sập bức
tường huyễn tưởng. Giờ
đây, tại Việt Nam những đồng
đội của tôi vẫn đang tiếp tục chịu
sự hành hạ của bộ máy cầm quyền.
Vì là đàn ông, họ chẳng cần tự
thiến nhưng họ bị tra tấn và khống chế
qua phương tiện trung gian: gia đình. Những
liên hệ hình cảm trở thành một thứ
vũ khí cột trói chân tay
và ngôn từ của họ.
Sự đổi thay ngoại diện ở Việt Nam dễ
tác động lên giác quan của người
phương Tây nhưng dưới vẻ tưng bừng náo nhiệt của
Sài Gòn và Hà Nội vẫn tồn tại
dai dẳng một hiện thực tàn khốc. Hiện
thực ấy được tóm tắt như sau: bóng đêm, rắn rết
và nước mắt.
Paris, tháng 4/2007
DƯƠNG THU
HƯƠNG
(Vi Nguyen sưu tầm)