NGƯỜI BÁN
SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA-TRANG
(PHẠM TÍN AN NINH)
Tôi trở về thăm quê hương sau
hơn mười lăm năm, kể từ ngày
vượt biển ra đi. Tôi quyết định
điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư
trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen
bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất
hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối
năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá
Bàn, khi tôi đang ở một trại tù
khác tận núi rừng Việt Bắc và
mãi năm năm sau tôi mới nhận được
tin buồn. Đứa em gái mà tôi
thương quí nhất, mang hình ảnh của
người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ
trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc
đời ở cái tuổi tưởng chừng
lúc nào cũng có cả một bầu trời
xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè
tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi
thân khắp bốn phương trời. Biết
là lần trở về này, rồi cũng chẳng
khác gì cái ngày cách đây mười
sáu năm, từ một trại tù miền Bắc
trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên
chính nơi chôn nhau cắt rốn của
mình. Tôi cũng không có ý định
về đây để tìm lại những kỷ
niệm ngày xưa. Những "hang động tuổi
thơ"chắc cũng đã biến mất trước
bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp
xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại
chút ít trong lòng những người tha
phương lưu lạc. Bản thân tôi có
quá nhiều đớn đau và mất mát
ngay trên chính cái thành phố một thời
xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại
cái quá khứ hãi hùng và tang
thương đó. Tôi về chỉ để
làm một điều, mà nếu không
làm được, lòng tôi sẽ ray rứt
khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết
tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
Tôi về để tìm lại phần mộ
của cha và em tôi, cải táng đem về
an táng bên cạnh phần mộ của mẹ
tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi
ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của
cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về
mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn
nhưng cũng nhiều cay đắng của ông
bà. Cha tôi được chôn cất sơ
sài trên núi Đá Bàn, bên
ngoài một trại tù cải tạo lúc
xưa. Còn em gái tôi, được gia
đình một cô bạn thân chôn cất tại
một nghĩa trang ngoài Đồng Đế.
Khó khăn và may mắn lắm tôi mới
tìm được tin tức về mộ phần của
cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ
một người bạn cùng tù với cha
tôi, chính tay ông đã đào huyệt
cho cha tôi và gia đình cô bạn thân
của em gái tôi, vượt biên từ năm
1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan,
cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ
hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ
điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa
trang, dù chưa được xây, nhưng có
tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ
dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm
trong núi và cái trại cải tạo
ngày xưa bây giờ đã biến thành
một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi,
có biết bao sự đổi thay.
Cuối cùng thì tâm nguyện của
tôi cũng hoàn thành được một nửa.
Trái ngược với những lo lắng ban đầu,
tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha
tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi,
nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này
đa số là dân thành phố bị cưỡng
bách "tự nguyện" lên đây, một
số ngày xưa là lính và công chức.
Biết đây là mộ của những người
tù cải tạo, nên họ thương mà
rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối
năm họ đều thắp hương, tảo mộ
và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng
gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu
mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em
tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn
tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ
thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều
ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một
số đã được cải táng, dời
đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát
bên nghĩa địa. Người sống bây giờ
ở chung với người chết. Tôi bắt
chước người xưa khấn vái, xin hồn
thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ
của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn
không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần
mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh
tế mới cám ơn lòng tốt của mọi
người. Đưa hài cốt của cha tôi về
an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang
gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những
ngôi mộ đã bao nhiêu năm không
có ai chăm sóc.
Còn một ngày nữa là hết hạn
visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại
chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè
Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức
hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc
xích lô chạy dọc theo con đường
Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn
tìm lại những lùm cây dương
ngày trước, thuở chúng tôi và bạn
bè hẹn hò sau những lúc tan trường.
Một số lùm dương vẫn còn
đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn.
Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường
Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại,
ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo
tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo
tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có
biết bao kỷ niệm của ba năm theo học,
bây giờ không những cái tên trường,
mà tất cả đều trở thành xa lạ.
Những hàng cây phía trước không
còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng
còn sót lại chút gì thơ mộng,
gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng
hơn là thương tiếc. Bất giác tôi
nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp
dễ thương, đã cho tôi cái ấm
áp của cả một gia đình, trong những
ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ.
Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng
thường đến đây chờ tôi để
hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển,
nhưng ngại đến đó một mình
nên thường rủ tôi đi theo hộ tống.
Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy
anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh
em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển,
tìm đến khu có nhiều cây dừa
trước trường Bá-Ninh lúc trước,
nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở
đó.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ
xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi
cát, một người tàn tật đang
khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại
giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh
ta giống như một con cóc. Len lỏi trong
đám người đi tắm, anh hướng về
phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa
đầy sách, và kéo lê trên cát
một cái túi vải nữa, cũng toàn
là sách. Anh lê lết từng quãng, từng
quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên.
Thấy tôi gật đầu chào, anh ta
nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ
hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú,
râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi
tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng
bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong
túi vải đang nằm trên mặt cát
và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn
sách có cái tựa viết bằng tiếng
Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic.
Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới
quảng cáo rầm rộ trên truyền hình
Na-uy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi
tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời
chào và giới thiệu cuốn sách bằng
tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu
loát, không thua kém gì những người
Việt đã sinh sống lâu năm ở nước
ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người
Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi
thán phục anh vô cùng và bảo với
anh tôi là người Việt, định cư ở
Na-uy, nên trình độ tiếng Anh của tôi
chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã
giao, chứ làm gì có thể thưởng thức
được văn chương. Tôi cám ơn
anh và móc ví ra định biếu anh một
chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành
tiền cho những người còn nghèo khổ
hơn tôi.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện
và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh
làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì
từ khi trình giấy thông hành vào nước,
trước những người mang lon, đội
mão đại diện cho cả môt quốc gia
mà cũng không có được phong
thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở
trong cái thành phố "mũi nhọn du lịch"
này lại còn nhiều người khốn khổ
hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để
anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh
cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi
kia, để tìm đủ tiền thối lại cho
tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu,
nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và
gật đầu chào tôi rồi vội vàng
lết sang mấy người khách nước
ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế
phía trước.
Từ hôm ấy, hình ảnh người
tàn tật bán sách trên bãi biển
Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo
tôi về tới Na-uy; để rồi nếu có
ai đó lỡ lời nói điều gì
không mấy tốt về những người
nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm
tưởng như đang xúc phạm đến anh,
người bán sách khả kính mà
tôi bất ngờ được gặp.
Năm sau, tôi lấy một tháng hè về
lại Việt nam. Lần này tôi mua vé
và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ
Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là
người đã giúp chôn cất em tôi
ngày trước. Tôi không ngờ là
mình phải về lại Việt nam lần thứ
hai. Một điều mà trước đây
tôi không hề nghĩ tới .. Nhưng tôi phải
làm tròn bổn phận của người anh với
cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng
cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây
giờ nó còn sống để cho tôi khỏi
cảnh côi cút một mình.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ
người. Tôi trở về từ vùng Bắc
Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp
cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới.
Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển
tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng
nhớ tới người bán sách năm xưa.
Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng
mấy cái lều có bóng dáng nhiều
người ngoại quốc đang từ khách sạn
kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi
nhìn thấy người tàn tật đang lê
lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng
sách. Đúng là anh tàn tật bán
sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng
thầm như sắp sửa được gặp lại
con người mà bấy lâu nay tôi thường
nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ
làm cách nào để anh ta vui lòng nhận
sự giúp đỡ của mình. Nhưng người
tàn tật lúc nào cũng bám sát
vào những người nước ngoài. Tôi
để ý thấy người ta cũng không mua
sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc
nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận
tiền rất điệu nghệ, không nghe anh
nói cái câu thật tử tế mà một
năm trước anh đã lễ phép nói với
tôi "Cám ơn anh, nhưng xin anh để
dành cho những người còn nghèo khổ
hơn tôi". Một cái gì đó thật
đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng.
Tôi cảm thấy người nóng hừng hực.
Không biết là sức nóng giữa ban trưa
hay vì máu nóng bốc lên đầu.
Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt
sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi
đổ vào bờ.
Nước biển trong xanh, sóng biển như
những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt
ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trải
rộng đến những dãy núi mờ xanh tận
cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong
không gian như có ai đang dạo đàn bản
Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào
giúp tâm hồn con người rộng mở
và dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển,
tôi cũng tạm quên người tàn tật
bán sách đã làm tôi hụt hẫng.
Nhưng khi vừa bước lên bờ cát
thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế
mấy người nước ngoài và đưa
tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ,
có thể là người tàn tật này
không phải là người tàn tật năm
xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng
chưa hỏi hết câu hắn đã
"Đ.m. cái khứa đói rã họng ra
mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ
nó rồi .."
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn,
tôi đủ biết chắc hắn ta không phải
là anh - người tàn tật bán sách
mà năm trước tôi đã gặp -.
Tôi theo người bán sách này với
ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ,
nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn
di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan
sát thật nhanh về những đám người
đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi
ngang qua chỗ ngồi của người đàn
bà bán cua luộc, hắn hất hàm bảo:
" Đó, vợ khứa đó ! "
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng
tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần,
thấy chị bán cua luộc này có vẻ
nghiêm trang khác với những người
bán hàng rong bình thường, tôi
không biết phải bắt đầu làm sao.
Tôi mua hết con cua này tới con cua khác
mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần
chị định quảy gánh đi chỗ khác,
tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa
để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận
ra người khách mua cua này cũng có
gì khác thường, tôi buột miệng :
"Chị là vợ của người tàn tật
bán sách trên bãi biển này mấy
năm trước ?". Chị ngớ người ra, im
lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi
là một người xa lạ sao lại tò
mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể
cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt
mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn
tìm cách giúp anh một phần nào nỗi
thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn
biết về anh. Dường như những lời
chân thật của tôi làm cho chị xúc
động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật
buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy.
Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc
lấy nhau mà sống. Một số người
đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi
thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết
cách nay hơn tám tháng. Em đã lo
chôn cất anh ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần
vì cảm thương anh trong cảnh khốn
cùng, một phần ân hận là giá
năm trước mình tìm cách giúp đỡ
anh, biết đâu đã cứu được
anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa
tôi ra mộ để thắp cho anh nén
hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối
cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều
chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép
cùng ngồi với chị ở băng ghế sau
để dễ dàng trò chuyện. Trên
đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm
tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị
không có dịp nói ra những điều bao
năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha
chị trước kia là một trung sĩ địa
phương quân, bị thương năm 1968, trong trận
tết Mậu Thân, nên được giải ngũ.
Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm.
Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy
nuôi đứa con độc nhất của mình.
Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông
mua được một căn nhà tôn trong khu
dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga
xe lửa. Ông xin được cái chân
bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến
xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng
với tiền hưu bổng hàng tháng, ông
dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học
hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu
vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang
"giải phóng", chị bị loại ra bởi
lý lịch "ngụy quân" của cha.
Lúc này, gia đình trở nên bi
đát. Cha chị, tất nhiên, không còn
được lãnh tiền hưu bổng ngày
trước, chị không tìm ra bất cứ việc
gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải
bán một nửa căn nhà vốn đã chật
chội để mua một chiếc xích lô làm
phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi
bán hàng rong từ dạo ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn
còn đạp xích lô ? Tôi tò mò
hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp,
ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như
con.
Tôi ngạc nhiên :
- Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách
đó.
Đến bây giờ tôi mới biết
tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là
trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn
rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn,
khi yểm trợ cho mặt trận Long Khánh của
Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng
anh bị thương rất nặng, phải đưa về
tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu
khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết
được mình bị mất hai chân và một
cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt
cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa
"giải phóng", anh bị đuổi ra khỏi
Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương
chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy
trên bến xe Xóm Mới. Biết được
phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em
lấy xích lô chở anh về nhà chăm
sóc vết thương và anh sống với cha
con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
- Anh có một cô em gái ở
đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu
không nghe anh nói điều này. Mãi sau
này thấy trên đầu giường của anh
có thờ tấm ảnh của một cô con
gái và có nhiều đêm rất khuya anh
ngồi bất động trước tấm ảnh, cha
em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó
là cô em gái duy nhất của anh.
- Anh không còn bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi
hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ
có trình độ anh ngữ khá, anh được
lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc
không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh
tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về
nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn
khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy
mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.
Xe dừng lại, tôi bước xuống trả
tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc
có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước
vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn
một câu chuyện buồn. Tiếng chuông
nhà thờ từ đâu vọng lại càng
làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co
một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại
và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá,
nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em
gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng
đá đơn giản, trên tấm bia có cả
tấm ảnh. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên
mộ bia anh Bá có hình một thập tự
giá, vì đây là nghĩa trang Phật
giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp
ba nén hương thầm khấn vái cho anh
được sống an bình trong một thế giới
chẳng còn thù hận, và nói lên
lòng cảm mến của một người đồng
đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của
anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh
còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong
độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen
quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi
nhớ tới khuôn mặt của những bạn
bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp
ba nén hương cho một người không hề
quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm
ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc
tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi
như chẳng còn trông thấy những gì trước
mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn
hay không ? Người trong tấm ảnh chính
là An Bình, cô em gái yêu dấu của
tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh,
mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ
lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn
được. Chính tấm ảnh của em tôi
mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng
với ảnh của cha và mẹ của tôi.
Tôi vẫn thường đứng hằng giờ
trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy
mình quá đỗi cô đơn trên xứ
lạ quê người. Làm sao tôi có thể
nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi
khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi
ngạc nhiên :
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị
cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn
đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc
bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn
thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về
đây trước tôi hai ngày, và
chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ
ở nhà một người em trong khu cầu Xóm
Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh
tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh
ta đã tìm được. May mắn là
bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác
là đã đến tìm bác sớm
hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi
đã bất ngờ tìm được mộ của
em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa
trang để xác nhận lại vị trí
ngôi mộ của em tôi mà ngày trước
bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị
bác dẫn đường, như muốn để
xác minh chắc chắn là bác biết rõ
ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30
phút mới tìm được ngôi mộ của
em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy
bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ
không có xây mộ đá như bây giờ,
và trên bia cũng chỉ có tên chứ
không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc
nhiên, không biết rõ việc gì. Tại
sao cô gái này là em gái duy nhất của
anh Bá mà cũng là em gái của tôi ?
Tôi xin lỗi vì xúc động quá,
tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đường về
nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về
lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn
gặp lại bác vài hôm sau. Trên
đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về
hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi
đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về
phép một đôi lần.
An Bình, đứa em gái duy nhất của
tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một
thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường
Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau
ngày về hưu ông được bà con mời
làm chủ tịch hội đồng xã. Ông
bị bắt vào trại cải tạo Đá
Bàn sau ngày Nha-Trang "giải phóng", rồi
vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi
sự tra tấn, ông đã chết gần một
năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp
cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm
Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình,
được về dạy ở Nha trang. Có lần
tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối
tình của em với một chàng sinh viên sĩ
quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh
cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với
tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng
vì anh là người Bắc di cư, công
giáo, không hiểu có khó khăn gì
cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên
tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm
về tôn giáo rộng rãi lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo,
căn nhà của chúng tôi bị chính quyền
mới tịch thu để làm hợp tác
xã mua bán. Em tôi không được tiếp
tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở
chung với cô bạn học nối khố tự
ngày xưa, chắt chiu số tiền còn
dành dụm được để thăm nuôi
cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em
có vào tìm thăm tôi và người
yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi
khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy
ngày liền, nói với tôi là người
yêu của nó đã chết mất xác ở
chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em
tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay
tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi
trở về sum họp. Tôi vào tù hơn
sáu tháng, hai lần được phép gởi
thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi
âm. Cho mãi trước khi được chuyển
ra Bắc, tôi mới nhận được thư của
cô bạn thân của nó, báo tin là
nó không kiếm được việc gì
làm, túng quẫn, buồn chán, nên
đã uống nguyên một ống thuốc ngủ.
Gia đình cô chở vào bệnh viện,
nhưng không cứu được, vì không
tìm ra thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt
nhớ ra được điều gì. Chị bảo
khi còn sống, anh Bá không đi làm
vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ
rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh
đã dành dùm tiền bạc thuê người
xây lại ngôi mộ và mua phần đất
dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị
tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ
dưới đầu giường. Chị vẫn
còn để trên bàn thờ, chờ ngày
giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo
tôi cùng về nhà với chị, để chị
trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất
của một người cùng sống chung trong cảnh
khốn cùng với cha con chị trong gần ba
mươi năm, và bây giờ mới biết
đó là người yêu của cô em
gái thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một
ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền,
theo chị băng qua hai con đường sắt, đi
quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà.
Tôi xin phép thắp hương trước
bàn thờ của ba chị và Bá, trên một
cái kệ nhỏ bằng gỗ treo trên vách.
Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền
để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ,
em gái tôi và Bá, một ít làm vốn
buôn bán để đỡ vất vả hơn
xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa
và từ nay Trang là người thân quen duy nhất
của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi
đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật
ký trên tay, mà cứ tưởng như
mình vừa nhận một món quà quí
giá của người thân gởi về từ một
cõi nào đó thật xa xăm.
Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và
máu còn thấm đỏ qua mấy lớp
băng, vậy mà mình bị người ta đuổi
ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn
cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một
ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng
bác ái, đùm bọc, nuôi nấng
và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng,
mình không muốn sống thêm một ngày
nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào
cũng hướng về chúa Kitô, và xin
phó thác tất cả ở nơi Ngài.
… ….
Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định
trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không
còn có một chỗ nào khác để
trở về. Mình về đây để
tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ
nhất của đời mình, của những
ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày
gặp An-Bình, mình nghĩ là mình
đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy
dương rạt rào thơ mộng này. Đau
đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là
mình ngày trước, mà chỉ là một
kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ
không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ
mong về đây để được sống với
hình ảnh của nàng
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày
đau đớn nhất trong đời mình. Đau
đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh
dậy trong quân y viện và biết mình trở
thành một người tàn phế. Mình
lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức
An-Bình, được biết là em đã
quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho
anh. Trong vận cùng của một đất nước
mà anh chỉ là một thằng lính hèn
mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ
được bầu trời Nha-Trang này cho em,
và cho những kỷ niệm của chúng
mình ..
Một hồi chuông nhà thờ làm
tôi giật mình. Ngẩng đầu lên mới
biết mình đang đứng trước nhà thờ
đá. Tôi thẫn thờ bước lên những
bậc "tam cấp", đến trước tượng
Đức Mẹ. Tôi là người ngoại
đạo, không biết phải cầu nguyện
như thế nào. Tôi chắp hai tay trước ngực,
kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức
Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người
hoạn nạn và xin cho họ được
cùng phục sinh với Chúa để tình
yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một
thế giới bình an, không còn có hận
thù.
Tôi không còn ý định dời
ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ
tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ
cha mẹ tôi để xin phép được
xây lại hai ngôi mộ của em tôi và
Bá chung trong một vòng thành. Không ai
có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa,
dù bây giờ chỉ còn là một thế
giới vô hình.
Cũng như lần trước, ngày cuối
cùng, tôi thuê xích lô đi một
vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con
đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những
cơ sở công quyền, những dinh thự của
cán bộ bây giờ được dựng
lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ
màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng
dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng
lẽ những thay đổi "to lớn" ấy
mà phải xây trên máu xương,
trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc
của bao nhiêu thế hệ đã từng một
thời góp sức tạo nên cái thành phố
hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc,
tôi không còn nhìn thấy thành phố
Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi
bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma,
dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng
tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà
ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng
làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới
cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ,
tác giả bản nhạc quen thuộc một thời
này, ông cũng đã bị giết vào
tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với
tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng,
Biên Hòa.
PHẠM TÍN AN NINH
[Vương Quốc Na-Uy]
(TRỊNH SƠN LƯỢNG và
MIÊN DU ÐÀ LẠT chuyển)