CON MẸ HÀNG
XÓM
(Tiểu Tử)
Hắn tên là
Cui, Đặng văn Cui. Thứ ba, nên người ta
gọi là Ba Cui. Và vì nước da hắn
ngăm ngăm, nên sau này khi đi lính quốc
gia, bạn đồng đội đặt cho hắn biệt
danh “Cui Đen”. Không phải để
phân biệt với thằng Cui khác, mà
là để cho dễ nhớ ! Bởi vì tiếng
"Cui" một mình vừa cộc lốc, tối
nghĩa, vừa khó nhớ nữa !
Thật ra, hồi đi
làm khai sanh, ông già hắn đặt tên hắn
là "Qui", nghĩa là "Về", vừa
văn vẻ lại vừa nhắc nhở năm
đó ông đưa vợ con trở về
quê làm ruộng sau một thời gian dài "bôn
ba bá nghệ" ở Sài Gòn Chợ Lớn.
Nhưng không biết tại vì ông phát
âm không rõ hay tại vì ông chánh lục
bộ lãng tai mà tiếng "Qui" trở
thành "Cui" trong sổ bộ ! Thành ra, trong
gia đình và trong xóm người ta gọi hắn
là "Qui", còn trong trường và sau
này khi ra đời, hắn vẫn mang cái tên
"Cui" cứng ngắt đó và thường
bị người ta hỏi "Cui là gì ?".
Coi vậy chớ tên
"Cui" có vẻ như là cái tên...
"tiền định”, bởi vì rất hạp
với con người và tánh tình của hắn.
Con người hắn không đến nỗi quá
cục mịch nhưng, thật tình, cũng không
có nét gì thanh tú hết ! Người gầy
gầy,nước da đen đen như người
Miên, mắt lộ, gò má cao, môi mỏng
dánh, giọng nói thì nhọn hoắt. Vậy
mà trong cử động đi đứng, hắn lại
rất lanh lẹ, không... ù lì chút
nào. Còn tánh tình thì cứng cỏi,
thẳng răng, gan góc... như cây dùi cui !
Hồi đó -
cái thời còn là lính quốc gia - hắn
đánh giặc hăng lắm. Khi lâm trận, mặt
nào địch bắn rát nhứt là có
Cui Đen phóng tới. Làm như hắn không
biết sợ là gì. Vậy mà suốt cuộc
đời "binh nghiệp" của hắn, chưa bao
giờ hắn bị thương ! Bạn đồng
đội nói: “Chắc thằng Cui Đen nó
có vô bùa !".
Hắn đánh giặc
“hết mình" như vậy, không phải tại
vì hắn có lý tưởng này lý
tưởng nọ hay có ý thức chánh trị
gì gì, mà tại vì hắn nghĩ rất
đơn giản: "Nhà ai nấy ở. Mắc mớ
ông cha gì tụi nó mà tụi nó
kéo vô đánh mình ? Rõ ràng
là tụi nó muốn đánh chiếm xứ
mình để đô hộ như tụi Tàu
tụi Tây hồi đó. Mẹ bà nó ! Phải
đánh chết cha tụi nó hết !".
Đánh giặc
“chết bỏ” như Cui Đen vậy mà Trời
không thương. Cho nên mới có ngày 30
tháng tư năm 1975...
... Được lịnh
đầu hàng, hắn tức muốn ói máu
! Hắn cắn chặt môi, chĩa súng lên trời
bắn như điên. Bắn hết đạn, hắn
liệng súng vào đống binh cụ. Trước
khi quay đi, hắn nhìn lại võ khí,
ánh mắt căm hờn dịu xuống. Hắn
nhìn với cái nhìn của người
đàn ông nhìn cô nhân tình lần
cuối, nhưng hắn lại đưa tay lên
trán chào như hắn chào người đồng
đội vừa vĩnh viễn nằm xuống nơi
chiến trường... Trong đời đánh giặc
của hắn, hắn đã từng chào như vậy.
Nhưng lần này hắn nghe như hắn đang
chào vĩnh biệt một cái gì to lớn
hơn, một cái gì quan trọng hơn, một
cái gì quí giá hơn người
lính cộng hòa chết trận. "Cái
gì đó” hắn không định nghĩa
được nhưng hắn cảm nhận được.
“Cái gì đó” cũng bất thần
lãnh một viên đạn vào đầu, cũng
ngã gục xuống không kịp trối. Nhưng,
trong "cái gì đó", hắn thấy
rõ có hắn, có vợ con hắn, có
bà con hắn, có đồng bào hắn nữa.
Xưa nay, Cui Đen không biết khóc. Nhưng
bây giờ, bỗng nhiên hắn nghe hai mắt
mình xót xót...
Một người bạn
trong đơn vị chở Cui Đen về nhà bằng
Honda.
Nhà Cui Đen ở gần
chợ Bà Chiểu, trong một hẻm ngắn
nhưng rộng, xe hơi vào được.
Đó là loại phố trệt, có sân
trước sân sau, và tường rào cao cỡ
đầu người. Cui Đen, vợ và hai con nhỏ,
ở căn cuối cùng trong hẻm. Vợ chồng hắn
ở đó từ thời chưa có con, nên cả
hẻm đó đều biết hắn. Ở
đây, người ta gọi hắn là "Ba
Cui".
Ba Cui bước vào
sân thấy cửa nhà đóng im ỉm. Mở
cửa vội vã, thấy đồ đạc
còn y nguyên, kể cả chiếc xe đạp của
hắn. Hắn bước nhanh vào trong, vừa bước
vừa gọi lớn: "Lựu ! Lựu à ! Mẹ
con em đâu ? Anh về đây nè !". Im lặng.
Im lặng kéo dài ra tới sân sau. Căn
nhà bỗng như rộng minh mông... Trong cái
trống vắng đó, Ba Cui nghe như muốn ngộp
thở. Hắn trở ra nhà trước, kéo ghế
ngồi. Bỗng hắn để ý đến một
tờ giấy trắng xếp hai nằm dưới
cái gạt tàn thuốc. Lấy lên xem,
thì ra là thơ của vợ hắn. Thơ viết
vắn tắt: "Em và hai con di tản theo anh
Sáu. Anh ở lại, nhớ nhìn kỹ Thẩm
Thúy Hằng để mà sống. Em Lựu".
Đọc câu đầu, hắn nghe yên tâm
vì anh Sáu - anh vợ hắn - là trung tá hải
quân. Đọc câu sau, hắn "xì" một
tiếng, bỏ lá thơ lên bàn rồi lấy
tay vỗ lên đó nghe một cái bốp, miệng
lẩm bẩm: “Đến nước này mà
còn viết móc lò móc chảo !".
Nói như vậy, bởi vì Ba Cui vốn mê
đào hát. Hắn cắt hình mấy cô
minh tinh trong mấy tờ báo Tết, lộng vô
khuôn kiếng treo đầy tường. Người
mà hắn thường ngắm say mê nhứt
là Thẩm Thúy Hằng !
Ba Cui đốt điếu
thuốc, vừa hút vừa nhìn quanh. Rồi theo
thói quen, mắt hắn dừng lại ở khuôn
hình người minh tinh mà hắn ái mộ.
Cặp mắt quá đẹp ! Cái mũi quá
đẹp ! Nụ cười quá đẹp ! Bỗng
hắn nghĩ: “Chẳng lẽ trong cái chộn rộn
sanh tử của mấy ngày này mà Lựu
còn nghĩ tới chuyện con nít như vậy
à ?". Một lúc lại nghĩ: "À !
Mà xưa nay Lựu đâu có ghen về vụ
này !". Rồi hắn lại nhìn chầm chầm
khuôn hình, miệng lẩm nhẩm: "Nhớ-nhìn-kỹ-Thẩm-Thúy-Hằng...
Tại sao phải nhìn kỹ ? Mà tại sao để-mà-sống
? Và tại sao lại gạch đít trọn
câu này ? Chắc Lựu muốn nói gì
đây !”. Hắn đứng lên, bước lại
gần để nhìn. Nhìn một lúc, rồi
tò mò, hắn nhắc khuôn hình xuống,
lật xem phía sau: trên miếng gỗ ép
dính bụi có nhiều dấu tay nho nhỏ. Hắn
chạy xuống bếp lấy con dao rồi cạy bật
mấy cây đinh gài miếng gỗ ép. Miếng
gỗ được lật ra, dán dính ở mặt
trong bằng băng keo là ba lượng vàng. Ba
Cui đứng ngẩn ngơ, quên mất điếu
thuốc trên môi đang cháy dở !
Sau ngày 30 tháng
tư là chuỗi dài... bận rộn ! Đi mết-tinh.
Rồi họp rồi hội rồi học tập. Rồi
họp rồi hội rồi học tập nữa. Khi
tàm tạm yên, kiểm điểm lại thì
những người trong hẻm không có ai đi
di tản hết. Thành ra Ba Cui phải nói trớ
là vợ con hắn về dưới quê "sống
dễ thở hơn".
Thời gian sau, lần lần
người trong hẻm đổi nghề. Có lẽ
cho hạp với thời cuộc, với cái gọi
là “đổi đời” mà Nhà
Nước cách mạng lúc nào "lên lớp"
cũng nói. Cho nên thấy thầy Trân nghỉ
dạy tiểu học ở phường Sáu, thầy
giáo đó bây giờ... “tháo
giày” đi làm thợ hồ. Thấy bác
Năm thợ bạc bây giờ ngồi bán chuối
chiên ở đầu ngõ. Thấy ông thầy
chích hạ bảng "Y tá có bằng cấp"
rồi sơn viết lại "Hớt tóc bình
dân". Thấy bà Ba "thớt thịt" nghỉ
bán thịt heo ở chợ Bà Chiểu, tối
ngày nằm nghe băng nhạc cải lương,
để chồng con chạy áp-phe tuốt trong Chợ
Lớn. Thấy ông “Chánh Ký”
chuyên cho mướn xe ba bánh bây giờ
bán hết dàn xe rồi ra đứng nấu
mì cho thằng con có tiệm cà phê ở
ngang hông chợ... vv.
Còn Ba Cui thì
đi đạp xích-lô !
Một hôm, trong
lúc đạp rề rề trước nhà
thương để đón khách, Ba Cui bị xe
bộ đội chạy loạn đụng gãy
chân mặt. Hắn phải mang băng bột cả
tháng. Lúc nào xê dịch cũng phải chống
hai cây nạng gỗ. Hắn tức lắm ! Khi người
trong hẻm qua thăm, hắn thường cầm cây
nạng gõ vô ống băng bột cốp cốp,
để nói: “Mẹ bà nó ! Hồi
đó đánh giặc, tụi nó không bắn
được tôi bị thương. Bây giờ
yên rồi, tụi nó cũng ráng đụng
cho tôi gãy chân, tụi nó mới nghe !
Quân chó chết !".
Hồi còn ở
nhà thương, khi nhận hai cây nạng gỗ,
hắn cặp hai bên nách rồi chĩa thẳng về
phía trước như hai cây súng. Mắt hắn
trừng lên, hắn bắn bằng miệng: "Pằng
! Pằng ! Pằng ! Pằng !...". Cho... đỡ tức
! Sau đó, hắn gỡ bỏ hai gù cao su của
đầu nạng, để mỗi lần hắn chống
đi có tiếng côm cốp khô khan sắc
bén. Hay khi hắn nói chuyện, hắn gõ
đầu nạng xuống mặt gạch nghe cành cạch.
Cho... đỡ tức !
Hôm đi cắt
băng bột, Ba Cui nói với đôi nạng gỗ:
“Tụi bây chịu trận với tao bữa nay nữa
là... lễ tất !". Nào dè, sau khi cắt
băng, chân mặt bây giờ ngắn hơn
chân trái, mà chỗ xương gãy lại
cong cong, thành ra chân bị thương đó
bây giờ không còn chống chỏi mạnh
như xưa nữa. Hắn tức giận, quăng cặp
nạng vào góc tường, chửi lớn:
"Mẹ bà nó ! Gia tài có cặp
giò để đạp xích-lô mà bị
như vầy thì còn làm ăn khỉ gì
được ?”. Cô y tá nói nhỏ:
“Tại số anh xui. Hôm đó anh nhập viện
nhằm ca của ông bác sĩ ngoài
đó...”. Hắn lầm bầm: “Mẹ
bà nó !". Rồi lò cò lại góc
tường lượm đôi nạng lên chĩa
thẳng về phía trước, miệng bắn lớn:
"Pằng ! Pằng ! Pằng ! Pằng !...". Mà lần
này, hắn bắn đến ba bốn đợt
nhưng sao vẫn chưa nghe hả tức ! Bỗng hắn
thèm có khẩu M16 để hắn... ria một
hơi...
Về sau, Ba Cui sắm
thùng đồ nghề rồi ngày ngày đạp
xe ra góc đường gần Ủy Ban Nhân
Dân ngồi sửa xe đạp. Và lúc
nào cũng có đôi nạng gỗ, bây giờ
đầu dưới có bịt sắt ! Cho nó...
oai !
... Thầy Hai Khuê ở
khít vách Ba Cui, hồi thời trước
làm thơ ký kế toán cho một hãng
buôn ở Chợ Cũ, sau thời gian đổi nghề
đi đan mây tre chắc chịu không nổi
nên... bán nhà. Người chủ mới
là đàn bà, cỡ tuổi Ba Cui, con người
thanh tú, “coi được lắm”. Cô ta ở
một mình. Làm việc ở đâu không
biết, nhưng ngày nào cũng thấy đi thấy
về bằng chiếc xe Vélo-Solex. Vì vậy,
trong hẻm gọi cô ta là "cô Hai Sô-lết".
Cô Hai không giống
người trong xóm. Thời buổi này mà
cô ta vẫn ăn mặc như hồi đó, vẫn
áo dài màu in bông trang nhã quần
hàng trắng ống thon thon. Vẫn chút phấn
chút son chút dầu thơm loại "xịn".
Cho nên người trong xóm cũng ngại,
không muốn gần, mặc dầu thấy cô Hai
Sô-lết cũng dễ thương, gặp ai cũng
chào cũng hỏi. Riêng Ba Cui thì thẳng thừng:
"Con mẹ này... Tôi coi không vô !
Cái thứ đàn bà ở một mình
mà tối ngày son phấn... tôi nghi lắm".
Cho nên, gặp cô ta mấy lần mà hắn chẳng
hỏi thăm xã giao một tiếng. Chỉ gật
đầu lấy lệ rồi đi luôn !
Một buổi tối,
tên công an phường đi xe Honda tới nhà
cô Hai Sô-lết với một anh bạn. Họ
và cô Hai chào hỏi nhau, giọng điệu
chứng tỏ họ đã quen thân nhau từ
lâu. Ba Cui nằm trên ghế bố đặt ở
phòng khách - hắn ngủ ở đây cho
nó mát - nghe cái lối chào đón của
"con mẹ hàng xóm" mà phát
ghét. Hắn lầm bầm: "Mẹ bà nó
! Tao nói có sai đâu ! Cái thứ
này... xài không được !"
Bên kia, chắc họ
bày biện ăn uống ở ngoài sân
nên Ba Cui nghe rõ mồn một:
- Biết bà chị
neo đơn nên chúng tôi có mang đến
thịt quay và phá lấu đây này.
- Các anh bày vẽ.
Hồi trưa, ở cơ quan, em đã bảo đừng
mang gì hết. Em có bia nè. Em có tôm
khô củ kiệu nè. Em có cua rang muối
nè.
- Đấy ! Đồng
chí thấy không ? Tôi đã bảo
là chị Tâm chu đáo lắm mà đồng
chí không tin.
- Ấy ! Đây
là lần đầu, tớ cũng phải có
cái gì để ra mắt bà chị chứ !
- Mình là
người nhà với nhau hết, mấy anh đừng
khách sáo. Em không thích đâu.
- Vâng ! Thế
thì cho tôi xin bà chị. Lần sau sẽ
nghiêm túc hơn.
Nằm bên nây,
Ba Cui vừa lắng nghe vừa suy nghĩ: "Con mẹ
này ghê lắm chớ không phải vừa. Thằng
công an mà còn gọi bằng chị thì
không phải thứ cóc cắn đâu. Theo
cách nói chuyện của con mẻ thì con mẻ
vô ra cơ quan Nhà Nước như đi chợ.
Vậy là người của tụi nó rồi".
Nghĩ đến đó, hắn có ngay một
thái độ: “Mẹ bà nó ! Mình phải
coi chừng. Trong hẻm này toàn là dân ngụy
không mà con mẻ chen vô đây làm
gì ? Phải có ý đồ gì
đó ! Mình phải cho lối xóm biết mới
được”.
Sau đó, cứ
năm bảy hôm là cô Hai Sô-lết
có nấu nướng ăn nhậu với bọn
công an. Rồi công an kéo theo công an. Họ
nói năng cười cợt như chỗ không
người. Cả xóm đều biết. Cho nên
mọi người đều dè dặt lẩn
tránh cô Hai Sô-lết. Chỉ có Ba Cui
là làm ngược lại. Trước
đây, hắn không thèm chào một tiếng.
Bây giờ thì hắn nghĩ: "Mình phải
làm cho nó thấy là mình biết nó
là ai. Mình phải đương đầu với
nó để cho nó thấy rằng mình
không sợ nó, mặc dầu nó là
bà chằn hay ông kẹ gì gì. Mẹ
bà nó ! Phải như hồi đó, tao ria cho
một trận là chết cha hết !".
Cho nên, có
hôm, nghe Ba Cui nhái giọng nửa Bắc nửa
Nam của "tụi giải phóng" để hỏi
cô Hai Sô-lết - hỏi trổng:
- Thế nào ? Tốt
chứ !
- Dạ... Cám
ơn anh. Cũng tàm tạm.
- Chà... Dạo
này thấy... béo ra đấy !
- Em thấy em cũng vậy,
hà.
- Có chứ ! Cứ
ăn nhậu mãi là phì ra thôi !
Bỗng cô Hai
nhìn thẳng vào mắt Ba Cui, nghiêm giọng:
- Anh Ba à !
Mình ăn cây nào mình rào cây nấy,
chớ anh !
Hắn phun nước
miếng xuống đất, khoát tay rồi chống
nạng cành cạch đi vô nhà. Thiếu
chút nữa là hắn phun thẳng vào mặt
con mẹ hàng xóm đó ! Cho bõ ghét
!
Càng ngày,
cô Hai Sô-lết càng tiếp đãi "tụi
nó" thường hơn, đông hơn và
nhiều thành phần hơn. Có cả cán bộ
đến bằng xe hơi có tài xế nữa !
Ngoài việc ăn uống - hình như chủ
nhà có tài nấu nướng nên lúc
nào cũng nghe "thực khách" hết lời
khen ngợi thán phục - không biết họ
có... "làm gì" nữa không ? Ba Cui
nhiều lần cố ý rình nghe nhưng chẳng
thấy có gì khả nghi hết. Nhưng, đối
với Ba Cui, nguyên cái sự ăn uống cười
đùa thân mật thoải mái của “tụi
nó” cũng đủ làm cho hắn "tức
con mắt". Còn con mẹ hàng xóm thì
hắn dứt khoát: cái giống gì mà hắn...
hửi không vô ! "Cái giống"
đó cõng rắn cắn gà nhà, mở
ngõ đưa đường cho tụi ngoài
đó vô xâm chiếm thống trị miền
Nam rõ ràng mà nói là "đi giải
phóng". Mẹ bà nó !
Một đêm
đó, cũng gần khuya, trong lúc bên kia, hai
tên công an và gia chủ còn chuyện
trò, bên nây Ba Cui tắt đèn nằm
trên ghế bố nghĩ vẩn vơ chờ giấc
ngủ, thì nghe tiếng xe hơi chạy vào thắng
gấp trước nhà cô Hai. Hắn lẩm bẩm:
"Giờ này mà còn kéo tới nữa
! Thiệt... cái lũ này...". Nhưng sao
không có tiếng mở cửa đóng cửa
xe mà lại nghe có tiếng chân người
phóng xuống. Vậy là thuộc loại xe
"gíp" chớ không phải xe nhà. Lại
nghe tiếng súng khua và tiếng lên cò
lách cách. Ba Cui phóng nhanh lại cửa, lắng
tai nghe. Giọng quen thuộc của tên công an
phường vang lên:
- Này ! Các
đồng chí làm gì thế ?
Một giọng lạ,
nghiêm nghị:
- Hai đồng
chí hãy ngồi yên. Con này, đứng
vào góc tường kia !
Tiếng cô Hai la:
“Ối !”. Có vẻ đau. Tên công an la
lên:
- Này ! Nhẹ tay chứ
đồng chí. Có vấn đề gì
thì ta hãy từ từ giải quyết. Loạn
à ?
- Ừ ! Loạn ngay trong
phường của đồng chí mà đồng
chí còn hỏi nữa à ? Đồng chí
hãy ngồi xuống ! Còn con này, quay mặt
vào tường, đứng yên ! Không, tao bắn
nát óc !
Rồi ra lịnh cho
đồng bọn vào lục soát trong nhà xem
"có tên nào ẩn nấp trong ấy hay
có cất giấu vũ khí không" và
"phải cảnh giác".
Không khí bên
đó có vẻ căng thẳng. Tên công an thấp giọng:
- Chị Tâm đây là người của
Thành ủy. Chắc đồng chí lầm người
rồi.
Không nghe trả lời. Ba Cui đoán bọn
mới tới là bộ đội và "thằng
xếp" này có vẻ coi thường hai
tên công an.
Một lúc sau, nghe:
- Báo cáo đồng chí: không
phát hiện gì cả.
- Tốt ! Hai đồng chí ra ngoài.
Im lặng. Rồi lại nghe giọng "thằng xếp":
- Các đồng chí có biết con
này là ai không ?
Ngừng một chút. Chừng như để
cho câu nói tiếp theo có hiệu lực
hơn, bởi vì "thằng xếp" gằn từng
tiếng:
- Người ta biết nó là Trần thị
Tâm, nhưng tên thật của nó là Nguyễn
Kim Hoa. Nó được bọn ngụy cài
vào hàng ngũ của ta từ ngày giải
phóng. Chính nó bao lâu nay bí mật
đưa tin cho lũ phản động đang ẩn nấp
ở vùng biên giới để chống phá
cách mạng. Ác ôn như thế đấy !
Lại ngừng một chút, rồi tiếp:
- Bây giờ thì hai đồng chí về
đi, để chúng tôi xử lý vụ
này. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện
sau.
Một lúc, có tiếng Honda của bọn
công an rồ máy rồi chạy ra ngõ. "Thằng
xếp" ra lịnh:
- Con này ! Đi ngay !
- Anh cũng phải để tôi dọn dẹp
mấy thứ này vô nhà rồi tắt
đèn đóng cửa chớ !
- Ừ ! Nhưng khẩn trương lên !
Bên này, Ba Cui chống hai tay lên cửa,
đầu gục xuống. Hắn cắn môi kềm
xúc động. Hắn nghe ân hận vô
cùng: "Cô Hai là người của
mình mà lâu nay mình khinh miệt cổ
như đồ phản quốc ! Còn đòi phun
nước miếng vào mặt cổ nữa ! Mẹ
bà nó ! Mình tệ quá ! Bây giờ
làm sao xin lỗi cổ đây ?”. Trong đầu
hắn bỗng hiện lên hình ảnh của
cô Hai Sô-lết. Bây giờ, sao hắn thấy
cô Hai đẹp quá, cao cả quá, rắn rỏi
quá. Cô vẫn giữ nguyên nét ngụy, từ
cái áo cái quần tới chút phấn
chút son. Cô vẫn tự trọng chớ không
làm ra vẻ lam lũ theo... thời trang cách mạng.
Cô đáng phục quá ! Bây giờ mới
hiểu câu nói “ăn cây nào mình
rào cây nấy" của cô Hai. Phải rồi.
Cô phải "rào" cho kỹ để
rút tỉa tin tức cần thiết cho "Kháng
Chiến Phục Quốc", vậy mà mình
đã nghĩ rằng cô là phường bợ
đỡ chánh quyền ! Thiệt là bậy !
Bên kia, giọng cô Hai Sô-lết nghe rất
bình tĩnh:
- Rồi. Tôi xong rồi.
- Mang gì thế kia ?
- Bao quần áo, bàn chải đánh
răng, khăn, lược. Nè ! Anh xét đi !
- Thôi ! Được ! Lên xe !
Xe rồ máy, sang số de rồi lùi ra hẻm.
Bên nây, Ba Cui bỏ tay xuống, lắc đầu
thở dài. Bỗng, một tiếng nổ chát
chúa, tiếp theo là tiếng xe đụng
vào tường rào rầm rầm rầm rồi
im. Ba Cui giựt mình, đứng thẳng người
lên, lắng tai nghe. Tiếng người xôn xao
ngoài hẻm:
- Xe bộ đội nổ ! Xe bộ đội nổ
!
- Nó đụng tường rào nhà
bác Năm !
- Có ai sao không ?
- Có ai bị gì không ?
- Anh chị Năm với mấy đứa nhỏ
có sao không ?
- Không ! Không có sao ! Tụi này
đang ngủ trong nhà.
Ba Cui định mở cửa chạy ra coi nhưng
nghĩ lại :" Trong hẻm nầy, chỉ có
mình mình là lính ngụy. đứng xớ
rớ ở đó nguy hiểm ." Bên ngoài
vẫn nghe xôn xao :
- Đứa nào chạy kêu công an coi
bây ! Trời ơi !
- Lấy đèn pin rọi coi !
- Rọi đây nè ! Mầy rọi ở
đâu vậy ?
- Sao không thấy ai nhúc nhích hết vầy
nè !
- Thấy ghê quá !
- Mầy rọi vô giữa coi ! Cứ ria ria
ngoài nầy thì thấy khỉ gì được.
Thằng... nhát gan quá mậy !
- Đưa đèn đây tao rọi coi.
- Trời ơi ! Cô Hai Sô-lết chết banh
xác trong nầy nè !
Ba Cui bỗng thở hắt ra, gục đầu
vào tường, không nghe rõ gì gì nữa.
Làm như tiếng nổ vừa rồi làm cho hắn
lùng bùng lỗ tai. Kinh nghiệm chiến trường
cho hắn biết đó là tiếng nổ của
lựu đạn, loại lựu đạn mà hồi
thời còn "đánh giặc chết bỏ"
hắn vẫn thường dùng để diệt
địch. Bây giờ, cô Hai đã dùng
nó để nói lên tiếng nói cuối
cùng. Một-tiếng-nói-cuối-cùng...
Hình ảnh cô Hai Sô-lết lại hiện
về trong đầu Ba Cui, thật rõ, thật đẹp,
nhưng thật hiên ngang, thật oai hùng, thật
vĩ đại. Trong bóng tối, hắn bỗng
đứng nghiêm, trịnh trọng đưa tay
lên trán chào. Xưa nay, hắn không biết
khóc. Vậy mà bây giờ hắn bật
khóc ! Không biết nước mắt ở
đâu mà tuôn ra nhiều như vậy ?
Mặc dầu một chân ngắn một
chân dài, Ba Cui vẫn đứng thẳng, trong
tư thế chào vĩnh biệt người đồng
đội vừa tử trận, đứng lâu thật
lâu...
TIỂU TỬ
(Sưu Tầm Liên Mạng)