XIN CHÚC TIẾNG
CƯỜI
(Trà Lũ)
Các sinh hoạt làng chúng
tôi đã thành nếp. Cứ đầu năm tây là
mừng tết dương lịch, cứ tháng Tư
là mừng lễ Chúa Phục Sinh và lễ Phật
Đản, tháng Năm ngày Hiền Mẫu,
tháng Sáu ngày Hiền Phụ, tháng Bảy
lễ Vu Lan, tháng Mười lễ Tạ Ơn,
tháng 12 lễ Giáng Sinh, tháng Chạp cúng
ông Táo và ăn Tết. Cả làng ai cũng
thuộc lịch này, và đều biết mừng
lễ ra sao, tại đâu và ai là chủ lễ.
Và sôi nổi nhất bao giờ
cũng là lễ cúng ông Táo. Các cụ có biết tại
sao không ?
Thưa, vì là ngày hội viên viễn
cư Từ Hoè về làng ăn
tết. Các cụ nhớ ông Từ Hoè chứ,
cái ông có cuộc sống như huyền thoại,
cái ông trước 1975 đánh nhau với VC bắt
được chú chính uỷ, sau 1975 thì
chú chính uỷ mở mắt rồi cùng
ông vượt biên, hai người kết nghĩa
anh em ấy mà. Cái ông ban đầu sống ở
Totronto với làng nhậu, rồi khi chú em kết
nghĩa được Canada
nhận và cho định cư ở miền tây Canada
thì ông bỏ làng đi sang đoàn tụ
với chú ấy mà. Ông bỏ
làng ra đi nhưng hứa mỗi tết mỗi về.
Ông đã giữ lời hứa.
Bà Cụ B.95 mê ông như điếu
đổ. Bà cụ cứ nhắc hoài
: Ông Từ Hoè mà kể chuyện
thì con rắn trong lỗ cũng phải bò ra. Thế mà đã hơn hai chục năm
rồi đó. Bà cụ còn chuyền
cái lòng ái mộ này sang cho hai cô hội
viên mới xứ Huế nữa mới kinh chứ.
Đúng như giao ước,
ông Từ Hoè đã về làng ngày
23 tháng Chạp, ngày cúng ông Táo. Mấy năm trước ông về
tay không. Năm nay
ông mang về một túi xách nặng, qùa
tết của chú em cựu chính uỷ, bây giờ
có tên Canada
là chú Paul.
Các cụ có đoán được
túi qùa này món gì không
? Chú Paul này giống y như
ông Từ Hoè. Đời
chú cũng huyền thoại. Chú
và gia đình nhập đạo Công
Giáo, ông Từ Hoè đỡ đầu.
Trong tuần thì vợ chồng chú
đi làm, cuối tuần thì làm việc thiện
nguyện cho nhà thờ. Hình
như tôi có kể chuyện này rồi
mà. Nhà thờ của chú mở
cửa cho người homeless vào ngủ đêm.
Việc của chú là mỗi sáng thứ bảy
và chủ nhật tới đãi họ bánh
mì với cà phê. Ban đầu là
bánh mì quệt bơ, bánh
mì phó mát. Rồi chuyển sang bánh
mì giò chả, rồi xôi vò, rồi dịp
tết này là bánh chưng
chấm mật. Trước đây chỉ có mấy
chục người homeless ăn sáng với chú,
nay thì cả ông cha xứ cả mấy dì
phước cũng tới xin ăn, vui quá thể.
Theo ông Từ Hoè thì
cái chú Paul này nấu ăn giỏi lắm. Tết này chú nấu hai
thùng bánh chưng. Thùng thứ nhất đãi các
người bạn homeless. Thùng thứ
hai gửi tết dân làng chúng tôi.
Cái túi nặng ông Từ Hoè mang theo là túi bánh chưng đấy,
các cụ ạ. Thật là quý hóa.
Bánh chưng được
bày lên bàn thờ cúng ông Táo
ngay. Sau lễ cúng là dân
làng mang của lễ xuống nhậu. Cụ
Chánh và Cụ B.95 là người cứ thắc
thỏm muốn được ăn bánh chưng của chú Paul ngay vì muốn
nếm cái hương vị bánh chưng Hà
Nội sau này ra sao.
Chị Ba Biên Hoà và cô
Huế Cao Xuân định dùng dao cắt bánh,
ông Từ Hoè ngăn lại ngay. Cái phép cắt bánh chưng cổ truyền là phải
dùng chính dây lạt cột đồng
bánh mà cắt, và phải cắt chéo
xuyên tâm chứ không cắt vuông góc
như lối cắt bánh Canada. Ông Từ
Hoè mang theo cả mật, bánh
chưng chấm mật mới thật lối Bắc kỳ,
ông bảo thế. Cụ Chánh ăn xong miếng
bánh thứ nhất đã gật gù
: Ngon tuyệt ! Đúng truyền thống Bắc
Kỳ. Ông Từ Hoè kể :
Chính tôi tiếp tay gói bánh chưng với
vợ chồng chú. Công phu lắm.
Nào ngâm gạo bằng nước luộc lá
dứa cho thơm. Nào
thịt heo phải là thịt đùi, có da
có mỡ có thịt, ướp với hành củ
giã nát, tiêu, muối và chút xíu
bột ngọt. Nào nhân đậu
xanh phải xôi chín từ trước. Nào gói bằng lá giong từ VN gửi
qua, chứ không phải lá chuối. Nào cột bánh bằng dây lạt.
Nào phải nấu bằng bếp ga
để ngọn lửa cháy đều. Chú nấu những 8 tiếng đồng rồi
mới vớt bánh ra, bởi vậy hạt nếp,
đậu, thịt, gia vị quyện lấy nhau. Ăn miếng bánh mà như ăn
quê hương vào lòng.
Ai cũng được ông Từ
Hoè tặng một chiếc bánh đem về. Hai cô Tôn Nữ và Cao
Xuân sung sướng quá chừng. Cô Cao
Xuân nói nhỏ vào tai tôi :
Người đâu mà ngộ dữ tề !
Tôi đáp lại : Rồi
cô coi, cái ông Từ Hoè này còn
nhiều thứ ngộ hơn nữa.
Theo đúng truyền thống,
ông Từ Hoè ở tại nhà cụ
Chánh. Ông ở
đây để chuẩn bị bữa ăn
ngày đầu năm. Ai cũng đang hồi
hộp. Xưa nay, ông là đầu bếp
chính cho bữa ăn Mồng Một.
Năm con nào thì nhậu con đó. Năm gà thì nhậu gà, năm rắn
thì nhậu rắn, năm con heo tất nhiên
là nhậu heo rồi, nhưng dân làng muốn
biết ông sẽ nấu món heo nào.
Ông Từ Hoè cười ha ha rồi tuyên bố : Bí mật ! Dân
làng đành chờ vậy.
Ngày mồng một, dân làng cúng
bái tổ tiên và ăn tết ở nhà với
gia đình, buổi chiều mới xuất hành
đến nhà Cụ Chánh để tết
tiên chỉ và họp làng. Ông Từ
Hoè đã có sáng kiến lập bàn
thờ tổ, trên bài vị viết đủ
tên gia tộc cả làng. Tôi thấy
Cụ B.95 cầm que hương mà nước mắt
lưng tròng. Chị Ba Biên Hòa mắt cũng
đỏ hoe.
Sau phần nghi lễ là tiệc mừng. Các cụ biết ông chủ tiệc
Từ Hoè làm món gì không
? Thưa món ‘giò heo nấu
giả cầy’. Ông bảo
món này là một tổng hợp vừa tiễn
năm Tuất vừa đón năm Hợi. Thịt
heo rõ ràng nha, vừa trong món giả cầy,
vừa trong nhân đồng bánh chưng.
Ông này thật khéo vậy
đó. Đúng là ngộ dữ tề !
Sau bữa ăn là phần
văn nghệ Tết.
Người viễn cư Từ
Hoè được mời đầu tiên. Ông phát biểu rằng mỗi
lần về làng ăn tết,
là mỗi lần ông nhớ quê hương
vô cùng. Vừa mới đây ông được
xem cuốn DVD Asia 52 với chủ đề Huyền thoại
Lê Minh Bằng, ông thích cuốn này
quá vì nó đưa ông về quê
hương, đưa ông về những ngày
tháng cũ, đưa ông ra Bắc, ra Trung rồi
vào Nam. Ba Nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ
và Anh Bằng quả là ba bậc kỳ tài.
Bốn MC dẫn chương trình Nam Lộc, Việt
Dzũng, Leyna Nguyễn và Trịnh Hội quả
là duyên dáng. Các nghệ sĩ
trình diễn quả là xuất sắc.
Bài ‘Đêm nguyện cầu’ kết
thúc chương trình hay tuyệt vời và
ý nghĩa hết sức. Xưa nay ông chưa bao
giờ thấy một cuốn âm nhạc nào hay
như vậy.
Dân làng ai cũng gật đầu
đồng ý vì ai cũng đã coi cuốn Asia này, và ai cũng thấy
bóng dáng quê hương mình trong
đó. Bà Cụ
B.95 cất tiếng trêu anh John : Anh
có thấy quê hương mình trong đó
không ? Anh John này cũng dí dỏm kinh lắm,
bèn trả lời ngay : Có chứ.
Cháu thấy quê vợ cháu nhiều
lắm. Vợ chồng cháu là
một mà. Các cụ thấy kinh chưa !
Rồi cụ Chánh chỉ vào tôi
: Lão thấy không ai sung sướng bằng
ông Trà Lũ vì ông và nhạc sĩ
Anh Bằng cùng quê đấy. Sinh
quán hai ông gần Cửa Thần Phù lịch
sử cơ mà. Tôi bèn lên tiếng : Chỉ nhạc sĩ Anh Bằng
là tài hoa và xuất chúng thôi. Cửa Thần Phù chỉ có ba bồ
tài hoa thì ông Anh Bằng của tôi chiếm
mất hai bồ rồi, tôi chỉ được một
đấu nhỏ.
Và tôi chuyền trái banh lại
cho ông Từ Hoè.
Ông này nhắm ngay anh John mà hỏi
: Anh học tiếng Việt đã bao năm,
đọc bao nhiêu là sách vở, ai cũng
khen anh giỏi tiếng Việt, vậy nay nhân
ngày đầu năm, anh thử nói sơ sơ
xem tiếng Việt tuyệt vời ở những chỗ
nào. Phải xin anh nói là vì
chúng tôi trong cuộc, nhiều khi không
nhìn thấy.
Anh John thích câu hỏi này
qúa vì hình như nó gõ đúng
cái tủ ngôn ngữ của anh. Anh trả lời ngay :
Tôi có thể nói về đề tài
này một tháng không hết. Cụ
B.95 đây, mỗi lần họp làng là mỗi
lần cụ bắt tôi kể, và lần nào
tôi cũng mới chỉ nói được một
chút xíu. Cái đẹp của
ngôn ngữ VN là một đề tài mênh
mông, vậy xin cho tôi nhớ gì nói nấy.
Cũng xin dân làng góp thêm
ý với tôi nha. Rồi Anh John kể
:
Vừa đây tôi đọc về nhà
thơ tiền chiến Thế Lữ, thơ văn của
ông thì hay qúa sức, điều này
đã rõ rồi, mà ngay cái bút hiệu
Lê Ta mà ông dùng cho các bài tạp
văn, cũng hay đáo để. Trên một tờ
báo tết, ông tự nói về tên
mình như sau:
Thế Lữ mừng xuân hai thứ
lễ
Một quả lê
tây, một quả lê ta.
Ông đem trái lê vào
câu thơ để làm kế hoả mù chứ
sao lại có trái cây lê ở chỗ
này. Nhưng một
độc giả thông thái đã phá
được hỏa mù, giải rằng
: Ta là tôi, tiếng Hán tôi là
Ngã. Lê Ta tức là Lê Ngã, mà
đánh vần ‘lê ngã’ thành Lễ.
Tên khai sinh của ông là Lễ, Nguyễn Thứ
Lễ mà. Hóm hỉnh chứ.
Anh John nói tiếp : cái
độc đáo của câu tiếng Việt
này không thể dịch sang tiếng Anh được.
Cũng như đôi câu đối của ông
Siêu và ông Quát hay vô cùng, mà
không cách gì chuyển được cái
hay đó cho người nói tiếng Anh và tiếng
Pháp.
Chuyện ông Siêu ông Quát như vầy : Bữa đó ông đồ
trẻ Lê Văn Siêu đang ngồi trên
chõng tre dạy học ngoài đình làng,
chú bé Cao Bá Quát nhà nghèo
không có tiền đi học, chú đứng ở
ngoài cửa nhìn vào. Thày Quát đọc
được nét thèm thuồng trong đôi mắt
chú bé, thày liền ra vế đối, hẹn
rằng em mà đối được thì
thày sẽ cho em vào học miễn phí
:
Tiên sinh tọa tịch thượng,
cót chi két, két chi cót, cót cót
két két.
Cậu bé Quát đối lại ngay :
Tiểu tử nhập
đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn
thẩn thơ thơ.
Vế ra và vế đối thật hay quá
chừng. Mấy tiếng đầu là chữ
Hán, còn những tiếng sau là tiếng VN thuần
túy : Thày giáo ngồi
trên chiếu, cái chõng kêu kót
két. Kót két là tiếng tượng thanh,
lặp đi lặp lại, nói lên cái
chõng ọp ẹp, hay tuyệt diệu. Và vế đối : Cậu bé vào trong
đình, nét mắt thẩn thơ. Thẩn thơ
là tiếng tượng hình, lặp đi lặp
lại, nói lên cái ngẩn ngơ, hay thần
sầu.
Cu B.95 ngồi nghe không nhúc
nhích vì thích quá sức. Cả đời cụ
chưa hề được nghe những sự lạ
như thế bao giờ.
Ông ODP phụ hoạ : Nhân nói tới
tượng thanh, tôi liền nhớ tới Ông
Lê Văn. Ông là một chuyên gia kỳ cựu
của đài Tiếng Nói Hoa Hỳ VOA trước
đây, ông cũng là tác giả cuốn
‘Rượu Vang, Món qùa của Thượng
Đế’ một sách biên khảo công phu
mới xuất bản. Tên tác giả,
Lê Văn, đọc lên nghe mài mại như
‘"Le Vin" trong Pháp văn. Le Vin nghĩa là rượu. Rõ
ràng Lê Văn là tên tượng thanh,
là tên tiền định, số của ông
là số uống rượu rõ ràng. Rồi
ông ODP cười hi hi : Con người
ta ai cũng có số cả ! Ông
có số rượu là nhất thế gian rồi.
Thấy Anh John như ngưng lại, Cụ
B.95 và hai cô Huế lên tiếng đòi anh
John nói nữa. Anh tiếp ngay. Rằng tiếng
tượng thanh trong văn chương VN nhiều lắm.
Chẳng hạn 4 câu thơ lục bát này :
Đương khi lửa tắt cơm
sôi,
Lợn kêu, con khóc, chồng
đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã
nhóm lên,
Lợn no, con
nín, tòm tem thì tòm
Đây là một
bức tranh quê tuyệt đẹp. Bốn câu
thơ vẽ ra cảnh đôi vợ chồng trẻ,
mới có một tí nhau và nuôi một con
lợn trong bếp. Cô vợ vừa bế con vừa nấu
cơm vừa nấu cám cho lợn. Chắc bếp lửa
làm gò má cô vợ đỏ hây
hây, gái một con mà, anh chồng thấy vợ
đẹp quá bèn tặc lưỡi đòi
yêu, bất chấp đứa con, bất chấp nồi
cơm, nồi cám.
Tiếng
‘tòm’ là tiếng tượng thanh, đắc
địa quá, nó cực tả cái hành
động vợ chồng yêu nhau. Tôi nghĩ
nát óc mà không thể dịch sang tiếng
Anh được. Sao lại tòm tem, sao lại
tòm. Các ngài giúp tôi với.
Lúc này
ông H.O. mới lên tiếng : Anh là tổ sư
mà còn chịu thì bọn tôi giúp
gì được. Mà này, tiếng Tòm
anh vừa khen đó có làm anh nhớ tới
một tiếng khác trong câu thơ cũng diễn
tả cái việc ấy không ? Tiếng ‘Vẽ
xằng’ ấy mà.
Anh John lên tiếng
xin chịu vì còn dốt về văn
chương VN lắm. Anh chưa học tới chữ Vẽ
Xằng. Phe các bà nghe đề tài này hấp
dẫn bèn xin Ông H.O. kể. Các cụ thấy
chưa, phe các bà mê chuyện ‘ấy’
lắm nha, mà bề ngoài thì cứ em chả,
em chả.
Nói về đề
tài này thì ông H.O. hào hứng lắm.
Ông kể : Có anh chàng kia thất tình
vì không lấy được cô gái
mình yêu. Cô là nạn nhân của tục
tảo hôn ngày xưa. Chắc cha mẹ cô
nghèo nên đã gả cô cho một thằng
bé con nhà giầu. Chàng thất tình
nói với cô gái :
Anh tiếc
thay hạt mưa trong rơi xuống đống bùn !
Anh tiếc
thay tờ giấy trắng để thằng bé cỏn
con nó vẽ xằng !
Hai câu thơ gợi
cho ta hình ảnh một thằng cu con, chưa nên
cơm cháo gì. Nó là đống bùn
mà. Nó chả biết việc ‘tòm’.
Mà em thì mơn mởn đào tơ, là hạt
mưa trong, là tờ giấy trắng. Thật tiếc
lắm thay, tờ giấy trắng đẹp đẽ
như em mà để thằng cu toàn vẽ xằng.
Còn anh đây nè, anh đây mới biết
vẽ ra bài ra bản, ra hình, em ơi.
Hai tiếng ‘vẽ
xằng’ tượng hình này thì anh dịch
ra Anh văn làm sao ?
Thấy anh John lại
lắc đầu xin chịu. Ông Từ Hoè
không muốn anh John vào ngõ bí, liền mở
lối : Thôi, ngày tết ta nói chuyện
tượng thanh tượng hình, chuyện tòm
và vẽ vạch như vậy đủ rồi.
Tôi là người ở xa, lâu lắm
không được nghe anh John nói chuyện.
Bây giờ hỏi thật nha : anh đọc sách
VN nhiều, anh thấy đoạn sách nào tả
về sắc đẹp của các cô gái VN
mà anh cho là hay nhất, xin kể cho nghe. Xin anh cứ
nói thoải mái, vì bữa nay ngày tết,
Chị Ba hỉ xả hết.
Thấy cả
làng vô tay râm ran về lời xin tha thiết
này, anh John như được thêm hứng, liền
thưa : Tôi thấy bài thơ sau đây
là tả hay nhất và đúng nhất
cô gái miền Nam
Gái Cần
Thơ Vĩnh Long
Đất gạo
trắng nước trong
Người
mơn mởn như xoài
Da trắng
như bông bưởi
Mắt đen
như hạt nhãn
Tóc
thơm như hoa cau
Đọc đến
đây tự nhiên tắc, anh vỗ trán nghĩ
hoài mà không đọc tiếp được.
Cả làng liền vỗ tay để đưa anh khỏi
cơn bối rối. Như để cứu chồng, chị
Ba Biên Hòa lên tiếng ngay : Thế còn
cô gái Bắc Kỳ đẹp ra sao, hả anh ?
Nghe mùi quá chứ, phải không các cụ.
Được vợ tiếp sức, anh John trả lời
ngay : Tôi thấy sách vở ca tụng người
đẹp đất Bắc thế này :
Khăn vấn
bỏ đuôi gà
Áo tứ
thân ôm sát vòng eo
Em nhai trầu
hồng môi hồng má
Đôi mắt
bồ câu, da trứng gà bóc
Bàn tay
búp măng
Giọng oanh
vàng thỏ thẻ
Dáng
đi sen vàng lãng đãng ..
Cụ B.95 vỗ tay to nhất. Cụ
bảo : đúng thế, gái Bắc
Kỳ có vấn khăn có nhai trầu. Rồi như chợt nhớ ra một việc
quan trọng không thể thiếu mỗi lần cụ
gặp anh John. Cụ hỏi :
À mà này, còn tin thời sự cuối
năm thì sao, anh John ?
Ông ODP liền lên tiếng :
hôm nay làng ta đã bắt anh John nói nhiều
rồi, tôi xin làm việc này thay. Chuyện thời sự còn nóng và
đang được mọi người nói tới
là hội nghị APEC ở Hà Nội và Tổng
thống Bush đi dự. Chuyện
ông Bush mặc áo gấm xanh và họp
báo cho biết con gái Thủ Tuớng VN lấy vợ
Việt Kiều ở Mỹ, những chuyện này ai
cũng biết cả rồi. Tôi thấy
có chuyện vui bên lề xin trình bà con.
Đó là các tờ báo tiếng
Tàu gọi tên các chính khách đọc
lên nghe rất buồn cười. Chẳng hạn : tên tổng thống George Bush
đọc là Kiều Thị Bố Thập,
đàn ông mà có chữ THỊ nha. Đệ
nhất phu nhân Laura Bush thì đọc là Lao Lạp
Bố Thập, nghe như lao đao
vì lạp xưởng. Tên Tổng thống
Clinton
được phát âm là Kha Lâm Đốn,
cái này tạm đúng vì tổng thống
dính với dì Monica thì đốn thật.
Tên hai đại học danh tiếng Hoa Kỳ, Yale
và Havard, thì đọc là Da Lỗ và
Cáp Phật. Các trường này giầu
có chứ có bị lỗ, có bị cáp
duồn gì đâu. Quân Mỹ đánh nhau ở
Iraq, tên Iraq
đọc là Y Lạp Khắc. Quân Mỹ có ăn lạp xưởng bao giờ...
Cụ B.95 lại cười như nắc
nẻ. Cụ bảo : Chả lẽ cái tai của
người Tàu kém vậy sao. Thế thì thua
cả cán bộ VN. Tôi nghe ngày trước,
tên nước Iran
và Iraq
được một số quan cán bộ đọc
là nước Một Răng và Một Rắc ! Dầu sao đọc
như thế thì chỉ sai có một nửa.
Tai VN vẫn hơn tai Tàu.
Để cho cả làng cười
xong, ông Từ Hoè lại lên tiếng. Ông lại chiếu
tướng Anh John. Ông hỏi anh
đã đọc Truyện Kiều chưa. Anh thưa là chưa thì ông lắc lắc
cái đầu. Ông bảo anh
đã là người VN đến 90 % thì phải
đọc Kiều chứ. Rồi ông mang Phạm
Quỳnh và Truyện Kiều ngày xưa ra diễn
thuyết ...
Rằng xưa nay chưa thấy ai ca ngợi Truyện
Kiều hay bằng Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh
là ai cơ ? Thưa
là một nhân vật lẫy lừng trong lịch
sử, lịch sử chính trị cũng như lịch
sử văn học. Ông tinh
thông Pháp văn và Hán Văn, viết bao
nhiêu bài gía trị trên báo
Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong.
Ông sang Pháp diễn thuyết nhiều nơi
mà nơi nào giới trí thức Pháp cũng
nhất loạt đứng lên vỗ tay
bao nhiêu lần. Một con người uy tín
như thế mà đã hết lời ca ngợi
Nguyễn Du và Truyện Kiều thì phải hiểu
đây là sự thật, không phải ngoa
ngôn.
Phạm Quỳnh viết như thế này
:
- Truyện Kiều vừa là Kinh, vừa là
Truyện, vừa là Thánh Thư của dân tộc...
- Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng
ta còn, nước ta còn...
- Truyện Kiều có một
cái đặc sắc mà những kiệt tác
trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy
là sự phổ thông. Người Pháp
không phải ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là
đọc văn Bossuet. Còn người Nam thì
ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, lẩy
Kiều. Kẻ thông minh hiểu cách thâm
trầm, người tầm thường hiểu cách
thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều
lấy làm vui tai, sướng miệng,
khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim
Đông Tây có áng văn chương
nào cảm được người sâu và
rộng như thế chưa ?...
Ông Từ Hoè nói đến đây
rồi thúc dục : Anh John đọc
Kiều ngay đi nha.
Ông ODP cười hà hà rồi góp ý : Xin đố quý vị nhờ
đâu mà Cụ Nguyễn Du viết văn
chương Truyện Kiều trác tuyệt như vậy
? Đa số dân làng cho rằng do cái
trí thông minh bẩm sinh. Ông ODP lắc đầu
rồi lại cười hà hà :
Không phải ! Quý vị nên nhớ là Cụ
Nguyễn Du gốc người Hà Tĩnh miền Trung
nha, mà ngôn ngữ Truyện Kiều thì
rõ ràng là ngôn ngữ Bắc Kỳ nha. Bởi
đâu mà Cụ Nguyễn Du nói và viết
tiếng Bắc Kỳ hay như vậy ?
Thưa, là bởi nhờ bà vợ
thứ thất gốc Thái Bình. Khi về trí sĩ, cụ sống với
bà số hai ở miền châu thổ sông Hồng
Hà này và đã viết ra Truyện Kiều.
Bà Hai đã truyền cái vốn
Bắc Kỳ cho Nguyễn Du. Truyền cách nào
và lúc nào thì tôi nghĩ mãi
chưa ra. Nói đến đây
thì ông ODP ngưng lại, nhìn mọi người
rồi lại cười hà hà.
Cái ông ODP này gớm thật. Vui ngày tết có
khác.
Ông Từ Hoè phụ họa : Anh John nên
theo gương cụ Nguyễn Du, anh nên xin Chị Ba
cưới cho một cô vợ bé Bắc Kỳ,
theo chân Cụ Nguyễn Du đi ! Cam
đoan cái hơi vợ bé Bắc Kỳ sẽ
làm cái vốn tiếng Việt của anh nên
toàn bích
Cả làng cười ầm
lên. Cụ
B.95 thì cười ngặt nghẽo. Hai cô Huế thì vừa cười vừa
đấm Chị Ba Biên Hoà thùm thụp.
Cụ Chánh thấy cả làng vui cười
như vậy thì tỏ ra sung sướng lắm. Cụ bảo ngày tết mà cuời vui
như thế thì năm Đinh Hợi này sẽ
hên cả năm. Lão nhớ ông Tây
Bertrand Russel đã nói một câu chí lý : ‘Tiếng cười là một
thần dược, rẻ vô cùng nhưng lại
hiệu nghiệm vô cùng’. Ông Mỹ cũng
nói như vậy : ‘Laughter is the
best medicine’. Còn ông bà VN ta cũng nói
y như thế nhưng nói trước ông Tây
ông Mỹ cả ngàn năm: ‘Một tiếng
cười bằng mười thang thuốc bổ’. Đúng vậy. Tiếng cười
làm tan biến mọi ư u phiền, mang lại sức
khoẻ cả tinh thần cả vật chất, tăng
thêm tình thân ái đoàn kết,
làm cho ta yêu đời...
Chúng ta hãy chúc cho nhau
năm mới đầy tiếng cười.
TRÀ LŨ
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)