Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | TA.P GHI | TA.P GHI (tt) | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | CHUYÊ.N LA. KHÓ TIN | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | SU'U TÂ`M .. TÊ'U | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | SU'U TÂ`M .. TIN | NU. CU'̉'I VA(N HO.C | P.P. Slideshow
BÀI VIÊ'T 1

TIẾNG KHÓC TỪ TẬN CÙNG TRÁI TIM

 

TIẾNG KHÓC TỪ TẬN CÙNG TRÁI TIM

Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự - Số 193

(Văn Quang)

 

 

Ngày 15 tháng 1 năm 2007, giữa trời nắng chang chang, trên 4 chiếc xe gắn máy, chúng tôi phóng trên con đường số 5 thuộc làng Thương Phế Binh Thủ Đức. (Đó là cái tên những người “Sài Gòn xưa” thường gọi cho đến nay. Thực ra, bây giờ theo tên gọi mới, người ta gọi là Phường Phước Bình, Quận 9 - TP. Sài Gòn). Anh Giáo dẫn đường, anh là người được anh em vẫn gọi là “Trưởng làng Thương binh” (thuộc QĐVNCH), dù không cần bầu bán gì, chỉ vì anh thường “ăn cơm nhà vác ngà voi”, đứng ra lo toan mọi công việc, tận tụy giúp đỡ những anh em Thương Phế Binh (TPB) nghèo khó hơn anh. Anh tự coi như đó là một bổn phận của mình từ gần 30 năm nay.

 

Chúng tôi gồm 7 người, lúc này tôi ngồi đằng sau xe anh Giáo, Hàm Anh ngồi sau xe anh thương binh một giò Trần Văn Bảo, một Việt kiều từ Canada về - cô Khánh Vân- ngồi sau xe anh thương binh Đào Vĩnh Ký, cụt hai tay vẫn “hành nghề” lái xe ôm mà tôi đã có dịp tường trình với bạn đọc trong những số báo trước. Còn “công tử” Đoàn Dự thênh thang đi một mình, vì anh đã mất công chở tôi lên Làng Thương Binh, chạy lạc cả đường, “mệt phờ râu cáo”.

 

Ngay từ sáng sớm, sau khi đã đến một địa điểm ở giữa TP. Sài Gòn, tặng quà của Việt kiều ở Canada và ở Mỹ nhờ Thời Báo Canada -có ấn bản phát hành tại Mỹ- chuyển về giúp anh em Thương Phế Binh và người nghèo ở VN, chúng tôi đã đi Thủ Đức thăm một số anh em đau ốm, bệnh tật không thể đi được (tôi tường trình trong đoạn sau bài này). Chúng tôi đã đến vài ba gia đình thương binh nghèo. Những căn nhà cấp 4 cũ mèm, nhem nhuốc, chật chội; trong đó chứa những con người lầm than, cùng khổ từng ngày. Nhưng chưa có căn nhà nào “kỳ quái” như căn nhà mà chúng tôi vừa tới.

 

- Căn nhà “kỳ quái”

Nếu những căn nhà khác đông đúc, chật chội thì căn nhà nhà này lại vắng ngắt, suốt hai ba gian trước không một bóng người. Gọi là “gian nhà” cho có chữ mà gọi chứ quả thật nó đã chật hẹp lại tối om, quần áo đen đủi linh tinh treo bừa bãi bên mấy bức tường gạch cũ nham nhở nên trông không khác gì cái “hang chuột”.

 

Gian cuối cùng còn nhỏ hẹp, tối tăm, tàn tạ hơn. Nhưng tất cả những cảnh tàn tạ đó không thể bằng chính con người ở trong đó. Chúng tôi đứng sững lại trước hình ảnh một anh thương binh .. dường như không còn ra hình người. Trong bóng tối mơ hồ, toàn thân anh còng xuống, ngồi khòng khòng trên chiếc giường nhỏ, đầu tóc cắt ngắn lởm chởm, khuôn mặt méo xẹo, hai tay co quắp tật nguyền, một chân què cũng co rút lại. Trời quá nóng bức oi nồng, anh ở trần, bộ xương chỉ chực lòi ra dưới làn da nhăn nheo, cái quần đang mặc tụt xuống từ bao giờ, có lẽ anh biết, nhưng vẫn để mặc nó “tự do”, che được tới đâu hay tới đó.

 

Chúng tôi được biết, đây là nhà của anh Trần Văn Ngà, trước đây là quân nhân thuộc Tiểu đoàn 1, Trung Đoàn 12, Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Hồi anh nhập ngũ rồi bị thương, còn rất trẻ. Anh sinh năm 1946, như vậy anh nhập ngũ vào năm 1966 (20 tuổi). Suốt trong khoảng thời gian đó anh phục vụ trong những đơn vị chiến đấu cho đến khi bị thương khá nặng. Có một vết thương lớn trên đầu, không chết đã là may. Nhưng sau đó chân tay anh bị co rút lại và không nói được, dù anh biết hết những gì người xung quanh nói với anh.

 

- Tiếng rú từng chập trong tiếng khóc

Tôi phải đóng vai đại diện nói vài lời thay mặt cho độc giả Thời Báo chuyển tiền giúp đỡ của Việt kiều Canada và Mỹ đến với anh. Anh hiểu và gật nhẹ, cho đến khi Hàm Anh và cô Khánh Vân (Việt kiều Canada) cầm phong bì một triệu đồng trao cho anh. Anh há hốc mồm, muốn nói lời cảm ơn, nhưng không nói được. Cứ ập ọng mãi trong cổ họng, không thoát ra thành tiếng. Nỗi tức bực uất nghẹn khiến anh khóc rú lên. Tiếng rú vang động trong cái “hang sâu” này khiến chúng tôi bàng hoàng. Một cảm giác rợn người cùng với nỗi đau xé lòng. Chưa bao giờ tôi “được nghe” hay “phải nghe” tiếng rú dài cùng với tiếng khóc như thế. Có một cái gì đó xuyên thẳng từ trái tim này đến trái tim khác, rất rõ ràng. Không còn là cảm tưởng và cũng không còn là cảm xúc nữa, mà là nỗi đau của chính mình. Anh và chúng tôi cùng có một nỗi đau chung, cùng có một nỗi uất nghẹn như nhau. Nếu khóc được cùng nhau, chúng tôi đã khóc rồi. Chỉ có những giọt nước mắt lăn quanh những khuôn mặt quanh đây. Lúc này không khóc được mới là lạ. Bây giờ thì 8 người chúng tôi hòa làm một.

 

Cái “hang chuột” tràn ngập nỗi đau, tràn ngập tình thương yêu, chết lặng trong cảm xúc nghẹn ngào. Bàn tay tôi run, cô Việt kiều cũng thế và ngay cả đến anh thương binh cụt hai tay, cũng biết run.

 

Không phải chỉ một lần anh Ngà rú lên, mà từng đợt anh khóc như thế, có lẽ anh muốn nói với từng người trong chúng tôi một điều nào đó. Không chỉ là một lời cảm ơn những tấm lòng đồng bào, đồng đội đã nghĩ đến anh. Còn có một cái gì đó là sự tức tủi không thoát ra được. Còn có một cái gì đó như con thú hoang bị người thợ săn bỏ quên dưới hầm tối. Còn có một cái gì đó của trái tim điên cuồng vì bị cầm tù giữa căn nhà lạnh lẽo, giữa xã hội xô bồ ngoài kia… Anh biết hết và còn có thể coi được ti-vi, nhưng không nói được, như con người nằm dưới mộ sâu nhìn rõ cuộc sống trên kia, đấy mới là nỗi đau từ bao lâu nay, chìm sâu trong đáy tâm hồn. Thà rằng không biết cho xong !

 

Cho đến khi Hàm Anh ngồi dưới chân anh, nói với anh rằng “chúng tôi hiểu anh muốn nói gì rồi, xin đừng khóc nữa”. Anh gật đầu rồi nhìn tôi và có lẽ anh muốn nói lời từ giã. Nhưng rồi anh không kìm hãm được, anh lại bật rú lên với những dòng nước mắt đầm đìa. Thày giáo Đoàn Dự không chịu nổi, nói với tôi:

- Chúng ta về thôi anh ạ, để cho anh ấy nghỉ ngơi.

 

Cô Việt kiều dùng dằng “nửa ở nửa về”. Cô móc bóp, còn bao nhiêu tiền cô “vét” hết, đưa tặng anh. Cô đã tặng mỗi anh em Thương Binh cô gặp hôm nay, mỗi người 50 ngàn đồng VN. Tính ra cũng hơn 20 anh em rồi. Bây giờ còn bao nhiêu cô “móc sạch, đưa hết”. Nếu không ai mời, có lẽ cô không có cả tiền ăn cơm trưa.

 

- Dùng dằng nửa ở nửa về

Thật ra hầu như trong chúng tôi, dường như ai cũng không chịu nổi trước cảnh tượng thê thảm này. Ai cũng muốn rời khỏi chỗ này cho bớt đau. Nhưng chân vừa bước đi, song vẫn còn nấn ná không nỡ rời xa. Thế cho nên cái cảnh “biệt ly sao mà buồn thế” cứ tái diễn. Người trong cửa, người ngoài sân, rồi người ngoài sân lại vào trong cửa. Quanh quẩn mãi chẳng biết làm gì hơn được nữa. Trong lòng cứ rưng rưng, rộn lên một ý nghĩ làm thế nào cho anh bớt khổ cả một đời đây ? Sống thế này là một sự đày đọa, bất công quá sức tưởng tượng của con người !

 

Hơn mười hai giờ trưa chúng tôi mới lặng lẽ rời khỏi nhà anh. Nét đăm chiêu hiện rõ trên nét mặt từng người. Lúc đó anh Giáo mới cho biết, anh Ngà có vợ con, vợ đi mua bán phế liệu, hay nói cho rõ là đi nhặt rác, bới rác từ những bãi rác người ta vừa đổ. Nhặt từng bao ni lông, thu lượm tất cả những thứ gì người ta mới quăng đi, bất chấp nó có đủ thứ mùi, đủ thứ tanh tưởi, miễn là còn có thể tái chế để sử dụng được. Hai đứa con anh đi làm công nhân khuân vác, một cô con dâu nhận việc may đồ ở nhà hàng xóm để thỉnh thoảng chạy đi chạy về, săn sóc anh. Vài đứa cháu đi học, nên cái “hang” này thường vắng ngắt như nấm mồ hoang. Đôi khi anh Ngà phải bò ra ngoài đi vệ sinh, có lần nằm sõng soài ngoài trời vì quá mệt mỏi. Cho đến khi cô con dâu về mới dìu anh vào nhà.

 

Hình ảnh người thương binh cứ bám lấy tôi suốt những ngày qua. Lúc nào cũng như nhìn thấy anh, nghe tiếng khóc trong tiếng rú của anh văng vẳng, ngay cả khi tôi viết bài này để tường trình với bạn đọc.

 

Xin ghi lại địa chỉ của anh Trần Văn Ngà: 103 Đường 5, Phường Phước Bình, Quận 9, TP. Sài Gòn. Nếu có được sự giúp đỡ của bạn đọc, xin gửi thẳng về địa chỉ này, không phải qua bất cứ trung gian nào.

 

Bữa cơm trưa, chúng tôi ngồi cùng nhau trong một quán bình dân ngay tại làng Thương Binh này. Câu chuyện về anh Ngà vẫn chưa dứt. Tiếng khóc từ trong tận cùng trái tim người thương binh vẫn hòa chung đồng điệu với những người đến thăm anh hôm nay.

 

- “Hội đồng chuột”

Trở lại chuyện cũ, ngay sau khi cùng anh em trong tòa soạn báo Văn Nghệ Úc phát quà tặng đồng bào nghèo ở mấy xã thuộc huyện Lộc Ninh, tôi lại cấp tốc lên đường trở lại Sài Gòn để họp “hội đồng chuột” về việc tặng quà của độc giả Thời Báo Canada và Mỹ cho anh em Thương Phế Binh ở Sài Gòn và những nơi khác. Đúng là “hội đồng chuột” vì năm sáu anh em chúng tôi gặp nhau trong một căn phòng tổ chim, nói chuyện vừa đủ nghe nhưng bàn cãi cũng rất hăng.

 

Việc phát quà không giản dị chút nào. Trước hết là phải chọn trong danh sách cả trăm anh em mà chúng tôi có được để lọc ra những người cần được giúp đỡ trước. Danh sách không chỉ có một, mà có tới bốn cái. Một danh sách khá dài của chị Quỳnh Lan từ bên Úc gửi về. Theo lời anh em kể lại thì những người này đều đã được chị Quỳnh Lan nhờ người kiểm chứng chính xác (kể cả việc phải thuê người đi xa tìm hiểu từng hoàn cảnh). Danh sách của Hàm Anh đã từng lặn lội xuống tận Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ mang về, danh sách của anh em thương binh đi gặp từng người, gom lại đưa cho anh Giáo và một số người đã gửi thẳng cho tôi. Ngoài ra trong đợt này lại có vài vị độc giả chỉ định đích danh chuyển quà tặng người nào. Trong số đó, có vị tặng bằng USD, có vị tặng bằng đô la Canada, có vị tặng theo giá trị tiền Việt Nam. Lần này tòa soạn Thời Báo lại gửi 4.500 USD. Hai phần ba giúp TPB, còn 1/3 giúp người nghèo. Vì thế “hội nghị thượng đỉnh” của chúng tôi quyết định đổi hết thành tiền VN mới giải quyết được.

 

“Hội đồng chuột” gồm có anh Giáo, trưởng làng TPB, anh Đoàn Dự, anh Bảo -đại diện cho anh em TPB, Hàm Anh và tôi. Cuộc thảo luận diễn ra suốt một buổi chiều. Nhân chia trừ cộng bằng mồm, ghi vội ra giấy, “cân đong đo đếm” cẩn thận, rồi trao cho từng người, cứ thế thi hành. Chúng tôi đồng ý “nguyên tắc” là lần này tặng mỗi anh em một số tiền kha khá để có thể chi tiêu vào một công việc nào đó thật cần thiết cho gia đình mà các anh ấy khó có thể giành giụm được. Sửa cái mái nhà, mua cái xe đạp cho con đi học, chữa bệnh nặng cho chính mình hoặc cho vợ con. Tạm thời cứ ấn định là mỗi phần một triệu đồng.

 

Sau khi mang 4 danh sách ra đối chiếu, chọn lọc, mãi rồi chúng tôi mới có được một danh sách chính thức. Hơn 10 phần quà sẽ được tặng anh em TPB tại TP. Sài Gòn, hơn 10 phần được trao ở Thủ Đức, hơn 10 phần được gửi cho các anh em ở tỉnh xa. Phần quà của những độc giả đã chỉ định tặng các anh có tên sẵn do tòa báo chuyển đến sẽ được đưa tận tay.

Những chiếc bì thư được mua về, tiền cho vào từng chiếc, mỗi người chịu trách nhiệm một số, còn lại mang đến tận nơi tặng cho những anh em bệnh tật không đến nơi phát quà được.

Như thế trong ngày mai (15-1-2007) có hai địa điểm phải đi. Một ở Sài Gòn và một ở Làng Thương Binh Thủ Đức. Tất nhiên là theo kiểu “đánh nhanh, rút êm” cho đỡ phiền hà. Anh nào nhận quà xong là “biến”. Miễn sao quà tới tay anh em là được. Còn phần quà của anh em ở tỉnh xa sẽ tìm cách chuyển đến tay anh em nhanh nhất.

 

Mãi đến tối chúng tôi mới làm xong được công việc phức tạp và có phần tế nhị này. Nhưng nói thật là chúng tôi chưa thể bằng lòng hoàn toàn với chính mình được. Bởi vẫn còn những người chưa được quà, tất nhiên trong lòng chúng tôi, mỗi người đều có một chút áy náy riêng cho từng người mà mình đã định chọn, nhưng lần này chưa được “hội đồng chuột” chọn. Thôi thì hứa với lòng mình: “Đợi lần sau vậy, chúng tôi nhất định không quên các bạn đâu”.

 

- Cuộc gặp mặt bất ngờ con gái ông Từ Chung

Từ hai hôm trước khi còn ở nhà quê, bất ngờ tôi nhận được cú điện thoại của một Việt kiều từ Canada về VN, cô nói là độc giả của Thời Báo, ngỏ ý muốn gặp tôi. Quả thật tôi không biết mục đích của cuộc gặp mặt này và cũng không tiện hỏi. Khi tôi về đến Sài Gòn, địa chỉ cái tổ chim ở chung cư của tôi khó tìm, nên người anh cô Việt kiều đề nghị tôi đến nhà anh, cũng ở gần đây thôi. Đó là đường Nguyễn Lâm, bên chợ Nguyễn Tri Phương. Khu này không xa lạ gì với tôi vì trước khi đi định cư ở Virginia, ông Vương Đức Lệ đã ở đó, sinh thời ông Lê Xuyên khi “đếch thèm viết văn nữa”, ngồi bán vé số đầu đường, cũng ở gần đó.

 

Mười giờ sáng ngày 14-1 tôi tìm đến nhà anh em “cô Việt kiều Canada”. Vừa bước chân hết thang lầu, tôi đứng ngẩn ra vì có bức ảnh của anh Từ Chung, “cố tổng thư ký nhật báo Chính Luận” cũ, trang nghiêm trên bàn thờ. Nhìn cái vẻ ngẩn ngơ của tôi, cô Khánh Vân tự giới thiệu tên và nói ngay:

- Bố cháu đó, bị ám sát hồi xưa, chú còn nhớ không ?

- Sao lại không nhớ. Hồi đó tôi viết feuilleton cho báo Chính Luận thì anh Từ Chung là Tổng thư ký tòa soạn. Tôi viết “Chân Trời Tím” và “ Người yêu của lính” ở báo Chính Luận vào thời gian đó. Đến tòa soạn, tôi thường gặp anh. Anh còn là bạn thân của anh Hoàng Hải (tên thật là Lưu Duyên- anh của cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương) cũng đều là bạn của tôi.

 

Tôi nhớ và kể lại với gia đình Khánh Vân, anh nhiều tuổi hơn tôi, già dặn kinh nghiệm và từng trải, anh gọi tôi bằng “cậu”. Có lần anh bảo tôi: “Một nhà văn phải biết làm mới mình. Cậu phải đi nhiều vào, làm nhiều việc và gặp nhiều người”. Anh thẳng thắn chỉ thẳng vào ngực tôi, nói: “Cái ông Đại Úy của cậu và cả cái anh nhà văn của cậu chẳng là cái quái gì cả. Quan trọng là cậu viết cái gì, làm được gì, tác phẩm của cậu như thế nào thôi. Nói như thế không có nghĩa là cậu không có quyền tự hào, tự hào bằng cách tự tin vào mình, chứ không phải vác cái mặt lên. Mặc những kẻ tiểu nhân xúc xiểm, bất chấp kẻ thù dùng mọi cách nham hiểm hại mình. Đó là chuyện tất nhiên, đã cầm bút dám viết thì phải chấp nhận thôi, tôi cũng có khối kẻ thù...”. Điều này anh Từ Chung “tiên tri” đúng, chúng không thể làm hại uy tín của anh, không làm anh chùn bước, thậm chí chúng phải dùng đến mưu toan hèn hạ nhất ám sát anh.

Khi anh Từ Chung mất rồi, tòa soạn báo vẫn cứ đề tên “cố Tổng thư ký tòa soạn Từ Chung” cho đến khi tờ Chính Luận không còn nữa.

 

Một người đàn bà, có thể gọi là “bà cụ”, tóc bạc như cước, khoảng gần 90 tuổi, nhưng còn đẹp lão và nét quý phái còn hiện trong phong thái rất đĩnh đạc. Khánh Vân ôm vai bà cụ:

- Đây là mẹ cháu.

Vâng, đó là chị Từ Chung. Chị nhận ra người quen cũ, vui vẻ ngồi vào bộ salon gỗ. Chị còn minh mẫn lắm, nhớ rất nhiều chuyện xưa.

Khánh Vân nói ngay

- Cháu là con nuôi của bố mẹ Từ Chung, nhưng cháu sống với bố mẹ nuôi từ năm còn nhỏ đến năm 13 tuổi. Khi bố cháu bị ám sát, cháu cũng có mặt. Và bây giờ mỗi khi về Việt Nam, cháu ở với mẹ cho đỡ nhớ.

 

Sau đó, Khánh Vân cho biết qua về tình hình Việt kiều và sự trợ giúp TPB cùng người nghèo ở VN, cô bày tỏ sự tin tưởng vào công việc của chúng tôi. Đó là lý do chính cô muốn gặp tôi và nhân dịp này, cũng muốn biết rõ hơn về cuộc sống thật của anh em TPB ở VN hiện nay thế nào.

Tôi nói ngay:

- Rất mừng có một độc giả từ nước ngoài về VN, ngày mai (15-1) chúng tôi sẽ có một buổi tặng quà của Việt kiều Canada cho anh em TPB, nếu cô muốn đi, tôi sẵn sàng hướng dẫn.

Khánh Vân “mừng như bắt được vàng”, cô vui vẻ nhận lời. Tôi phải nói trước rằng việc tặng quà sẽ chỉ diễn ra “êm đềm” .. Khánh Vân hiểu ngay những khó khăn và những vấn đề tế nhị của chúng tôi. Cô hứa là sẽ kín đáo đến nơi hẹn.

 

Ngay lúc đó, tôi lại được gặp một anh thương binh, dường như quen với gia đình anh Từ Chung. Anh là Phạm Văn Tiết, trước kia mang cấp Đại úy. Theo lời anh kể thì lâu nay, anh chưa hề nhận được quà bao giờ. Gia đình Khánh Vân cho tôi xem qua hồ sơ của anh. Sau đó, tôi mang địa chỉ của anh cho anh em TPB để xác minh tiếp và nhân dịp này tôi đề nghị với anh em dành tặng anh một phần quà cũng như những anh em khác. Đoàn Dự còn một số tiền của báo Văn Nghệ cũng tặng anh thêm một triệu đồng nữa, vì đây là lần đầu anh nhận được quà tặng của Kiều bào.

 

- Lại phát quà dưới chân Chúa

Sáng hôm sau (15-1-2007), tôi và Hàm Anh đến nơi hẹn phát quà cho 12 anh em TPB, cũng ở một địa điểm mà chúng tôi cho là thuận tiện nhất. Một nơi dành cho con chiên đến cầu nguyện. Cô Việt kiều đã có mặt ở đó rồi. Những anh em què cụt, đui mù lần lượt đến. Bao gồm cả những người đã được tặng nhưng còn rất khó khăn và những anh em chưa được tặng lần trước. Đáng lẽ cuộc gặp mặt rất nhanh chóng, nhưng cô Việt kiều cứ thăm hỏi hết người này đến người khác, lại còn “bày vẽ” mua thêm năm ba tút thuốc lá “ngoại” để gửi anh em mỗi người một gói, phì phèo nhân dịp Tết đến. Tôi phải “dọa” cô còn nhiều thì giờ gặp những anh em khác nữa, nếu cô muốn đi cùng lên Thủ Đức.

 

Khánh Vân chọn ngay một anh thương binh cụt một giò làm “tài xế” đưa cô đi. Cô giao hẹn trước:

- Đến Thủ Đức rồi là khi về, cháu đi theo xe của anh Ký, cụt hai tay đấy.

- Đồng ý, nếu cô đủ can đảm làm xiếc trên xa lộ.

 

- Thương binh giúp người dân khổ ba đời

Chúng tôi đến nhà anh Giáo vào khoảng 11 giờ trưa. Một số anh em gần đó còn khỏe mạnh, rải rác đến nơi. Mỗi người nhận một phần quà xong là ra về ngay, tránh những con mắt dòm ngó. Anh Giáo cũng phải đề phòng như chúng tôi vậy. Một anh Thương Binh cho biết gần đây có gia đình một người đàn bà rất cùng khổ, có một người con bị tâm thần, một đứa cháu bị điên, cả 7 gia đình chung sống trong một ngôi nhà, tội nghiệp lắm. Anh thương binh đưa ra kết luận gọn lỏn: “gia đình này khổ 3 đời rồi”. Anh đề nghị nên giúp đỡ người này. Khi một anh thương binh cùng khổ còn nghĩ đền việc giúp đỡ người dân cùng khổ như mình, quả là một điều đáng trân trọng. Chúng tôi và các anh em TB có mặt đều đồng ý giúp đỡ gia đình đó. Và chúng tôi kéo sang thăm gia đình “người cùng khổ ba đời” này.

 

Anh Đào Vĩnh Ký được cử làm đại diện Thương Binh, chuyển quà của Việt kiều tới bà Nguyễn Thị Hưởng. 7 gia đình sống lúc nhúc trong cái nhà nhỏ hẹp và dài thòong, cũng chẳng khác gì hang chuột chũi.

Sau đó chúng tôi đến thăm một số gia đình anh em khác, tàn phế, đui mù không thể đi lại được. Ở đâu cũng nhìn thấy toàn những nỗi khổ.

Sau cùng chúng tôi đến “cái hang chuột” của anh Trần Văn Ngà, như tôi đã tường trình với bạn đọc ở trên.

 

Quà tặng những anh em ở tỉnh xa cũng đã được chuyển đi ngay hôm sau. Còn một số tiền, độc giả yêu cầu tặng những người nghèo khó, tôi đang liên lạc để tặng vào dịp gần Tết. Tôi cũng cần tường trình rõ, trong số tiền tặng đồng bào nghèo, chúng tôi đã đồng ý giúp cho 2 nghệ sĩ thuộc loại “rách kinh niên” ở Sài Gòn một phần quà. Dù các anh này chưa bao giờ yêu cầu điều gì, nhưng chúng tôi thấy cần phải giúp. Tuy nhiên vì tôn trọng các anh này nên tôi không ghi tên ở đây.

 

- Nhà của Thương Phế Binh chế độ cũ cũng phải hóa giá

Khi cùng ngồi ăn trưa với chúng tôi, các anh em trong làng TPB Thủ Đức bàn tán xôn xao về chuyện nhà đang “được bán hóa giá”. Rất nhiều anh em không thể xoay xở đâu ra số tiền qua lớn đó, nên cứ ở lỳ, chứ biết làm thế nào hơn. Theo lời kể của các anh em này thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chẳng có gì khó hiểu.

 

Nguyên những căn nhà này của anh em TPB (QĐVNCH) đang ở là do “chế độ cũ” của chính quyền Sài Gòn làm cho nên có tên gọi “Làng Thương Binh Thủ Đức” từ trước những năm 1975. Tuy nhiên, trong giấy giao quyền sử dụng ghi rõ “không được sang nhượng, mua bán”… Vì thế bây giờ chính quyền địa phương căn cứ vào đó đòi người chủ nhà (tức anh em TPB của QĐVNCH) phải thuê lại (cũng như những chung cư cũ ở Sài Gòn, nếu chưa trả hết tiền cho nhà nước cũ, thì nhà nước mới tiếp tục thu tiền thuê và ai muốn mua thì phải mua lại của nhà nước, được gọi là nhà hóa giá).

 

Bây giờ chính quyền địa phương truy thu luôn tiền thuê nhà từ năm 1975 đến nay. Số tiền khoảng trên năm sáu triệu đồng một nhà. Tiền “hóa giá nhà” là hơn ba mươi triệu. Tính ra hết hơn 40 triệu đồng. Làm sao anh em què cụt, thiếu thốn đủ thứ, thậm chí không đủ ăn, lấy tiền đâu mà trả tiền thuê nhà và tiền hóa giá ? Thôi thì cứ “đánh võ lỳ”, tới đâu thì tới.

 

Tôi không biết nhà nước VN sẽ phải giải quyết việc này như thế nào. Theo tôi thì có muốn đuổi cũng không được, thà rằng tặng luôn cho anh em còn hơn. Những căn nhà cấp 4 đó nay cũng đã xuống cấp trầm trọng rồi. Nếu không giao cho họ có quyền sử dụng để tu sửa, rất có thể sẽ có ngày tai nạn thương tâm xảy ra.

 

Đó cũng là nguyện vọng chính đáng của những người cùng khổ mà từ hơn 30 năm nay bị bỏ quên, trong khi những thương binh khác được hưởng khá nhiều quyền lợi. Có “an cư mới lạc nghiệp”. Nếu chính quyền thật sự muốn lo cho dân và cũng chẳng nên phân biệt Thương Binh chế độ cũ hay mới.

 

- Phát quà tiếp cho đồng bào nghèo

Ngày hôm sau, tôi lại “hành quân” về Lộc Ninh để kịp liên lạc và tổ chức phát quà cho đồng bào nghèo những xã lân cận, lần trước chưa được nhận. Lần này không còn ai phụ giúp nên tôi phải nhờ đến gia đình bà Thụy Vũ, cháu Khôi Hạo và những người quen ở đây xác minh và hướng dẫn.

 

50 phần quà của dộc giả Thời Báo được chia cho 3 xã Lộc Hòa, Lộc Thiện và Lộc An. Cũng như báo Văn Nghệ đã tặng lần trước, mỗi phần gồm 10kg gạo, 1 thùng mì 30 gói và 100 ngàn đồng VN. Ngay buổi sáng chủ nhật 21 tháng 1-2007, chúng tôi đã đến nơi phát cho từng gia đình. Ở đây, một số đông là đồng bào “người dân tộc”. Họ sống trong nương rẫy rải rác trên những căn nhà sàn chênh vênh, cuộc sống rất khó khăn. Khôi Hạo phải đứng ra nhận phiếu, đưa phong bì, người địa phương phụ giúp chuyển những thùng mì và gạo.

 

Vẫn còn một số người bệnh tật đau ốm, những bà già sống neo đơn, phải nhờ những người hàng xóm nuôi dưỡng, không thể đến được. Trong những ngày sắp tới, chúng tôi sẽ lại phải đến từng nhà, gặp từng người, thay mặt kiều bào Canada và Mỹ giúp đỡ cho họ một phần quà khá hơn để có thể chữa bệnh hoặc kéo dài một mùa xuân mới đẹp hơn những mùa xuân trước.

 

Xin cảm tạ những tấm lòng nhân hậu.

 

VĂN QUANG
(Bai Chuyen)

website counter