Đầu năm nói
chuyện Hút Thuốc Lá
(Hoàng Long Hải)
Bây giờ ai cũng biết hút thuốc
lá là có hại. Nhưng nói về
cái hại ấy là việc của mấy
ông bác sĩ, cũng như nói về nguồn
gốc, lịch sử thuốc lá là việc của
mấy nhà nghiên cứu. Tôi không bàn về
hai lãnh vực đó. Tôi chỉ bàn chung
về việc hút thuốc lá của người
ta như thế nào.
Có một dạo, hễ nhà văn, nhà
thơ, nhà… họa thì phải biết hút
thuốc lá. Đó là cái “mốt”
của giới nghệ sĩ. Do đó, có những
anh chàng vừa làm được vài
bài thơ Con Cóc, vài bài văn con
cóc muốn to bằng con bò, vài bức tranh
heo, gà, vịt, lợn, đã vội mua thuốc
lá mà hút, cho ra vẻ ta đây là
… nghệ sĩ. Người thì kẹp điếu
thuốc giữa hai ngón tay, người cầm
cái tẩu (ống điếu) phì phà,
có người cầm điếu xì gà tổ
bố. Báo Sáng Tạo xuất bản ở Saigon trước đây, thường
có hình tác giả vẽ phác họa in ở
đầu bài, không ít ông ngậm ống
vố.
“Mốt” nầy nhập cảng từ
bên Tây. Giới nghệ sĩ bên đó,
nhiều người hút tẩu. Tôi từng thấy
những tấm ảnh Jean Simon, Picasso, Saint Exupery tay cầm
ống vố. Họ không ngậm ở miệng, sợ
che mất cái mặt đẹp trai !
Thật ra, dù không phải là nghệ sĩ,
bọn con trai cũng thường hút thuốc,
không phải vì thích mà vì muốn chứng
tỏ rằng ta đây là… người lớn.
Dĩ nhiên, người lớn thì hút thuốc
lá. Con nít thì không !
Con nít bị cấm hút thuốc, có thể
bị rầy. Khi người ta thấy một đứa
bé hút thuốc, người ta cho là đứa
trẻ hư. Người lớn, đàn ông,
hút thuốc thì không cho là hư; nhưng
đàn bà, dù lớn tuổi, hút thuốc
cũng bị coi là đàn bà hư. Xã hội
Việt Nam
như vậy đã đành mà xã hội
Tây phương, hồi trước, đàn
bà hút thuốc cũng bị phê phán.
Bây giờ thì ít bị chê hơn. Tôi
nói ít chớ không phải là không,
có lẽ vì nam nữ bình quyền…
hút thuốc.
Xã hội Việt Nam ngày xưa cũng
không phê phán đàn bà hút thuốc
là hư. Hồi mới lớn, tôi từng thấy
nhiều bà - bà chớ không có cô -
phì phèo điếu thuốc Cẩm Lệ to tổ
bố. Hồi ấy, giàu có, văn minh mới
hút thuốc lá vấn sẵn, gọi là
cigarette của hãng thuốc MIC, Basto ở Saigon. Còn giới bình dân
thì hút thuốc lá Cẩm Lệ, thuốc
lá ngon nổi tiếng trồng ở làng Cẩm
Lệ, ngoại ô Đà Nẵng. Thuốc
được xắt lát mỏng, gói trong
lá chuối tươi (để thuốc lâu
khô) kèm với giấy quyến vấn thuốc.
Tôi từng ngồi coi bà nội tôi xé giấy
quyến. Đó là loại giấy mỏng, trắng,
nghe nói làm bằng ruột tre - nghe nói
vì tôi đã từng thấy bao giờ
đâu - tờ giấy hình vuông, mỗi bề
ba bốn gang tay. Khi xếp phải theo chiều mới dễ
xé thành rẻo, mỗi rẻo gần bằng ba
ngón tay ghép lại, rồi cuộn lại, lấy
một hai rẻo kẹp vào chỗ mí hai mép
lá chuối gói thuốc gặp nhau. Khi hút,
lôi giấy ra, xé một đoạn dài bằng
ngón tay, bỏ thuốc lá vào một đầu
giấy, vấn lại như sâu kèn. Khi hút gần
hết thì dán đầu ngậm, đầu nầy
chỉ có giấy, không có thuốc, vào mặt
dưới bộ ván ngựa, mặt sau cái tủ
đứng... Khi hết thuốc, người ta lấy
nó ra, gọi là tàn. Năm ba cái tàn
gom lại thành một điếu thuốc mới. Thuốc
tàn thường ngon hơn thuốc mới hút lần
đầu, cũng tương tự như “thuốc
ngon nửa điếu”. Người ta có câu
ca dao:
Bạn vàng chơi với bạn
vàng
Không tiền mua thuốc lượm
tàn hút chơi.
Gọi là bạn vàng thì cũng
được. Gọi là bạn nghèo thì
đúng hơn vì rõ ràng “không tiền
mua thuốc” tức là nghèo. Có người
cho rằng tôi nói sai bởi vì nghèo
mà vẫn chơi với nhau thì cái nghèo
đó là vàng. Cũng có thể vậy,
nhưng thói thường, hai người cùng
nghèo thì chơi với nhau quí lắm,
còn đến khi người ta giàu có
thì “giàu đổi bạn, sang đổi vợ.”
Ở thành phố, chỉ mấy đứa trẻ
lêu lổng, không đi học, lang thang đầu
đường cuối chợ mới hút thuốc
lá sớm - Ấy là nói thời của
tôi, cách nay hơn nửa thế kỷ - Trái
lại, con nít ở nhà quê, dù không
phải là đứa trẻ hư, cũng hút thuốc
sớm lắm.
Ở nhà quê, người hút thuốc tự
trồng lấy thuốc mà hút cho đỡ tốn
tiền. Người ta trồng năm mười cây
thuốc lá trong vườn. Khi lá thuốc
già, trước khi vàng, người ta hái
vào, lấy lạt tre xâu vào đầu cuống
lá thành từng xâu dài, đem treo
trên mái nhà bếp cho có hơi nóng,
lá thuốc mau khô. Khi thuốc lá trở sang
màu nâu, hết mùi hăng là lúc
có thể hút được. Họ cũng xắt
thuốc, vấn những ngọn lá thuốc lại
như con cúi, đút đầu cúi vào
cái lỗ tròn của bàn xắt, và xắt
bằng rựa. Người nhà quê ít vấn
thuốc bằng giấy vì tiết kiệm. Người
ta xé một miếng lá thuốc để vấn
sâu kèn, thay cho giấy.
Khoảng đầu thập niên 1950, tôi thấy
ở tiệm thuốc lá Cẩm Lệ Mụ
Thôi, đường Trần Hưng Đạo, Huế,
có máy xắt thuốc hiện đại hơn.
Con cúi thuốc lá dài lắm, khoanh tròn
như con rắn cuộn mình. Máy xắt thuốc
chạy bằng mô-tơ, lại có nút điều
chỉnh cho lát thuốc dày, mỏng. Mở
công-tắc là máy tự động chạy,
khỏi xắt bằng tay như trước kia.
Vì cái hình ảnh lá thuốc vấn
lại như con cúi, lại đút vào
cái lỗ của bàn xắt, nên người
ta cũng gọi “chuyện ấy” là xắt
thuốc.
Hoàn cảnh trồng thuốc lá ở
thôn quê làm cho trẻ con ở đó biết
hút thuốc rất sớm và cha mẹ cũng
ít khi rầy la !
Không biết ngày nay, việc hút thuốc
như thế ở nhà quê có còn
không. Tuy nhiên, mấy năm tôi ở trong
“trại tù cải tạo”, có mấy
người Miên cũng bị bắt ở tù. Họ
thuộc đội rau xanh, trồng cải, trồng rau cho
trại tù, nên họ nhờ gia đình gởi
hạt giống thuốc lá vào và tự trồng
lấy để hút, đẩy lùi lại
xã hội Việt Nam vào thời kỳ trước
1945 vậy.
Trước 1975, ở miền Nam, người ta
đã biết hút thuốc lá là hại
sức khỏe, dễ bị bệnh lao phổi. Và cũng
tốn tiền, vì thuốc lá hồi đó
như Capstan, Ruby, Grand Prix, Basto Đỏ, Basto Xanh sản
xuất nội địa cũng không rẻ gì.
Thuốc lá là một nguồn lợi lớn
như rượu, thuốc phiện nên từ khi
đô hộ nước ta, Tây đã khai
thác các nguồn lợi nầy. Thuốc phiện
và rượu thì Tây độc quyền,
còn thuốc lá thì Tây dựng hãng sản
xuất rất sớm. Mấy hãng thuốc nầy từ
bên Tây qua làm ăn khai thác ở Việt Nam.
Hãng Basto có câu quảng cáo:
Bát-Tô tuổi đã dư
trăm
Ngàn tám ba tám là
năm ra đời.
Hãng nầy ra đời năm 1838, dĩ
nhiên là ra đời ở bên Tây vì
năm đó Tây chưa cai trị An-Nam.
Thuốc lá ngoại thì chỉ những
người giàu có mới hút, hoặc chỉ
để đãi khách trong dịp tết cho
khách thấy mình quí khách, hay cho
khách thấy mình giàu có. Thuốc
lá ngoại hồi đó thì thông thường
nhứt là thuốc hiệu Con Mèo, tên chữ
là Craven - A, thuốc Ăng-lê
Khi quân đội Mỹ tới đem theo rất
nhiều thuốc lá Mỹ, thứ nào cũng
ngon; nhẹ thì có Salem, Menthol, nặng thì
có Pall Mall, Lucky Strike, trung bình thì có
Winston… Mấy chú GI, lính Mỹ bị gọi
quân dịch, mới 18, 19 tuổi, khi qua Việt Nam,
thường đi theo mấy đứa con nít hư,
để chúng dẫn đường tới những
cái bar, hay chỗ có em út. Bọn trẻ
đòi tiền công bằng thuốc Salem, loại thuốc thơm, nhẹ,
trẻ con cũng như đàn bà thích
hút thuốc nầy. Bọn trẻ đòi, mấy
chú GI thì OK và lôi gói thuốc Salem ra cho bọn trẻ.
Do sự việc đó mà miền Nam, hồi
đó, có danh từ “OK Salem”.
Thuốc lá nội hay ngoại, nếu là
thuốc thơm thì phải có chữ Virginia bên
hông gói thuốc. Đó là thuốc trồng
ở tiểu bang Virginia
hay lấy giống từ tiểu bang nầy, tôi
không rành.
Hồi xưa, thuốc lá không có đầu
lọc. Chỉ thuốc lá Mỹ mới có đầu
lọc. Sau đó thuốc lá của mấy
hãng Tây ở Saigon cũng sản xuất thuốc
đầu lọc. Tuy nhiên, thuốc lá Mỹ Pall
Mall hay Lucky Strike thì không có đầu lọc
bao giờ.
Mấy năm Việt Cộng chiếm miền Nam rồi,
không nhập cảng đầu lọc được,
người ta làm giả bằng bông gòn, hoặc
nhập lậu đầu lọc từ bên Liên
Xô (Có ông làm ở bộ ngoại giao bị
bắt vì tội buôn đầu lọc nầy khi
đi Mốt-Cu về). Người ta cắt đầu lọc
làm hai để tiết kiệm. Dĩ nhiên,
dưới chế độ Việt Cộng, chế độ
giả nên nhiều cái giả xuất hiện,
như thuốc lá thiệt pha với lá đu
đủ, hút vào cháy phổi như
không. Nhưng việc ấy là việc của
nhân dân, “nhà nước nhân
dân” không cần biết tới.
Không kể xì gà hay thuốc hút ống
vố, thuốc lá chia làm loại có đầu
lọc và không có đầu lọc, thuốc
lá thơm và thuốc lá đen. Thuốc
lá thơm thì sợi thuốc có màu
hơi vàng như Ruby; thuốc lá đen vì sợi
thuốc màu đen như Basto xanh. Thuốc thơm
đắt tiền hơn thuốc đen vì lá thuốc
thơm phải nhập cảng từ bên Mỹ,
bên Tây. Thuốc đen trồng trong nước
nên rẻ. Dân thầy như thầy thông, thầy
ký, thầy giáo, làm văn phòng, làm
police, thầy đội, thầy quản (hạ sĩ
quan) thường hút thuốc thơm. Dân thợ,
nói chung là dân lao động, nghèo,
lương tiền ít ỏi thì hút thuốc
đen, không thơm đã đành mà nặng
mùi thuốc lá.
Theo “Chàng Lẩn Thẩn” (Một
bút hiệu của Khái Hưng) viết trên
báo Việt Nam (của Quốc Dân Đảng
năm 1945, 46) thì ông Hồ Chí Minh có hai
gói thuốc lá (Truyện tên là “Hai
gói thuốc lá”). Một gói là thuốc
lá thơm Lucky của Mỹ, ông để
dành hút một mình, trong phòng vắng,
để ở túi ngực bên nầy. Túi
bên kia là gói thuốc lá đen, sản xuất
nội địa, để hút trước mặt mọi
người hay với cận vệ, để chứng tỏ
“bác” tiết kiệm!!! Ông Hồ Chí
Minh kỹ tính lắm, ông chẳng rút lộn
gói thuốc bao giờ. Chuyện lật tẩy
“bác” Hồ như thế nầy, Khái
Hưng trả giá khá đắt. Khi chiến tranh
bắt đầu nổ ra, lợi dụng lúc lộn
xộn, Việt Minh giết ông rồi thả trôi
sông.
Ông Ngô Đình Nhu và cả tổng
thống Ngô Đình Diệm đều là những
người nghiện thuốc lá nặng. Để hạn
chế ông chồng, bà Nhu thường ngắt
điếu thuốc ra làm hai. Mỗi lần hút,
ông Nhu chỉ hút có nửa điếu, bớt
hại hơn. Tổng thống Ngô Đình Diệm
thì ngược lại. Ông đốt cả
điếu nhưng chỉ hút khoảng nửa điếu
thì dụi tắt. Khi hút lại, ông đốt
điếu khác. Ông cũng chỉ hút thuốc
lá đen mà thôi.
Khi tôi còn đi dạy, ông hiệu
trưởng trường tôi mỗi lần hút,
ông cũng bẻ điếu thuốc làm hai.
Ông thành thật nói rằng vừa giữ sức
khỏe vừa đỡ tốn tiền. Ngược lại,
có người anh của một anh học trò của
tôi ở chung trại tù Suối Máu, thì
“đạo đức” hơn. Anh ta nói:
“Hút thuốc hại lắm, tui không hút
mô !” Người em anh ta thì hút dữ,
nghe ông anh nói vậy, bực mình bèn
nói thẳng: “Anh hà tiện thì cứ
nói thẳng hà tiện. Cứ đạo đức
giả hại sức khỏe. Có những cái hại
sức khỏe hơn anh vẫn cứ làm thì
răng ?” Nghe hai anh em lật tẩy nhau cũng buồn
cười !
Ông Bảo Đại cũng hút thuốc
lá, và có khi ông hút thuốc
Lào ! Có người
nói rằng ông quen hút thuốc Lào sau khi
ông thoái vị và ra sống ở Hà Nội
làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí
Minh. Người ta cũng nói khi về sống ở
Bạch Dinh, Đà Lạt khoảng đầu năm
1950, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn
còn hút thuốc Lào. Ông dấu cái
điếu cầy sau bức màn rủ thấp ở
phòng khách. Điếu ông Bảo Đại
hút là điếu cầy, loại điếu nầy
thường làm bằng ống tre, dài hơn gang
tay. Ngày xưa, các ông nhà giàu
hút thuốc Lào bằng điếu bát -
bình nước bằng sành to như cái
bát - hay điếu bằng gỗ đen, khảm ốc
xa-cừ, có vòi hút thuốc dài như
cái cần câu. Thân sinh ông bạn tôi,
dân địa phương thường gọi là
cụ Nghè, mỗi khi ông hút thuốc
Lào, bạn tôi, có khi chính tôi phải
“hầu thuốc” cho ông cụ vì tay ông
bị bệnh phong, các ngón tay bị rút lại,
không tự hút được. Khi cần hút
thuốc, ông gọi: “Cậu hút thuốc
bây!” - Cha nhưng gọi bằng cậu - Vậy
là chúng tôi bưng điếu ra để
trước mặt ông, vo điếu thuốc Lào
cho tròn, nhét vào nõ. Xong, quẹt lửa,
mồi vào miếng tre mỏng rồi đưa mồi
vào nõ. Ông cụ lấy cánh tay với cần
hút xuống, ngậm vào đầu ống. Lửa
chúng tôi đưa vào nõ không
được gần quá, nóng miệng ông cụ,
không được xa quá, thuốc cháy
không hết, bị rầy.
Đã hút thuốc Lào rồi, khó
bỏ được, nhớ vô cùng. Vì vậy,
ca dao có câu:
Nhớ ai
như nhớ thuốc Lào,
Đã
chôn điếu xuống, lại đào điếu
lên.
Tại sao gọi
là thuốc Lào ?
Đó là
câu chuyện tình giữa một công chúa
Lào với chồng là một hoàng tử Việt
Nam. Món quà của người vợ cố giữ
để khỏi bị chồng bỏ quên.
Tuy nhiên, mê thuốc
Lào cũng có thể bị bồ đá hay mất
vợ đấy. Trước đây khá lâu,
tôi có nghe bài hát:
Người
đẹp tôi yêu có đôi bàn tay diễm
kiều
Và một
làn môi duyên dáng
Người
đẹp tôi yêu lấy chồng mà phụ
tình tôi
vì
tôi… say thuốc Lào
Người Bắc
có thói quen hút thuốc Lào và mời
bạn hút một điếu cho “thơm
râu”.
Trước 1954, ở
Saigon hiếm lắm người ta mới thấy người
hút thuốc Lào hay thấy cái điếu cầy.
Trong cuộc di cư của người Bắc vào Nam
sau khi có hiệp định Genève chia cắt Việt
Nam, một triệu người Bắc mang theo trong
hành trang cũng như trong tâm khảm họ
món thuốc Lào. Vì vậy, sau di cư,
trên đường Võ Di Nguy nối dài, bỗng
xuất hiện tiệm thuốc Lào ba số 8. Dĩ
nhiên, tiệm thuốc Lào nầy cũng không
đơn độc. Nó có đồng nghiệp ở
trên đường Lê Văn Duyệt, ở
Xóm Mới, ở Hố Nai… Ở dinh điền
Cái Sắn, vùng kinh C, kinh D, nhiều nguời bỗng
giàu lên vì nghề trồng thuốc Lào.
Nếu độc giả tinh ý, sẽ thấy dưới
gầm tay lái xe Lam ba bánh chạy về đường
Gò Vấp, Xóm Mới, có treo tòn ten
cái điếu cầy của bác tài xế.
Hiện đại hơn, loại điếu cầy nầy
được làm bằng nylon.
Hút thuốc
Lào đỡ tốn hơn thuốc điếu
nên trong đời sống khó khăn của
người “tù cải tạo” Cộng Sản,
hiện tượng hút thuốc Lào trở
nên phổ biến. Gói thuốc Lào dễ mua,
dễ dấu và điếu cầy được
làm bằng từ mọi vật liệu trong đời
tù mà người ta có sáng kiến
tìm ra như vỏ trái sáng bằng nhôm,
một ống tre, hay miếng tôn gò lại như
ống điếu…
Hút thuốc
là một món ghiền, món nghiện,
không hút được thì người
đâm ra bứt rứt, khó chịu. Theo các
bác sĩ thì hiện tượng đó
có là vì trong máu thiếu chất nicotin.
Muốn hết thèm, dán một miếng thuốc
dán có chất nicotin vào ngực hay vào
lưng. Chất nicotin từ miếng thuốc dán thấm
vào máu nên người ta hết thấy
thèm. Cái hại của thuốc lá không
phải ở chất nicotin mà ở giấy vấn
thuốc; khi cháy, giấy nầy tạo ra chất CO (Ốcxít
Cácbon) có hại cho sức khỏe, người
hút cũng như người ở bên cạnh.
Hút thuốc
là một thói quen. Khi bỏ thuốc, người
ta nhớ cái thói quen ấy. Thói quen
đó là một sự thư giãn, chớ
không phải như nhiều “nhà văn”
nói, hút thuốc để trí óc
sáng suốt, nảy ra nhiều ý tuởng hay.
Trên gói thuốc
Mélia Jaune của hãng thuốc MIC Saigon, sản xuất
vào những năm đầu thập niên 1950,
có hình một bà đầm ngồi vách
đốc củ tỏi trên ghế xích đu, tay
kẹp điếu thuốc lá, trong tư thế nghỉ
ngơi thoải mái. Ở Saigon, khoảng 1950, 60. khi cuộc
sống còn dễ dàng, buổi trưa, anh phu xe
xích lô, sau khi ăn no, tìm một bóng im,
nằm ngửa trên xe nghỉ ngơi, đọc tờ
nhật báo và phì phèo điếu thuốc.
Đó là lúc nghỉ ngơi thư giãn,
thoải mái. Trong lúc nghỉ ngơi như thế,
không có điếu thuốc lá cũng là
một sự thiếu sót lớn vậy. Hút thuốc
không nên vội vã, vừa đi vừa
hút, vừa … chạy vừa hút, hoặc
hút bên lề đường, trong cái lạnh
gay gắt của vùng Đông Bắc nước Mỹ
nầy. Hút trong nhà, trong tiệm không
được, bị cấm thì ra lề đường
mà hút, hút cho lẹ mà vào nhà
vì lạnh. Hút như thế thì không
còn gì là thú vị cả. Tuy vậy,
có người vẫn thích hút ngoài
đường, không ngay tại chỗ ngồi ăn.
Đi ăn với người quen, với bạn bè,
khi bồi sắp đem bill ra trả tiền thì anh ta
rời chỗ ngồi để bỏ ra ngoài với
cái cớ là… đi hút thuốc. Chờ
khi trả tiền xong thì anh ta lại vào để
chuẩn bị ra về. Ai biểu cách hút thuốc
như thế là không có lợi cho túi tiền
? Nếu nó có hại thì chỉ hại cho
cái nhân cách của mình mà thôi.
Tuy nhiên, với một người coi đồng tiền
nặng hơn phẩm giá thì việc tôn trọng
phẩm giá trở thành vô nghĩa. Đời
cũng lắm trò vui đấy chớ !
Buổi chiều
xuân, trời có nắng ấm, mặt trời
như thỏi sắt đỏ chói xuống chầm
chậm sau đồi, chiếu lên mây những
màu rực rỡ. Ngồi trên ghế xích
đu ở sân sau, với một ống vố đầy
thuốc 79, hít một hơi thuốc thơm, rồi
nhìn khói tản mạn bay lên cao, khó
mà quên những bài thơ của Hồ Dzếnh:
Ngó
trên tay thuốc lá cháy lui dần
Anh khẽ
nói làm sao mà nhớ thế !
Hay hát thầm theo
Dương Thiệu Tước:
Nhớ
nhà châm điếu thuốc
Khói huyền
bay lên cây !
Hút thuốc
như thế thì đời còn đáng sống
lắm !
Phải không
quí vị ?
Mùa xuân 2007
HOÀNG LONG HẢI
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)