BÓNG
CÂU QUA CỬA SỔ
(Thùy
Linh)
Bà nói với
anh chàng lái tắc xi lầm lì dừng ở
ngã tư thứ nhất. Còn phải qua một
ngã tư nữa mới tới đầu phố.
Bà lững thững
mộng du giữa đám xe máy chạy như
thác sầm sập đổ theo các lòng
đường. Loay hoay mất hai chặng đèn
đỏ bà mới vượt qua ngã tư để
sang đầu phố.
Bà dừng lại khẽ
đẩy cặp kính lên cao, trải ánh mắt
dài theo dọc phố. Vẫn là con phố
có lòng đường nhỏ và thăm thẳm.
Vẫn là bầu trời xám chì bị những
tia nắng vàng nhạt xé rách một khoảng
tròn như một cái giếng tràn trề
ánh sáng. Bầu trời đó, mặt đất
này .. Bao năm qua dường vẫn còn
đây. Như có một sức nóng từ
ánh dương chói qua lớp mây xám tạt
ngang, khiến bờ mi nóng rực làm làn
nước mỏng dâng lên. Trong bóng nước
ấy hiện lên một con phố nhỏ buồn heo
hút thưa thớt nhà. Dọc hai bên phố
là hai hàng bàng. Vào tháng giêng hai
búp bàng bắt đầu trổ ra, cuộn
tròn như cái kén màu xanh cốm. Phải
đợi rét nàng Bân đổ về
lá bàng mới từ từ xòe ra hứng những
hạt mưa li ti. Những chiếc lá bàng xanh biếc
lóng lánh và đầy vẻ khát khao.
Sang tháng tư khi nắng
mới bừng lên thì tán bàng đã
phủ kín lối nhỏ hè đường
và xòa cả ra lòng đường. Chớm
thu heo may về lá bàng lần lượt rời
bỏ để lại đám cành khô khẳng
khiu đứng cô lẻ trong mưa phùn gió bấc.
Cứ nhìn màu chuyển trên các tán
bàng để biết mùa đến mùa
đi ..
Đấy là phố
nhỏ của bốn nhăm năm trước.
Đây là
ký ức của bốn nhăm năm trước
đang nhè nhẹ thổi từ miền quá khứ,
qua sa mạc khô cằn của sự quên lãng
tới tâm khảm bà.
Bà đang đặt
bước chân đầu tiên lên phố nhỏ
rợp bóng bàng của bốn nhăm năm
trước, sau khi vượt qua một chặng
đường dài gần mười bảy
ngàn ngày. Không còn cây bàng
nào cả. Thay vào là một loại cây
gì đó bà không biết, cây
không tên. Những cây như thế này mọc
khắp phố phường, thường chẳng có
hoa, và tất nhiên không thể kết
trái. Các mùa cũng không thể pha
màu lên tán lá của nó. Giống
cây luôn dửng dưng với thay đổi của
trời đất, không tham dự vào buồn vui
của con người. Nó sống trọn vẹn một
kiếp cây mà không cần hóa thân
vào đời sống.
Theo thói quen xưa
đi dưới tán bàng, bà bước
đi thật chậm, như cúi tìm trên mặt
hè mòn vẹt bước chân người quả
bàng vàng rộm thơm phức. Cái quả
bàng quế ấy cắn ngập răng, ngọt lịm.
Cắn hết quả bàng trong nỗi thèm thuồng,
người ta còn lấy hòn gạch ghè
đập cái hạt xơ tướp để lấy
cái nhân bên trong bùi như hạt dẻ.
Mùi bàng chín từ trong ký ức phả
ra thoang thoảng trong heo may. Cây bàng đầu
tiên .. Phải rồi, cây bàng đầu
tiên mọc thẳng, được chừng hai sải
tay thì chẽ thành ba nhánh. Cây thứ hai
có hai thân sinh đôi. Cây thứ ba giữa
thân bỗng bị phình ra như bụng
đàn bà chửa .. Cây thứ năm, cây
thứ bảy .. Cây thứ mười, một dạo
có chim bạc má về làm tổ. Bà
đã phải mất mấy ngày để
trông chừng bọn trẻ con phố bên sang
phá. Một buổi sáng tỉnh dậy, như
có linh tính bà chạy vội từ trong
giường ra gốc bàng, tổ chim không
còn ở đó nữa. Ngày hôm ấy
bà đã khóc rất nhiều khiến
ông bác tưởng bà nhớ ba mẹ vừa
mới sang Pháp trước đó hai tuần.
Cây thứ mười bốn có rất nhiều
sâu kèn to như ngón tay út. Bỏ con
sâu ra, bóp bẹp một đầu kén
là có cái kèn thổi toe toe suốt
ngày làm người lớn bực mình.
Bà gắn bó với cây bàng thứ mười
bốn này hơn cả vì nó đứng ngay
trước ngôi nhà bà đã từng ở
suốt tám năm trời với ông bác khi ba
mẹ bà sang Pháp làm ăn. Hồi mới tới
đây bà thường trốn bác trèo
hái lá bàng cho bà cụ bán xôi ngồi
ở cuối phố mỗi sáng. Giấu lá
bàng trong cặp, trước khi tới trường
bà rẽ qua góc phố. Bà cụ bán
xôi thành quen cứ vào giờ ấy là
ngóng về đầu phố. Bà vội vàng
đưa nắm lá cho bà cụ rồi đi
không kịp nghe lời cảm ơn. Đôi khi
bà cụ túm tay kéo lại dúi nắm
xôi gói trong lá bàng, khẩn khoản: "Xin cô đừng từ
chối, già này không có gì để
cám ơn cô, chỉ có chút quà vặt
này".
Một buổi sáng, sau trận bão đêm
hôm trước, lá bàng rụng nhiều
vô kể. Bà chạy dọc hè phố nhặt
được một túi bàng thật to. Bà
vui lắm chạy thẳng đến cuối phố,
nhưng bà cụ bán xôi vẫn chưa tới.
Bà đứng đợi cho tới khi muộn giờ
học và hôm ấy đã bị cô
giáo phạt. Tan học bà quay trở lại. Vẫn
không thấy bà cụ đâu. Mang túi
lá bàng về bà loay hoay giấu ở
góc vườn để bác không phát hiện
ra. Hôm sau bà kiếm cớ ra khỏi nhà sớm
hơn thường lệ. Mái hiên nơi bà cụ
bán xôi thường ngồi lặng ngắt.
Vài bác kéo xe tay theo thói quen ghé lại
ăn xôi sáng trước khi đi làm
chưng hửng bỏ đi. Sau đó, sau đó
nữa không bao giờ còn thấy lại cái
dáng thấp còng còng của bà cụ,
bên nách cắp một cái thúng mà từng
đống nan óng lên vì hơi tay người,
phía trên một lớp vải nâu đã bợt
bạt. Tới giờ này bà cụ đã
bước vào vùng tối của cuộc đời
lâu rồi, lâu lắm rồi. Nhưng bà cụ
ra đi vào cái đêm cơn bão lướt
nhanh qua thành phố hay mãi sau này thì
bà không sao biết được. Mái
hiên, bà còng thúng xôi là mành
phố nối dài vào nỗi nhớ để về
nơi đây thấu suốt cuộc đời
bà.
Cây bàng thứ
mười lăm .. Tán cây này xòe rộng
như một cái nấm che kín cả vỉa
hè, vươn tới bên cổng sắt của
ngôi nhà đối diện với nó. Ngôi
nhà ấy cũng thân thiết với bà
như chính ngôi nhà bà đã từng
ở. Bờ tường phía trước mặt
giăng kín màu hồng ti gôn. Những dải
ti gôn mong manh nhẫn nại bám vào thành
tường ngoi lên, vươn kín mái
nhà. Những bông hoa phân mỏng rơi lớp
lớp xuống rẻo đất nhỏ sát bờ
tường. Trong cái nắng hanh hao mùa
đông đám hoa lìa cành vẫn còn
kịp rực hắt vào chân tường xám
rêu phong làm nó anh ánh ửng hồng.
Ngôi nhà ấy giờ đây hiển hiện
trước mắt bà. Một bức tường cao
thô kệch phong kín. Đứng ngoài chỉ
thấy chòm mái xám đen nhô lên
như một chiếc nón thâm lại vì
mưa nắng. Cánh cửa sắt nặng nề
tróc sơn nham nhở bưng bít nốt con mắt
nhìn ngoài vào. Lùi ra xa một chút sẽ
thấy ở sâu trong ngôi nhà có một
tán hoàng lan xanh thẫm dâng cao lặng lẽ
buông che phần mái hiên.
Bà thận trọng
đến bên cánh cổng sắt, âm thầm
cúi nhìn một bên cánh bị gỉ bong
vênh lên, hở một khe nhỏ. Rồi bà
âm thầm giơ tay đặt khẽ ngón giữa
vào nút chuông màu trắng. Bỗng có
một vệt nắng tạt ngang lùm cây, trượt
qua vai bà, khoan một lỗ tròn trên cánh
cửa sắt. Bờ vai bà ấm ran lên. Ngày
xưa, trong chiều nhạt nắng, có một cô
gái trẻ, trẻ lắm cũng đứng ở
chính chỗ này, hồi hộp nhìn sâu
vào trong vườn, nơi có cây hoàng
lan, đôi má bị nắng hanh làm ửng
đỏ .. Tại sao bà nhớ lại hình ảnh
đó vào chính lúc này? Hình
như thói quen thường nhật làm nhạt
phai mọi kỷ niệm, kể cả những kỷ niệm
đau đớn nhất. Nhưng kỷ niệm đẹp
đẽ nhất lại không nằm trong tâm khảm
người ta, như nỗi hoài nhớ của
bà về phố xưa này vậy. Nó theo
làn mưa xuân giêng hai, cuốn đi trong
cơn gió heo may, ủ mình vào trận
gió bấc phương bắc tràn về ..
Và, cứ như con
nước theo trăng, mùa đi gửi lại
mùa đến, truyền theo năm tháng cuộc
đời. Để chiều nay khi bước chân
đầu tiên đặt lên mình con phố,
heo may bỗng choàng lên bà tấm voan dệt
những kỷ niệm xưa. Qua tấm voan ấy, hiện
hữu mờ dần đi như đám sương
mù, hòn đảo quá khứ bỗng từ từ
chồi lên chói lòa.
Có tiếng giày
nện lộp cộp trên nền xi măng phía
trong cánh cửa làm bà bừng tỉnh.
Bà lảng đi, làm ra vẻ đang tản bộ.
Một thiếu phụ dắt
chiếc xe máy từ trong ngôi nhà đi ra. Tiếng
thiếu phụ dặn dò với ai đó:
- Hai bố con ông ở
nhà tự lo bữa chiều. Nếu ngại nấu
nướng thì ra ngoài ăn tạm cơm bụi.
Tôi bận việc về muộn. Nhớ khóa cổng
lại đấy. Ông cứ dán mắt vào ti
vi có ngày trộm vào khoắng sạch cho mà
xem.
Cánh cổng sắt
đóng rầm sau lưng. Tiếng xích khóa cọ
vào cổng chói gắt.
Đột nhiên
bà không muốn quay lại nữa và cất
bước đi về cuối phố.
Bà về đến
nhà lúc sẩm tối. Gia đình người
cháu bà vẫn đang đợi cơm.
- Cô làm cháu
lo quá! Lần sau cô muốn đi đâu
thì bảo cháu đèo đi. Đường
sá bây giờ lộn xộn lắm, đến bọn
cháu là thanh niên thế này mà có
lúc đi đường còn phát hoảng nữa
là.
- Cô muốn đi dạo
qua mấy phố quen trước đây.
- Cô có gặp
được người quen không?
- Cô chưa tới,
hình như họ đi vắng! - Bà nói dối.
- Cũng không có gì quan trọng đâu.
Hôm khác cô đến cũng được.
- Bạn cũ hả
cô? Từ hồi sang Pháp đến giờ cô
có liên hệ với họ không?
- Không! - Bà khẽ
lắc đầu.
- Thế thì làm
sao biết họ còn ở đây.
- Cô nghĩ thế! Bần
cùng bất đắc dĩ, người ta mới phải
rời bỏ ngôi nhà của mình chứ.
- Nhưng hơn bốn
chục năm rồi! ở thành phố này
ít ai sống được trong ngôi nhà của
mình ngần ấy thời gian cô ạ!
- Cô biết! -
Bà trầm ngâm.
Sau bữa cơm bà
kiếm cớ mệt đi vào trong buồng riêng
nghỉ sớm. Bà pha một ấm trà ướp
sen và âm thầm độc ẩm. Anh cháu
bà tỏ ra là người chu đáo. Biết
bà về nước chơi, anh nhờ một bà
già quen sao tẩm một mẻ trà đặc biệt
đãi người biệt xứ. Ủ trà
đêm trước, hôm sau mang ra sao. Trà vừa
ngấm vị sen lại bắc xuống ủ qua
đêm nữa. Rồi lại sao, rồi lại ủ.
Vừa đủ ba lượt mới gọi là xong.
Vị sen thấm trong hương trà, không
phân biệt đâu là hương hoa,
đâu là vị mộc mạc của đất
trời nữa. Cái vị giòn ngọt thơm
thơm đầu lưỡi thấm dần vào cổ
họng, lần xuống tận ruột gan, rồi từ
tận trong gan ruột, hương vị ấm nồng
ngan ngát lại như thấm trở ra khiến
người thưởng trà như tỏa
hương. "Cả
Hà Nội cháu chỉ thấy còn bà cụ
này biết sao tẩm trà thôi cô ạ! - Anh
cháu bà bảo vậy -
Bà cụ cũng chỉ nhận làm giúp
người thật thân, mà người ấy phải
biết thưởng trà nữa". Thói
quen uống trà kiểu này có từ thời
ông nội bà. Cách uống của bà cũng
cầu kỳ lắm. Buổi tối có một u
già chèo thuyền ra hồ sen trong khu vườn
nhà, tách từng đóa sen, nhúm một
ít trà bỏ vào bên trong rồi gói lại.
Sáng sớm hôm sau, khi trên các lá sen
còn đẫm sương đêm, u già lại
chèo thuyền, lấy trà từ các
đóa sen ngậm sương ra. Những cánh
trà ẩm ướt, thoang thoảng hương
mà không chói gắt. Nước pha trà cũng
là nước hứng từ những giọt
sương đêm đọng trong các lá sen.
Đạo trà của người xưa rút
cái tinh nguyện rất đỗi đơn sơ của
đất trời nhưng lại cầu kỳ, tỷ mẩn
và rất nghiêm cẩn. Không ngờ cháu
bà, chắt của một ông tri phủ vẫn
còn giữ được phần nào truyền thống
này.
Bà là con
gái út trong gia đình bốn anh em, được
cha cưng chiều nhất. Ông cụ có thói
quen uống trà vào năm giờ chiều
cùng bạn bè để đánh cờ hoặc
tán gẫu. Những cuộc như thế bao giờ
bà cũng được ngồi bên cha. Thế rồi
thói quen thưởng trà ngấm vào bà
lúc nào không rõ. Suốt mấy chục
năm sống bên Pháp, dù bận rộn đến
mấy bà vẫn dành riêng cho mình ít
phút uống trà buổi chiều như lưu giữ
một truyền thống cũ của gia đình.
Có tiếng gõ cửa.
Đang nhấp dở ngụm trà chưa kịp
lên tiếng thì anh cháu bà chạy vội
vào đưa cho bà chiếc điện thoại.
- Cô có điện
thoại.
Bà hơi ngạc
nhiên cầm lấy ống nghe. Hai tuần nay từ khi
về nước bà chưa hề thông báo
cho bạn bè vì muốn dành trọn thời
gian cho họ hàng trước đã. Hôm nay
là ngày đầu tiên bà định trở
về nơi ấy ..
- Alô, tôi nghe
đây! - Bà nói, hương thơm phả
vào ống nghe.
Đầu dây
bên kia im lặng.
- Ai đấy, tôi nghe
đây mà.
- Bà đấy
ư? - Giọng đàn ông phía bên đầu
dây run run. Lặng đi vài giây ông mới
tiếp tục. - Tôi cứ ngỡ không bao giờ
bà về đây nữa?
- Ông đấy
ư? - Đến lượt bà run rẩy. - Sao
ông lại nói thế? Sao ông biết tôi về
mà gọi tới?
- Một người họ
hàng của bà nói với tôi. Bà
không định gặp bạn bè sao?
- Tôi về nước
cũng chỉ với ý định ấy thôi
mà. Ông vẫn ở chỗ đó chứ?
Bà giấu ông việc
chiều nay bà đã trở lại nơi ấy
nhưng không đủ bình tĩnh bước
vào.
Ông khẽ cười.
Bà thấy tiếng cười của ông già
lắm rồi. Già như gấp đôi thời
gian xa cách.
- Vẫn ngôi nhà
đó bà ạ. Năm năm tư bị tịch
thu, nhưng sau đó được trả lại một
phần ba. Ơn trời, tôi giữ được phần
bên trong, cạnh gốc cây hoàng lan.
- Cây hoàng lan vẫn
còn sao? - Không hiểu sao bà vẫn không
dám nói thật với ông là bà
đã nhìn thấy nó lúc chiều nay.
- Nó già lắm
rồi, già đến mức không buồn
đơm hoa nữa. Nó biết có đơm hoa cũng
chẳng để làm gì mà.
Bà chợt thấy
mùi hoàng lan trên mái tóc dìu dịu.
Bất giác bà
đưa tay lên vuốt mái tóc sát
vành tai. Một sợi tóc bạc vương
trên tay. Bà giơ nó ra trước mắt rồi
từ từ thả xuống. Sợi tóc như tan
trong khoảng không.
- Bà nói gì
đi chứ? - Ông giục.
- Ông sống thế
nào? - Bà bối rối thẹn thùng hỏi.
- Ơn trời, tôi sống
như mọi người. Còn bà?
- Ý tôi là ..
- Bà bối rối. - Ông bây giờ thế
nào rồi?
- Tôi ư. - Ông lại
khẽ cười. - Tôi ngày trước nếu
bà còn nhớ cộng với bốn nhăm
năm. Bà có hình dung ra tôi trong hình
hài một ông lão không? Nếu không
tưởng tượng được thì tôi mừng
lắm.
- Tôi cũng thế!
- Bà khẽ thở dài.
Tiếng ông húng
hắng ho. Vẫn thế, mỗi khi xúc động
ông vẫn thường hay ho húng hắng. Chỉ
cần vuốt nhẹ sau lưng vài cái là mọi
chuyện lại tốt đẹp.
- Ông hãy vuốt
ngực đi. - Bà thầm thì.
- Bà .. vẫn .. nhớ
ư? - Ông ghìm tiếng ho lại để
nói với bà.
Chờ cho đến khi
nghe tiếng thở đều đều của ông vọng
vào ống nghe bà mới tiếp tục.
- Hàng bàng dọc
hè phố có còn không ông?
Bà vẫn muốn
nghe từ chính ông nhắc về chút kỷ
niệm mà bà đã biết.
- Mất rồi! - Giọng
ông buồn bã. - Mất từ lâu rồi.
- Người ta chặt
phá nó ư?
- Chẳng ai cả.
- Vậy thì tại
sao chúng mất đi?
- Nắng, mưa,
gió bão .. và cái thời gian tệ bạc
bà ạ.
- Ông cười chua
chát. - Bà còn nhớ cây thứ mười
sáu không? Hồi bà còn ở đây
nó đã bị sâu bệnh. Nó là
cây đầu tiên bị chặt đi. Sau
đó ba bốn cây bị đánh bật gốc
vì mấy cơn bão đổ vào thành
phố tựa như những quả bom tấn ném xuống.
Những cây còn lại bỗng lẻ loi. Người
ta đành chặt đi để thay hàng cây
khác. Lẻ loi thì khó sống lắm bà ạ!
- Cây gì vậy?
- Đến bây giờ
tôi vẫn chưa biết hàng cây trước
nhà là cây gì?
Họ lặng đi
như mặc niệm.
- Bà đang nghĩ
gì thế? - Ông lên tiếng trước.
- Tôi nghĩ tới
con chim bạc má non. - Bà khẽ cười.
- Còn ông?
- Hồi ấy tôi chỉ
dám trèo lên xem, bà đứng dưới
làm sao nhìn thấy được? - Ông
nói đầy vẻ tự hào.
- Bà chỉ được
nghe tôi tả lại thôi.
- Nhưng tôi tin
ông.
- Bà này, bà
vẫn chưa trả lời câu hỏi của
tôi, bà sống thế nào từ bấy đến
giờ?
Bà quay ra phía
ngoài ống nghe thả tiếng thở dài
vào khoảng không.
- Ở bên ấy
chúng tôi sống lẻ loi lắm. Nhưng nếu
đã không chết thì vẫn phải sống.
"C'est la vie"(*) - Bà bỗng bật cười. -
Tôi là cây bàng cuối cùng của phố
mình còn lại ông ạ! Chắc không
lâu nữa cũng sẽ bị bật rễ.
- Phải, đã
không chết thì dù thế nào cũng phải
sống. Sống khó hơn nhiều bà nhỉ! ..
Bà sẽ đến tôi chơi chứ.
- Tất nhiên rồi.
Nhưng .. - Bà ngập ngừng.
- Bà nói đi. -
Ông có vẻ hồi hộp.
- Ông đừng thất
vọng về tôi nhớ? - Bà cười ngượng
ngùng.
- Ô .. Thế ra chỉ
có bà đã sống qua bốn nhăm năm
thôi ư? Có lẽ tôi còn phải trải
qua gấp đôi thời gian ấy vì nhiều lẽ.
- Nhưng dù thế
nào tôi vẫn là phụ nữ. Thời gian
căm thù đàn bà hơn ông ạ! - Rồi
bỗng bà bật cười.
- Mà sao tôi lại
nói với ông chuyện này nhỉ. Chúng
ta có còn trẻ nữa đâu.
- Trong ta bao giờ cũng
có một cái gì đó trẻ mãi.
Chính vì điều đó mà chúng ta
tồn tại được bà ạ! Bây giờ
muộn rồi bà hãy đi nghỉ đi. Hẹn
gặp lại sau. Bà ngủ ngon nhé!
- Chúc ông ngủ
ngon!
Bà đặt điện
thoại xuống, mỉm cười. Ấm trà
đã nguội ngắt. Nhưng bà không nhận
thấy điều đó, lơ đãng với
chén trà nhỏ như một lỗ đáo xu
nhấp từng ngụm nho nhỏ.
Một chiều bà
trở lại trại Hàng Hoa thăm người bạn.
Người này cũng một trong số ít những
người bạn nhẫn nhục vượt lên
trên cơn bão táp cuộc đời dai dẳng
đeo bám vào một phần mảnh đất của
cha ông để lại. Ngôi nhà ngang ngói
ta đầy rêu ngày trước dùng cho gia
nhân, giờ đây cũ kỹ già nua đang
kiên cường chống chọi với thời gian
là nơi sinh hoạt cho cả một gia đình
bảy người. Nó bỗng trở nên lỗi
mốt, lọt thỏm giữa những đám
nhà hiện đại hình khối ba bốn tầng,
kính đen mờ và chòm mái đua cao nhọn
hoắt trông giống chiếc mũ tây chật chội
đội trên đầu anh lực điền
thô vạm. Trước nhà vẫn còn khoảng
sân và mảnh vườn nhỏ trồng thuốc
nam. Ông cụ thân sinh ra bạn của bà vốn
là ông thầy thuốc nam nức tiếng một
vùng. Vì ông cụ chuyên làm phúc
nên Trời Phật thương phù hộ cho trong
nhà có của ăn của để. Kẻ
được ông cứu mạng sống trước
đây gặp thời đã đứng ra tố,
khiến ông cụ uất ức đổ bệnh nằm
liệt giường. Ông đã cứu bao người
nhưng đến lượt mình đành
bó tay phó mặc cho mệnh trời. Thuốc
đổ bao nhiêu cũng không lại. Người
bạn nhắc lại chuyện này vẫn còn
rưng rưng khóc khiến bà không sao đứng
dậy ra về. Bà men theo lối ngõ, cố
tìm lại một chút thân thương xưa
cũ của những vườn hoa xinh đẹp thơ
mộng thuở nào của trại Hàng Hoa
nhưng tuyệt nhiên không thấy. Những kỷ
niệm lung linh đã bị chôn sâu dưới
những móng nhà cao tầng chen chúc ngang dọc,
che khuất cả một trời nắng đẹp
thường buông lên một vùng bát
ngát ngày trước.
Tới nhà bà mới
biết ông vừa mới ra về ít phút. Anh
cháu bà kể lại, lúc bà vừa
đi thì ông gọi điện tới. Cháu
bà hẹn ông chiều lại chơi. Khoảng một
tiếng sau có một ông già cao gầy xuất
hiện. Ông mặc chiếc áo trắng phẳng
phiu, cổ thắt chiếc cà vạt tuy lỗi mốt
nhưng vẫn còn mới, vì chắc là
ít dùng, bên ngoài khoác chiếc
áo bợt màu nhưng không một vết sờn.
Ông cầm trên tay một bó hoa hồng và
một cái lẵng mây nhỏ.
- Chào cậu.
Tôi là bạn của bà Tú.
- Mời bác vào
chơi. Rất tiếc là cô cháu đi vắng!
- Tôi biết vì
chính tôi là người gọi điện thoại
lúc nãy.
- Bác cứ ngồi
chơi đợi cô cháu, chắc cô cháu cũng
sắp về rồi.
Anh pha ấm trà
ướp sen mời ông. Ông ôm chén
trà trong lòng bàn tay, lim dim nhấp từng ngụm
nhỏ với vẻ mặt khoan khoái.
- Cô cháu hễ về
muộn giờ là cháu lo lắm. Người ta
đi lại có kể gì đường sá,
luật lệ đâu, mà cô cháu lại mắt
kém nữa.
- Sao, bà ấy mắt
kém lắm à? - Ông có vẻ hơi thảng
thốt.
- Vâng, cô
cháu phải đeo kính tận bảy điốp
đấy bác ạ! - Đến thế kia ư? Thế
thì mắt như keo màng rồi còn gì?
- Đúng thế
đấy bác ạ! - Người cháu vẫn
vô tư không để ý gương mặt vị
khách như có đám mây đen vừa
lướt qua.
- Cậu có biết
ngày xưa cô của cậu đã từng
là hoa khôi khóa học trường Đồng
Khánh không?
- Cháu có nghe bố
cháu kể. Nhưng bây giờ nhìn cô
cháu thật cũng khó hình dung ..? Bố
cháu bảo có người mê đôi mắt
của cô cháu mà làm một bài
thơ, ví đôi mắt ấy như một hồ
thu mà người ấy có thể thỏa
thuê bơi lội ở trong đó. Các cụ
ngày xưa tán nhau lãng mạn ghê. - Anh
cháu bật cười. - Tán thế thì
có vững như Vạn Lý Trường
Thành cũng phải đổ bác nhỉ?
- Ấy vậy mà
không hẳn như thế đâu cậu ạ! -
Ông già buồn buồn. - Ngày xưa nói
được lời yêu không dễ như
bây giờ. Nghe được lòng nhau rồi
nhưng vẫn còn phải đợi như đợi
quả chín tới ấy. Nhiều mối tình
không thành như lỗi hẹn, nhưng
đã nên duyên thì bền chắc lắm.
Dáng ông
đã khòm nay chợt còng trĩu xuống sau
câu nói ấy. Rồi ông xin phép ra về
mặc cho anh cháu giữ thế nào cũng
không được. Trước lúc đứng
lên ông chợt buông câu nói trong tiếng
thở dài nhè nhẹ.
- Thôi thế cũng
là may!
Anh cháu ngạc
nhiên nhìn ông.
- Bác nói sao
cơ ạ?
Ông khẽ lắc
đầu và cười mơ mộng, nói lời
từ biệt:
- Nếu bà nhà
về xin cậu chuyển giúp tôi lời
chào. Mong bà có nhiều ngày vui trên
quê nhà.
Kể xong anh cháu
đưa chiếc giỏ mây quà của ông
già cho bà. Bà mở ra. Có một gói
lá sen vuông vắn, hai cọng rơm màu xanh nhạt
buộc hình chữ thập nằm gọn bên
trong. Đó là mấy lạng cốm giót mỏng
như tơ nhện, ngào ngạt. Anh cháu
nhìn món quà có vẻ ngạc nhiên lắm.
- Bác ấy cẩn
thận ghê. Nhìn cách ăn mặc cũng
đã đoán ra.
Bà nhúm một
ít cốm ra lòng bàn tay rồi phong gói cốm
lại như cũ. Bà nhặt từng hạt cốm
mỏng lên khẽ nhằn ở đầu lưỡi
để hưởng cái vị ngòn ngọt, dẻo
thơm của nó. Nhìn vẻ mặt tư lự
của bà, lúc sau anh cháu mới dám hỏi.
- Đến không gặp
cô mà bác ấy bảo là may cô ạ?
Mà trước đó bác ấy đã gọi
điện, biết cô không có nhà
nhưng vẫn đến là thế nào? Hay
là bác ấy không muốn gặp cô
nhưng lại không thể không đến?
Bà khẽ cười
lắc đầu.
- Không phải thế
đâu .. à, ông ấy trông thế nào
hả cháu?
- Trông đã thấy
là người chỉn chu. - Anh cháu không hiểu
ý vui vẻ nói. - Dáng vẻ phong nhã lắm,
mặc dù đã già. Đôi giày của
bác ấy tuy cũ nhưng không một hạt bụi.
Nhìn đôi giày của cháu mà
phát ngượng.
Không nghe lời tả
tỉ mỉ của anh cháu, bà mơ màng
nói.
- Ông ấy ngày
xưa đẹp lắm đấy. Bao nhiêu cô
gái liêu xiêu vì nụ cười của
ông ấy.
- Hay nhỉ, nghe bác ấy
và cô nói chuyện cháu có cảm
giác ngày ấy bác và cô đẹp
nhất Hà Thành này.
Anh cháu cười,
còn bà xấu hổ chống chế.
- Cô thì đẹp
gì đâu!
Thấy bà cô vui
vẻ, anh cháu mạnh dạn hỏi:
- Cô ơi cho
cháu tò mò một chút, ai ngày trước
mê đôi mắt của cô mà làm
thơ tặng thế? Người ấy bây giờ
có còn không?
- Còn chứ. Mà
nhắc lại chuyện đó làm gì?
Đột nhiên
bà tháo cặp kính ra day day đôi mắt
nhăn nheo đã bị sụp mí lờ đờ,
dài dại.
- Giá mà
cháu được gặp người ấy nhỉ?
- Sao lại phải thế?
Bà đeo cặp
kính lại nhìn anh cháu vẻ tò mò.
- Để nghe họ
nói chuyện cô ạ. Cách những người
ấy nói chuyện khác với bây giờ lắm.
- Ừ, mỗi một thế
hệ, một thời đại có một thứ
ngôn ngữ riêng mà, cũng như cách
người ta yêu nhau vậy.
Vừa lúc ấy
có khách của anh cháu đến. Tới cửa
anh ta đã nói oang oang.
- Lặn đâu
mà khiếp thế. Tìm ông suốt mấy
ngày hôm nay. Không tóm được
ông từ hôm tôi mới ở Pháp về
chơi.
Khách cười gật
đầu.
- Chào cô! - Rồi
anh ta quay sang chủ nhà thao thao. - Việc đến
đít rồi mà ông vẫn còn nhẩn
nhơ được. Đã dịch xong chưa để
tôi còn gửi sang cho họ?
- Còn một ít
nữa. Cái luận văn này phức tạp
hơn cái trước nên phải rất thận
trọng. Hẹn ông một tuần nữa.
Khách phẩy tay tỏ
ý bất mãn.
- Ông điên
à? Miễn sao nó hiểu là được.
Mà làm sao hiểu được? Bàn luận
với tây về văn học chiến tranh Việt
Nam khác nào gõ trống cho mấy thằng
điếc nghe. Phiên phiến thôi. Bọn nó
ô kê tất ấy mà. Thôi được,
một tuần nữa ông đúng hẹn cho đấy.
Tôi phải biến đây. Một thằng phun thuốc
sâu hôm nay bảo vệ xong luận án
chiêu đãi cả bọn, chúng đang đợi
tôi về.
Anh ta lại khẽ gật
đầu chào bà rồi xăm xăm bước
ra không đợi chủ nhà ra tiễn. Anh ta đến
và đi nhanh như một làn gió tràn
qua khoảng trống.
Thấy vẻ ngơ
ngác của bà cô, anh cháu phân trần.
- Anh ta nhận mấy luận
văn ở nước ngoài gửi về rồi
thuê cháu dịch, đứng giữa ăn hoa hồng.
- Thế là thế
nào?
- Cô không hiểu
à? Người ta ra nước ngoài làm luận
văn, nhưng viết nó bằng tiếng Việt rồi
sau đó mới dịch ra tiếng nước ấy
để bảo vệ.
- Thế người
làm luận văn đâu mà không làm
lại gửi ngược về nước thuê dịch
thế?
- Họ bận làm
ăn. Thời gian bỏ ra ngồi dịch luận văn
mất của họ bao nhiêu cơ hội và tiền
bạc. Sự tính toán đơn thuần vì
mục đích kinh tế ấy mà cô.
- Thật lòng cô
không hiểu? Mà sao cháu lại đi làm
những việc như thế?
- Có bao nhiêu
công việc có bấy nhiêu cách làm
ăn, cô không tưởng tượng được
đâu. Cháu không làm thì họ cũng
thuê người khác. Với lại cháu cũng
phải kiếm tiền để sống nữa chứ.
Bà lắc đầu
thở dài đi vào. Vừa tới cửa buồng
cháu bà gọi giật lại.
- Cô ơi, suýt nữa
cháu quên mất. Bác kia còn dặn là
tuần sau bác ấy đi xa vì có việc
nhà. Hẹn cô tuần kia bác ấy sẽ
đón cô đến nhà chơi.
- Thế à!
Trên chiếc tủ cạnh
đầu giường, một bó hồng đỏ
thắm cắm trong chiếc lọ sứ cao thon màu
vàng nhạt. Mùi hoa chật cả căn
phòng nhỏ. Bà để giỏ mây cạnh
bình hoa. Tự nhiên không gian căn phòng bỗng
đầy lên và ấm áp hẳn nhờ bức
tranh tĩnh vật ấy. Bà chợt thấy lòng
mình dễ chịu trong nỗi dịu dàng
khôn xiết.
Tuần đó
bà dành thời gian thăm khắp lượt bạn
bè còn lại ở Hà Nội. Những buổi
gặp gỡ liên hoan, dạo chơi làm đầy
những ngày rỗi rãi. Bà dành nhiều
thời gian hơn cho vài người bạn ít
may mắn. Một người liệt giường từ
mười năm nay sau lần chảy máu não, sống
đời sống thực vật. Bà ngồi bên,
lặng ngắm nhìn bạn, cố hình dung lại
vẻ yêu kiều của một thiếu nữ
chuyên làm mẫu chụp ảnh, ngày xưa
trong hình hài già nua dăn dúm đó
nằm dính sát xuống chiếu mà không
sao nhớ nổi. Cái đầu gần như trơ
sọ, lơ thơ vài nhúm tóc lởm chởm.
Gương mặt như một cái túi da xẹp
lép. Giữa bà và người bạn
thân thiết thuở nào như đang ở
phía bên này và phía mặt trái
bên kia của cuộc đời. Ranh giới ràng
níu giữa họ là một khoảng trống
ngùn ngụt thiêu cháy thậm chí cả
những kỷ niệm êm đềm nhất. Cả
vùng ký ức đã đóng băng
và trên vùng băng giá hoang vu ấy chỉ
còn lại một bóng ma nhợt nhạt, bất
động. Gần tới lúc ra về bà mới
chợt nhận thấy một mùi nặng nặng tỏa
ra từ lớp chăn chiếu xô xát, nhàu nhĩ
mà từ lúc tới đến giờ bà
đã bị vẻ mặt âm hồn trong bạn
hút lấy. Ra đến cửa nước mắt
bà lã chã rơi ra không sao kìm lại
được. Chiều hôm ấy bà bỏ
cơm và không sao dứt ra được tâm
trạng u uất. Hôm sau nếu không vì
có một cuộc hẹn có lẽ bà
còn nằm bẹp ở trong buồng.
Người hẹn
bà đến ăn cơm cũng nằm trong
đám bạn học trường Đồng
Khánh, ngày trước thường ríu
rít bên nhau như bà bạn kia. Bà
không nhờ anh cháu đèo đi mà tự
đi bộ tới. Căn nhà quá đỗi tồi
tàn và thiếu tiện nghi. Vợ chồng họ
không có con. Ông chồng trước
đây vốn là thư ký cho một hãng
buôn, rất giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp
và cả tiếng Trung Quốc nữa. Sau năm
năm tư, ông là thư ký lưu dung cho một
cơ quan thương nghiệp, dưới quyền những
anh chàng sơ trung cấp quen nói to đi mạnh.
Ông về hưu sớm. Từ khi về hưu ông
ra ngồi góc đường Trần Hưng Đạo
lấy nghề bán chữ thánh hiền làm kế
sinh nhai vì đồng lương còm cõi
không đủ nuôi hai vợ chồng. Mỗi khi
nhìn thấy người quen từ xa, ông cắm mặt
xuống đất hoặc giả vờ lấy tay ôm
trán để che mặt. Vài người biết
điều đó nên giả bộ làm ngơ
và cũng chẳng hỏi han gì. Bà vợ lấy
ông khi mới mười tám tuổi, vừa học
xong tú tài, và luôn ở nhà lo cơm
nước. Cách đây ba năm ông cũng lại
bị chảy máu não, bị liệt nửa
thân trên, đúng phía bên phải,
cánh tay vẽ ra tiền.
- Giá mà trời
thương tôi, bắt tôi liệt nửa thân
dưới thôi thì tốt hơn không? -
Ông chồng khó nhọc nói đùa với
bà khi bà vừa mới tới. - Với tôi cái
nửa dưới có hay không cũng được
mà.
Bà vợ lôi chiếc
áo lụa tơ tằm còn thơm mùi băng
phiến ra mặc để đón bạn xa hơn bốn
chục năm mới gặp lại. Bà để
ý thấy bên vai phải có một vết
gián nhấm đã được mạng lại
rất khéo. Nếu không tinh ý khó mà
nhận ra. Nhìn đôi vai gầy của bạn
nhô hoắt sau làn áo mỏng, ngực bà
nhói lên nghèn nghẹn.
Biết bao bạn
nghèo nên trước đó bà đã
đề nghị cho bà được thưởng
thức món bún riêu cua. Suốt bữa ăn họ
chỉ nhắc lại chuyện cũ. Có những
điều tưởng không bao giờ nhớ lại
nữa, vậy mà nó vẫn cứ nấp
kín ở đâu đó, chờ làn
gió ký ức nổi lên là lại
tìm đường bay về, đậu êm ả
xuống tâm hồn đã nhàm tẻ, cằn
cỗi vì năm tháng. Những gợi nhớ
làm rơi nước mắt tưởng đã
khô cạn, làm nhòa cả cặp kính
đầu như sương đọng. Mấy lần
bà gợi hỏi về đời sống của họ
hiện nay nhưng cả hai đều lảng sang chuyện
khác. Dường như cảnh nghèo khó
không làm họ bận tâm. Mặc dù
bà biết, đêm đêm bà vợ vẫn
thức khuya ủ lạc làm phá xa để
sáng ra giao sớm cho các hàng nước.
Phá xa của bạn bà tuyệt ngon nên
lúc nào cũng được mời chào.
Để người khác biết sự nghèo
khó của mình là một điều tệ hại.
Kể lể, van xin với người khác về nỗi
cơ hàn của mình là một điều nhục
nhã. Bà biết bạn thường nghĩ như
vậy nhưng vẫn không sao làm ra vẻ thờ
ơ với gia cảnh của bạn được.
- Thôi cậu ạ! -
Bạn bà cười dịu buồn nói. -
Thì bọn mình vẫn đang sống đấy
thôi. Mà đang sống thì có nghĩa
là không chết. Chết được không
đơn giản một chút nào, đúng
không cậu!
Lúc ra về, vợ
chồng bạn tháo bức thư Đường do
chính tay ông viết trước đây
trên giấy dó tặng bà. Bà tiễn
bà ra cửa. Hai bóng già ôm nhau xiêu
xiêu trong bóng đêm. Họ cười cười
nhưng giọng ai cũng nghèn nghẹn và quay mặt
đi lén lau nước mắt.
Hôm sau thứ bảy,
bà dậy từ sớm tinh mơ, khi cả nhà
người cháu còn đang ngủ. Bà pha một
ấm trà rồi mở cửa sổ cho làn
gió sớm còn đẫm sương đêm
ùa vào phòng. Thành phố đang trở
mình tỉnh giấc.
Những ngày qua
bà đang phải sống một lúc hai cuộc
đời quá khứ và hiện tại.
Gương mặt bạn bè tuổi hoa niên
nhòa nhòa ẩn hiện. Bà cố tìm những
nét thân quen xưa cũ trong ánh mắt mệt
mỏi, mờ đục, nụ cười héo hắt
trên cặp môi nhăn nheo, trong giọng nói
như đang dần tụt sâu vào cõi
lòng mà không sao tìm được? Những
hình hài trẻ trung thân thương chìm
khuất trong tấm thân già nua mệt mỏi.
Dường như có mấy con người khác
nhau ở một lốt người trong suốt một chặng
đời. Chúng khác nhau tới mức bà
có cảm giác mình đang bị lừa dối.
Và bà cũng đang là kẻ lừa dối
đây. Không ư? Họ đã đánh mất
nhau bốn nhăm năm để khi trở về chỉ
còn nhặt được từ đống tro những
mẩu vụn đã méo mó. Những kỷ niệm
đang bị đánh tráo. Nhưng bà
không thể không trở về, cũng không thể
không gặp họ, và càng không thể
không đau đớn .. Vậy phải làm
gì đây? Bà thấy mình tựa như một
ngọn gió thổi giữa thảo nguyên,
không có gì cản trở, nhưng cũng
không có khe núi huyền bí nào mời
gọi trở về phương ấy cả.
Khoảng chín giờ
sáng bà gọi điện đến nhà
ông. Ông vẫn chưa về. Đúng như
bà đã hình dung.
Mười lăm
phút sau bà ra khỏi nhà. Lần này
bà không dạo bộ dọc theo con phố mà
bảo tắc xi đỗ kề sát cổng.
Không còn nỗi xốn xang như lần trước,
mà chỉ còn một nỗi buồn dịu
dàng chế ngự bà. Khuôn viên xung quanh
ngôi nhà đã bị lạm dụng thê thảm.
Những ngôi nhà mái bằng con con đã
được xây cất nham nhở ngỗ ngược.
Thật may, khoảng trống cạnh gốc hoàng lan
thuộc quyền sử dụng của nhà ông
thì vẫn giữ được nguyên, nhỏ
bé thôi nhưng dường như nó gánh
trọn gánh nặng kỷ niệm của ngôi
nhà.
Bà choáng
váng trước người thanh niên ra mở cửa
bà. Vẫn cái dáng cao gầy thanh thoát,
phong nhã, nụ cười rộng sáng bừng
gương mặt. Vẫn là hình ảnh của
ông bốn nhăm năm trước ..
- Mời cô vào
nhà ạ! - Anh ta nhắc lại hai lần bà mới
thoát ra được nỗi mộng mị của
ký ức.
Căn phòng nhỏ vẫn
giữ nguyên không khí âm u cổ kính.
Bộ tràng kỷ bằng gỗ lim đen bóng giữa
nhà.
- Cô là bạn của
bố cháu ngày xưa mới ở Pháp về
chơi. - Bà tự giới thiệu.
- Cháu có nghe bố
cháu nói. Tiếc quá, bố cháu vẫn
chưa về. Người anh họ ở trong Nam bị ốm
nặng có lẽ khó qua khỏi nên bố
cháu chưa dứt ra được.
- Vậy à? Chẳng
hay ông ấy bị bệnh gì vậy?
- Bệnh già ấy
mà cô! Bác cháu ngoài tám
mươi, cũng là thượng thọ rồi.
- Ừ, tuổi ấy trời
gọi đi lúc nào phải ra đi thôi.
Anh ta mang một ấm
trà và đĩa nho mời khách.
- Hình như lúc
nãy cô vừa gọi điện tới? Nghe giọng
cô cháu nhận ra ngay.
- Cô gọi đấy!
- Biết bố cháu
không có nhà mà cô vẫn tới
thăm, cô thật chu đáo quá!
Bà ngượng
ngùng như sợ anh ta đọc thấy ý muốn
thầm kín của mình.
- Bởi cô không
còn nhiều thời gian.
Bà ôm chén
trà bằng hai tay để kể bên miệng, che
khuất bớt gương mặt mỗi lúc một
bối rối vì không quen nói dối.
- Cháu là con thứ
mấy của bố cháu? - Bà chủ động
hỏi chuyện để khỏa lấp lòng
mình.
- Bố mẹ cháu
có ba con trai, cháu là con thứ ba cô ạ.
- Rồi anh ta cười, nụ cười rộng mở.
- Tam nam bất phú. Khi có thai cháu, bố mẹ
cháu cứ mơ ước cháu sẽ là
gái .. Cháu là kẻ tàn phá ước
mơ của bố mẹ cháu đấy.
- Cô lại chỉ
có hai con gái.
- Giá mà nhà
cháu và nhà cô san sẻ được cho
nhau nhỉ? - Anh ta lại cười.
Bà nhìn
đăm đắm gương mặt anh ta rồi chợt
thốt lên.
- Cháu giống bố
cháu quá.
- Bạn bố cháu
ai cũng bảo thế. Có lần bố cháu
đưa bức ảnh bố cháu chụp hồi
còn trẻ cho vợ cháu xem, chính cô ấy
còn lầm đấy là cháu cơ mà.
Nhưng thế cũng buồn
lắm ..
- Sao lại buồn? -
Bà ngạc nhiên.
- Bây giờ hàng
ngày nhìn bố cháu, cháu đã thấy
trước hình ảnh của mình sau mấy chục
năm nữa. Còn bố cháu nhìn cháu
mà tiếc ngày trẻ. Cả hai cảm xúc
đó chẳng thích thú nỗi gì.
Bà khẽ cười,
nhưng trong lòng tràn ngập một nỗi
rưng rưng tê tái. Bà cũng đã từng
có ý nghĩ ấy khi nhìn đứa con
gái đầu của mình. Còn bé cũng
giống như bà từ gương mặt, cho đến
dáng đi, tính tình. Bây giờ bốn
mươi tuổi, con bé cũng bắt đầu
có vẻ âm thầm già nua của bà.
Trước khi ra về,
bà gửi lại tặng ông một món
quà nhỏ. Một chiếc cà vạt lụa
và chiếc ghim cài đựng trong chiếc hộp
da tuyệt đẹp. Còn trên tấm bưu ảnh
gửi kèm theo bà ghi dòng chữ: "Gửi
lời chào từ bốn nhăm năm trước!".
Tiễn bà ra cổng, anh con trai bắt bà hứa
là sẽ quay lại chơi với bố anh và
gia đình một lần nữa trước khi ra
đi. Bà chỉ cười mà không trả lời.
Hôm sau bà bảo
anh cháu đèo bà đi đăng ký
ngày bay trở lại Pháp. Bà quyết định
trở về nhà sớm hơn so với dự định
một tuần. Cả gia đình nhà cháu
nài nỉ thế nào bà cũng một mực
là còn nhiều việc đang đợi ở
nhà, không yên tâm chơi thêm nữa.
Bà dồn toàn bộ số tiền còn mang
theo, chia nhỏ thành phong bì có đề sẵn
địa chỉ của những người bạn khốn
khó, nhờ anh cháu gần tết mang đến tận
nhà họ giúp bà, coi như tiền mừng
tuổi bà gửi về biếu tặng. Bà cảm
thấy mọi nỗi niềm dịu đi sau việc
làm ấy, lòng nhủ lòng, còn những
việc khác thôi lần sau, lần sau ..
Biết có lần
sau không, chính lòng bà cũng mịt
mùng chẳng rõ nữa? Thôi thì trước
lúc ra đi không hẹn được ngày về,
bà cũng còn để lại chút kỷ niệm
trinh nguyên mãi. Bà chẳng phải mang theo những
vấn vương, những xót xa, những nhẫn chịu
về nhau khi hai bóng già nua soi trong đáy mắt
người kia, tìm lại hình bóng thuở
xưa và những nguồn cơn bối rối thuở
ban đầu của mình. Hãy cứ để những
giọt mưa đọng trên tán lá bàng
đổ đầy vào hai hồ thu trong vắt biếc
xanh lung linh nắng vàng mật chẳng bao giờ
khô cạn. Hãy cứ để chàng trai
chèo thuyền với nụ cười rộng mở
trong hồ thu ấy mãi mãi tuổi hai mươi
..
THÙY LINH
(@Internet)