Hậu Duệ Của Bà Tú Xương
(NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG)
Nguyễn Trần Diệu
Hương, hiện sống và làm việc tại miền Bắc
California, là tác giả có giải danh dự Viết Về
Nước Mỹ năm đầu tiên, 2001. Cho tới nay,
cô vẫn không ngừng góp bài mới và trở thành một
trong những tác giả được đọc nhiều
nhất của giải thưởng. Bài của cô lần
này là một chuyện t́nh Việt Mỹ đặc biệt.
*
Ở ngoài
nh́n vào, chúng tôi thấy Quỳnh có số khổ (nếu thật
sự đời sống có số mạng?) khổ từ
nhỏ cho đến bây giờ! Nhưng Quỳnh luôn t́m thấy
"hạnh phúc ở quanh đây, đâu là chuyện bất
ngờ".
Quỳnh có một
người anh song sinh, nhưng hai anh em chẳng giống
nhau tí nào! Thạnh chỉ ra đời trước Quỳnh
mười ba phút, nhưng nặng gấp rưỡi Quỳnh.
H́nh như Quỳnh đă biết nghĩ đến người
khác và nhường nhịn từ hồi c̣n chưa chào
đời. Quỳnh nhường cho Thạnh "ra"
trước, rồi nhường luôn thức ăn từ
lúc c̣n trong bụng mẹ cho Thạnh nên mới ra đời
Thạnh đă to cao hơn hẳn Quỳnh.
Hồi c̣n
thơ dại, học tiểu học, Quỳnh đă khác hẳn
cả lớp, không chỉ ở mái tóc ngắn cũn cỡn
như những ca sĩ của ban nhạc The Beatlles (mặc
dù Quỳnh là con gái) mà c̣n khác chúng tôi ở chỗ Quỳnh
vẽ rất đẹp và luôn sống trên .. mây, như
trong những bức vẽ của ḿnh.
Lên trung học,
mỗi lần thầy, cô giáo dạy môn văn, gọi Quỳnh
trong giờ phân tích những tác phẩm văn chương
Quỳnh luôn có những ư kiến trái ngược người
khác. Quỳnh c̣n chơi bóng bàn rất hay mặc dù thân thể
Quỳnh lúc đó dẹp lép, nhỏ con, không có chút ǵ là một
vận động viên bóng bàn cấp liên trường. Bởi
vậy chúng tôi gọi Quỳnh là "Quỳnh Omega"
để phân biệt với "Quỳnh Hercules" rất
to con, cũng chơi thể thao rất giỏi.
Lớn lên,
Quỳnh càng lúc càng khác người, nhưng cái khác người
rất dung dị, dễ mến. Quỳnh chưa bao giờ
đi học một trường lớp nào về hội
họa, nhưng vẽ rất đẹp, và mê trường
phái đầy màu sắc, rất khó hiểu của danh họa
Picasso. Khi qua Mỹ, có điều kiện đầy đủ
Quỳnh vùi đầu vào thư viện vừa để
học bài, vừa để t́m hiểu thêm về Picasso. Thế
giới muôn màu của những họa sĩ đă tạo
cho Quỳnh một nhân sinh quan càng ngày càng khác lạ. Quỳnh
mê thiên nhiên và thích vẻ đẹp nguyên thủy tự
nhiên. Điều đó không ngờ thành định mệnh
sau này của Quỳnh.
Năm học
thứ hai ở Community College, Quỳnh có một ông thầy
dạy Philosophy gàn như đa số các triết gia. Ông ta
đi dạy bằng xe đạp hoặc đi bộ, v́
không biết lái xe hơi, và v́ không muốn lái một
phương tiện di chuyển phổ thông như hơn
hai trăm triệu người Mỹ vẫn gọi là
Dutch Pennsylvania. Ông thầy này là người Amish, thuộc
ḍng dơi lớp người Đức đầu tiên di dân
đến Hoa Kỳ từ thời những người
Châu Âu theo con tàu May Flower cùng Columbus đặt chân đến
lục địa Bắc Mỹ. Con cháu những người
Đức bảo thủ đầu tiên đó vẫn giữ
cách sống từ thế kỷ mười chín, nghĩa là
họ tự chế tạo đồ dùng, phương tiện
di chuyển là ngựa, và vẫn giữ những nhà máy xay bằng
lực đẩy của gió. Từ chối những tiện
nghi mà khoa học mang đến cho nhân loại, măi cho đến
bây giờ, họ vẫn sống rất đơn giản,
đạm bạc, giữa những đồng cỏ mênh
mông, trên một phần đất nhỏ của hai tiểu
bang Pennylvania và Wisconsin. Người Amish rất khéo tay, tuy
không sống đời du mục, họ có kiểu sống
quây quần như bộ lạc. Họ vẫn học hành,
nhưng chỉ học hết học đến hết lớp
tám, nghĩa là hết Junior High. V́ theo họ, với đời
sống không cần tiện nghi do khoa học mang lại,
giáo dục từ bậc trung học (High School) trở lên
không cần thiết. Vậy mà, không hiểu lư do nào, ông thầy
người Amish của Quỳnh lại có bằng Master về
triết học. Ông ta không chịu học lái xe, mặc dù
đă về sống ở một thành phố lớn, ra khỏi
"lũy tre làng", bỏ lại sau lưng những nhà
máy xay lúa, những cái giếng quay tay từ thế kỷ
mười chín của cộng đồng Amish, những
con ngựa hiền từ, nhẫn nại của người
Amish từ cánh đồng này đến cánh đồng
khác.
Ông thầy của
Quỳnh, ở giữa thành phố lớn Dallas rất
văn minh hiện đại ở trung tâm nước Mỹ,
vẫn sống đơn giản như truyền thống
người Dutch Pennsylvania, nhưhg lại thích học hỏi,
thích đời sống khoa bảng.
Theo nguyên tắc
vật lư, điện cùng dấu đẩy nhau, điện
khác dấu hút nhau. Vậy mà, cả hai người, như
hai điện tích cùng dấu, có nhiều điểm
tương đồng: cùng tốt, cùng xem vật chất
"nhẹ như lông hồng", cùng không thực tế
chút nào, là ông thầy và Quỳnh đều ngầm để
ư đến nhau đặc biệt. Ông thầy chú ư cô sinh
viên lè phè bụi đời, tóc hoe vàng, không phải v́ thuốc
nhuộm tóc, mà v́ nắng mùa hè khô nóng của Texas. Cô học
tṛ chẳng giống ai, Mỹ không ra Mỹ, Tây chẳng ta
Tây, Tàu cũng chẳng phải Tàu, càng không giống Việt
Nam chút nào, nhưng thông minh, chăm học. Quỳnh rất
thích học giờ Triết của thầy, và t́m thấy ở
thầy những lời giảng từ tim óc, từ ḷng yêu
nghề đặc biệt, chứ không phải v́ những
cái paycheck mỗi hai tuần. Đời sống theo lối
người Amish đâu có cần đến nhiều
paycheck!
Ở giờ
học đầu tiên, khi điểm danh học tṛ, ông thầy
không thể phát âm chữ "Quỳnh" chính xác mặc
dù Quỳnh đă phát âm rất chậm cho ông nghe hai lần,
ông đành gọi Quỳnh với chữ tắt là
"Q". Quỳnh rất thích cách gọi này, v́ "Q"
phát âm theo kiểu Mỹ gần giống như
"cute", nghĩa là dễ thương. Đàn bà, con gái
bao giờ lại chẳng thích ḿnh được khen là dễ
thương. Ông thầy lại gọi tên Quỳnh là "dễ
thương", lư do đó đủ để Quỳnh
nhớ ông thầy người Amish nhất trong số rất
nhiều thầy cô trong những năm đại học.
Mùa học
trôi nhanh, Quỳnh chuyển lên trường đại học
khác, và h́nh ảnh của ông thầy dạy Triết
cũng được xếp ở một xó nào trong kư ức
đầy màu sắc của Quỳnh. Đến khi sắp
ra trường, nh́n lại yêu cầu, thấy ḿnh thiếu
mất một lớp General Education, Quỳnh quay về
Community College lấy thêm một lớp Micro- Economics để
hoàn thành yêu cầu căn bản về kiến thức tổng
quát cho bằng Cử Nhân. Học ở Commuity College vừa
rẻ, vừa dễ hơn học ở hệ thống
đại học 4 năm, nên Quỳnh có thời giờ ngẩng
đầu ngắm trời, trăng, mây nước mỗi
lần về học ở Junior College.
Định
mệnh t́nh cờ, một lần đang ngồi ở sân
vận động của trường vừa đọc
sách, vừa nh́n một chút nắng vàng hiếm có của mùa
đông Texas, Quỳnh gặp lại ông thầy dạy triết
đặc biệt của hai năm trước. Ông thầy
khoác cái cặp sau lưng như học tṛ, đang tản bộ
trên lối đi giữa những thảm cỏ xanh chung
quanh sân vận động. Thầy tṛ nhận ra ngay
"đối tượng đặc biệt" của
ḿnh, và cùng ngồi ở những bậc thang của sân vận
động, nh́n trời, nh́n đất, ban đầu nói
chuyện trời mưa, trời nắng, sau đó trao
đổi về nhân sinh quan rất đặc biệt của
nhau.
Ông thầy kể
cho Quỳnh chuyện về lại làng Amish ở Pennsylvania
thăm nhà, cái quạt xay gió vẫn thân thương, bánh ḿ
làm từ hạt lúa ḿ tự trồng lấy vẫn ngọt
ngào, kiểu ăn mặc cổ kính của đàn bà con gái
Amish vẫn c̣n sức hấp dẫn, nhưng tất cả
đă không c̣n sức cuốn hút như ngày ông c̣n ở trong
ṿng rào của cộng đồng Amish. Về lại Dallas,
ông luôn nhớ nhà, nhớ đời sống cô lập gần
gũi thiên nhiên, nhưng tŕnh độ của một
người có bằng master không thể nào thích hợp ở
một cộng đồng quan niệm tŕnh độ giáo dục
trên lớp tám là không cần thiết. V́ lẽ đó, ở
nơi nào ông thầy của Quỳnh cũng thấy cô
đơn, cái cô đơn của một người sống
trong một cộng đồng, nhưng thấy ḿnh không
thuộc về cộng đồng đó.
Quỳnh
chăm chú nghe ông thầy kể chuyện, và liên tưởng
đến nhiều người Việt Nam lớn tuổi
sống đời lưu vong ở Mỹ, cũng có tâm trạng
tương tự tâm trạng ông thầy dạy Triết của
ḿnh.
Ở quê
hương thứ hai rất nhiều người Việt
Nam, nhất là những người lớn tuổi, đến
Mỹ muộn màng, không c̣n đủ thời gian để
hội nhập vào đời sống mới, luôn thấy
ḿnh đứng bên lề cuộc sống ở đất
nước hợp chủng quốc văn minh, giàu có. Buồn
thay, chọn lựa thứ hai của họ, đời sống
ở quê nhà cũng không phải là chọn lựa hợp
lư, v́ về lại quê nhà, họ thấy ḿnh lạc loài giữa
cuộc sống đầy dối trá, lọc lừa, bất
an ngay trên chính quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn
của ḿnh. Thôi th́, dù sao, thấy ḿnh lạc lơng ở quê
người vẫn đỡ xót xa hơn thấy ḿnh lạc
loài ngay trên quê cha đất tổ.
Tương
tự như thế, ông thầy của Quỳnh chọn lựa
đời sống ở Dallas, mặc dù ông vẫn luôn bỏ
một phần tư tưởng hướng về làng
Amish, nơi ông đă trải qua ấu thơ và thiếu thời
êm đềm hạnh phúc, nơi những người thân
yêu của ông vẫn hài ḷng, an phận với đời sống
đạm bạc, gần gũi thiên nhiên.
Từ hai
khía cạnh khác nhau, ông thầy và Quỳnh đều cảm
nhận được nỗi cô đơn, lạc loài của
một người sống không đúng chỗ của ḿnh,
nhưng không làm ǵ được để thay đổi
t́nh thế. Ít nhất, họ cũng t́m được t́nh
bạn, ngoài t́nh thầy tṛ.
Mỗi khi có
giờ rảnh, Quỳnh và ông thầy lại mang giá vẽ,
mang sách ra công viên. Ở đó thay v́ "bên anh đọc
sách bên nàng quay tơ" như trong một câu ca dao ở thế
kỷ 19 của Việt Nam, ông thầy đọc sách, và Quỳnh
vẽ, lúc nào mỏi mắt, họ cùng nh́n trời và nh́n
nhau, thông cảm với "nỗi ḷng Từ Thức"
của nhau.
Mùa hè, cả
hai người cùng đạp xe đạp đến một
góc công viên của thành phố, nơi họ vẫn ngồi
vẽ, hay đọc sách.
Khi đông về,
trời lạnh cóng, ông thầy và Quỳnh gặp nhau ở
thư viện hay ở tiệm cà phê Starbucks. Quỳnh dịch
ra tiếng Anh cho ông thầy những câu thơ của Nguyễn
Khuyến "Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, Xuân tắm
hồ sen, Hạ tắm ao" hay của Nguyễn Công Trứ
"Tri túc tiện túc, đăi túc hà thời túc. Tri nhàn tiên
nhàn, đăi nhàn hà thời nhàn". Ông thầy người Mỹ
gốc Đức mê tít nhân sinh quan của những nhà nho Việt
Nam vào thế kỷ mười chín, mê văn hóa Việt
Nam, và từ từ mê luôn cô học tṛ cũ người Mỹ
gốc Việt Nam.
T́nh thầy
tṛ của họ sau ba năm biến thành t́nh bạn, rồi
t́nh yêu từ lúc nào cả hai cùng không nhớ.
Ba Mẹ Quỳnh
biết chuyện, không ủng hộ, nhưng cũng không
phản đối. Sinh con ra, ông bà biết tính từng
đứa, nhất là Quỳnh, đứa con áp út ít nói, hiền
lành, nhưng rất cương quyết trong việc bảo
vệ lập trường của ḿnh. Vả chăng, ông
thầy cũ dạy Triết của Quỳnh, và là ông con rể
tương lai của ông bà, khá hiền lành, lễ phép, chỉ
phải tội không được tháo vát lắm. Nhưng
chắc là mẫu người đó hợp với Quỳnh,
v́ đời sống của Quỳnh vốn đơn giản,
từ thời nhỏ cho đến bây giờ. Quỳnh
không phải là loại người mê vật chất, lại
chịu khó, và ít để ư đến dư luận chung
quanh. Nếu Quỳnh về làm dâu một gia đ́nh người
Amish, chắc là vẫn êm xuôi, hạnh phúc.
Rồi Quỳnh
trở thành một thành viên không chính thức của làng
Amish khi Quỳnh lấy ông thầy dạy Triết ngày
xưa. Trong ngày đám cưới, cặp vợ chồng mới
vẫn đơn giản, chân chất. Quỳnh không trang
điểm, vẫn khuôn mặt của ngày thường,
không mascara, không eyeshadow, không có cả má hồng, môi son, chỉ
có một lớp lotion để giữ da khỏi khô
như mọi ngày b́nh thường khác. Các chị của Quỳnh
thuyết phục lắm, Quỳnh mới chịu đặt
một ṿng hoa carnation tươi lên đầu, và mặc áo
cô dâu, đó cũng là cái áo dạ hội đầu tiên
trong đời của Quỳnh.
Biết tính
bạn học từ xưa, bay về Dallas nhân ngày "thiếp
theo chàng về dinh" của Quỳnh, chúng tôi cùng không
trang điểm, không ăn mặc cầu kỳ như khi
đi dự những tiệc tùng, đám cưới khác.
Chúng tôi muốn ḥa đồng với bạn trong ngày vui nhất
đời của Quỳnh như thời nhỏ dại,
chúng tôi vẫn có đồng phục giống nhau thời
tiểu học.
Quà cưới
cho Quỳnh không phải là một tấm check có giá trị
gấp ba giá trị của bữa ăn mười món ở
một nhà hàng sang trọng, mà là một US saving bond mười
năm của chính phủ được mua bằng tiền
đóng góp của bạn học thời Tiểu học
đang sống đời lưu vong ở khắp năm châu
bốn biển. Chúng tôi muốn để dành tiền cho Quỳnh
để pḥng khi gia đ́nh nhỏ của bạn "tối
lửa tắt đèn" về tài chánh.
Ông thầy
cũ, bây giờ đă là chồng của Quỳnh, vẫn
có dáng dấp Triết gia, mặt mày sáng sủa, nhưng lúc
nào cũng như ch́m vào hư không, ngay cả trong ngày vui nhất
đời của ḿnh.
Đám cưới
xong, Quỳnh dọn về căn apartment của chồng,
chỉ mang theo sách, vở, giá vẽ, hai cái vợt pingpong và
một ít áo quần cần thiết. Quà cáp được
tặng Quỳnh bỏ lại cho ba mẹ và các em bởi
v́ cả hai vợ chồng đều không coi trọng vật
chất.
Khi Quỳnh
về thăm nhà chồng ở làng Amish, Pennsylvania, không chỉ
gia đ́nh chồng mà dân làng Amish quư Quỳnh vô cùng, v́ Quỳnh
là người đầu tiên trở thành một thành viên của
cộng đồng Amish mà không bị "cultural shock".
Ngược lại, nhà chồng và người làng Amish rất
ngạc nhiên trước vẻ dung dị, dễ
thương của cô dâu ngoại quốc ở một
thành phố lớn, vẫn sống rất thoải mái với
cách sống và tiện nghi hạn hẹp của thế kỷ
mười chín.
Ở đó,
một thị trấn heo hút của tiểu bang Philadelphia,
Quỳnh có thể thấy được màu vàng xanh của
trăng non, màu vàng cam của trăng già mỗi tháng mà không
cần phải tắt hết đèn trong nhà. Ở đó,
Quỳnh không thấy mệt mỏi trước những sức
ép đầy bon chen của đời sống thường
nhật. Và ở đó, Quỳnh thấy lại được
h́nh ảnh tương tự những nhân vật thần
thoại trong truyện cổ tích Việt Nam.
Khi ông thầy
ngày xưa, bây giờ đă là chồng, muốn theo đuổi
chương tŕnh học để lấy bằng tiến
sĩ, Quỳnh đồng ư ngay, mặc dù lúc đó Quỳnh
sắp cho ra đời đứa con đầu ḷng.
Kể từ
lúc đó "Quỳnh Omega" của chúng tôi trở thành
"Bà Tú Xương" ở Mỹ. Bởi v́ nỗi vất
vả của Quỳnh vượt trội hơn khó
khăn của những bà vợ khác ở Mỹ.
Chồng
không phải là loại người tháo vát, Quỳnh gánh lấy
" mọi việc đàn ông" trong nhà: thay nhớt xe,
thay một miếng gạch vuông bị bể từ bathtub,
sơn một lớp sơn chống mục cho cái balcony bằng
gỗ .. Vậy mà Quỳnh chấp nhận tự tại,
an nhiên, với nụ cười rạng rỡ, hạnh
phúc.
Dù đời
sống vật chất "không bằng chị bằng
em" hai vợ chồng trông trẻ hơn tuổi nhiều.
H́nh như khi người ta không bận ḷng với đủ
thứ bill, đủ thứ statement hằng tháng, đầu
óc thảnh thơi, quá tŕnh lăo hóa cũng bị đẩy lui,
không bành trướng nhanh chóng như đối với những
người mải mê lặn ngụp trong "cái ṿng danh lợi
cong cong". Cho nên hai vợ chồng vẫn giống
như h́nh chụp trong đám cưới hơn năm
năm trước.
Chồng Quỳnh
trở lại trường theo đuổi chương
tŕnh tiến sĩ, chuyển từ full time sang part time, rồi
nghỉ hẳn không đi làm. Quỳnh xoay sở một
ḿnh, đi làm full time, đưa chồng (v́ chồng Quỳnh
vẫn không chịu học lái xe), đón con, nấu ăn
đủ món: món Đức cho chồng, món Mỹ cho con và
món Việt cho ḿnh. Khi nào mệt quá, Quỳnh nấu một
nồi soup lớn với đủ thứ c̣n lại trong
tủ lạnh, gọi là "international dish", vợ chồng
con cái vẫn vui vẻ ngồi bên nhau "ăn để
sống, chứ không phải sống để ăn."
Ngày xưa bà
Tú Xương "quanh năm buôn bán ở ven sông, nuôi đủ
năm con với một chồng" , ngày nay Quỳnh chỉ
phải nuôi một con với một chồng nhưng nếu
so sánh thi hai nỗi vất vả chắc cũng thuộc
loại "bên tám lạng, bên nữa cân". Khi chúng tôi
"ngả mũ chào thua" về sự đảm
đang, có thể sánh ngang hàng bà Tú Xương của Quỳnh,
bạn vẫn cười tươi, đưa ra lời
giải thích của một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan
đạo:
- Có lẽ tại
tao thích "vác thánh giá", dù nặng nề, nhưng nếu
ḿnh vác nổi th́ hạnh phúc vô cùng.
Cứ tưởng
tượng Quỳnh xoay như chong chóng cả ngày với
đủ thứ công việc: ở sở, ở nhà,
đưa chồng đến trường, đưa con
đi trung tâm giữ trẻ, rồi đón cả hai về
nhà vào cuối ngày, chúng tôi phục sức làm việc và tấm
ḷng cùng khả năng chịu đựng của bạn, vậy
mà Quỳnh vẫn cười tươi, vẫn an nhiên hạnh
phúc, và vẫn sản xuất "babies" đều
đều. Đến khi chồng Quỳnh xong Tiến
sĩ, phải mất gần một năm sau, anh ta mới
xin được việc làm hợp với khả năng
của ḿnh. Cuộc sống khá hơn v́ có hai nguồn thu nhập,
nhưng vợ chồng Quỳnh vẫn sống giản dị,
vẫn không màng đến vật chất. Lúc này, đến
phiên chồng Quỳnh trở thành " bread winner" trong
gia đ́nh, bạn của chúng tôi may mắn hơn bà Tú
Xương ngày xưa. Gia đ́nh nhỏ của Quỳnh vẫn
quay về làng Amish mỗi năm một lần. Trong tủ
quần áo của Quỳnh ngoài áo dài Việt Nam với
khăn vành để mặc vào dịp tết âm lịch
c̣n có lễ phục của phụ nữ Amish với mũ
đội đầu vào dịp lễ Thanksgiving. Và con của
Quỳnh được dạy theo cả hai văn hóa Việt
Nam và văn hóa của người Dutch Pennsylvania. Giống
hệt bố mẹ, con Quỳnh không mê tivi, mê chơi game
như các bạn cùng tuổi, mà mê thiên nhiên, mê đọc
sách, thích vẽ và thích những tṛ chơi ngoài trời.
Điều đặc biệt là cả hai "tác phẩm"
của vợ chồng Quỳnh đều nói rất thông
thạo cả ba thứ tiếng Mỹ, Việt và Đức.
Mỗi lần
có dịp ghé Dallas thăm Quỳnh, chúng tôi vẫn đùa
ḿnh đang trở về với thế kỷ 19, mặc dù
nhà Quỳnh vẫn có đủ phương tiện của
Thế kỷ 21, có đủ computer, fax machine và cả
plasma tivi (chỉ để coi chương tŕnh discovery và
PBS, chương tŕnh giáo dục cho trẻ con ở Mỹ).
Không giống như hầu hết đàn bà, con gái ở Mỹ,
Quỳnh không thích shopping, không thích ăn ngon, mặc đẹp,
mà quan niệm chỉ nên ăn đủ no, mặc đủ
ấm, giống hệt ông chồng người Amish. Hai vợ
chồng cùng coi vật chất nhẹ tựa lông hồng,
cùng tránh xa "cái ṿng danh lợi cong cong" cùng biết
theo lời dạy của văn hào Dale Camegie và dịch giả
Nguyễn Hiến Lê "quẳng đi lo đi để
vui sống" nên năm tháng trôi qua, vợ chồng Quỳnh
vẫn vậy, vẫn giống như ngày họ mới gặp
nhau, dù vẫn ở trong khu apartment gần nơi làm việc
để chồng Quỳnh có thể đạp xe đến
sở làm.
Khi kỹ thuật
hi-tech ở Mỹ lên đến đỉnh cao, và phải
tuột dốc như quy luật chung "what goes up, will be
down", Quỳnh bị mất việc.
Chẳng những
không buồn, Quỳnh c̣n vui v́ có dịp trở lại
trường học, học về hội hoạ, và hoàn tất
chương tŕnh Cao học về Information System Technology. Trời
thương, chồng Quỳnh vừa được kư hợp
đồng giảng dạy ba năm với một trường
Community College, nên Quỳnh vẫn trẻ trung, an tâm khoác cặp
trở lại trường học, an tâm "dùi mài kinh sử"
full time thêm hai năm nữa để lấy bằng cao học.
Mỗi sáng,
Quỳnh chở hai đứa con đến trường
tiểu học bằng chiếc Volvo cũ kỹ rồi
đến lớp học của riêng ḿnh, không phải là
"con đi trường học, mẹ đi trường
đời" như trong ca dao Việt Nam, mà cả mẹ
lẫn con đều được đến trường
học. Chiều về Quỳnh tất tả đón con,
đón chồng rồi về nhà nấu ăn, lo cơm tối
tươm tất, lo sẵn thức ăn trưa ngày mai
mang theo cho chồng, cho con và cả cho ḿnh.
Có lần cả
gia đ́nh Quỳnh qua Đức thăm quê xưa của
nhà chồng. Chuyến Vacation chỉ kéo dài hai tuần,
nhưng đủ để Quỳnh ghi lại nhiều
nét đẹp thiên nhiên của quốc gia đă nổi tiếng
với bức tường ngăn đôi Đông và Tây Bá
Linh thời chiến tranh lạnh trên những bức phác thảo
của ḿnh.
Người
Châu Âu vốn chăm chút cách ăn mặc hơn người
Mỹ, vợ chồng Quỳnh lại là một trong những
người Mỹ ăn mặc xuề xoà nhất, nên nổi
bật giữa những người Đức cao to ăn
mặc chỉnh tề. Hơn nữa như từ thưở
nào, Quỳnh luôn dẹp lép, gần như chỉ có da bọc
xương, mà không hề có mỡ (body fat của Quỳnh
chắc chưa đến 1%), không thể t́m được
áo quần vừa với khổ người, nên trông giống
như dân Hipppies của thập niên 70. Lâu lâu bị các chị
càu nhàu về chuyện ăn mặc không được
"mode" lắm, Quỳnh biện luận rất dễ
thương, tuy không thực tế chút nào:
- Ở Mỹ,
áo quần cho đàn bà con gái, số nhỏ nhất là số
zero, cũng quá rộng đối với Quỳnh. Khi nào
người ta sản xuất áo quần số âm, bảo
đảm em sẽ ăn mặc không thua tài tử Hollywood.
Mỗi khi gặp
phải quá nhiều "stress", quá nhiều áp lực từ
đời sống, chúng tôi vẫn bảo nhau cố gắng
giản dị như Quỳnh, nh́n đời qua lăng
kính màu xanh, và cố tránh xa mọi cám dỗ vật chất
thường t́nh, nhưng thật ra làm được
điều đó không phải dễ đối với một
người b́nh thường. Quỳnh làm được,
và rất hạnh phúc v́ Quỳnh là "Quỳnh omega" là
một hậu duệ tuyệt vời của bà Tú
Xương, của những người hiền phụ Việt
Nam suốt đời hysinh cho chồng con, cho người
khác, mà không hề nghĩ đến ḿnh. Quỳnh c̣n khuyên
chúng tôi (nghe quen quen như một philosopher nào đó đă viết
trong sách):
- Cứ sống
như hôm nay là ngày cuối cùng trong đời của ḿnh,
như vậy sẽ không phải nhọc ḷng bon chen, không phải
sa sút tinh thần khi thấy ḿnh chưa bằng ai. Càng chạy
đua theo vật chất, càng tự làm khổ ḿnh, và dễ
lên "lăo làng" trước thời hạn!
Giữa
Dallas dập d́u của Texas, Quỳnh vẫn thấy
được thời thơ dại êm đềm ngày c̣n
nhỏ ở quê nhà, mà không cần phải vận dụng
nhiều đến kư ức và trí tưởng tượng
như chúng tôi. Chồng Quỳnh vẫn thấy được
cái hoang sơ êm đềm của cộng đồng Amish ở
một làng quê xa xôi hẻo lánh của Pennsylvania, hai đứa
con nhỏ của họ vẫn thích chơi thả diều,
có tiếng sáo diều vi vu, hơn là chơi game. Và như vậy,
phải chăng hạnh phúc đâu có cầu kỳ và khó t́m
như người ta vẫn nghĩ?
Nguyễn
Trần Diệu Hương
* Đầu năm 2005 - Viết
cho TH, hoa hồng vàng của Texas *
(Trịnh Gia Trang sưu tầm
và chuyển)