Chiếc Nanh Heo Rừng
(Tác giả: Phương Hoa)
Tác giả sinh năm 1950, đến
Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng,
hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại
học ngành Early Childhood Education (giáo dục nhi đồng)
tại Chapman University miền Nam California hồi tháng 5, 2012
khi tṛn 62 tuổi, đang volunteer tại một trường
học ở Marysville trong khi chờ đi dạy.
Phương Hoa đă nhận giải Danh Dự Viết Về
Nước Mỹ 2013 và tiếp tục viết nhanh, viết
khoẻ. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.
* * *
Nó h́nh cong lưỡi
liềm, dài chừng bảy phân tây, đầu mũi nhọn
hoắt, đầu gốc vun vun dẹp được bọc
bạc và chạm trổ dày đặc hoa văn, sáng trắng
đồng màu với sợi dây chuyền. Ṭan thân nó bóng
loáng màu ngà, nhưng khoảng giữa có điểm những
đường vân nâu sậm vắt ngang xeo xéo. Nó
được đặt trên chiếc khăn trắng nằm
cạnh hồ bơi, khăn của trung tâm thể dục,
cùng với cái b́nh nước nhỏ màu xanh loại có gắn
ống hút.
Đó là lần
đầu tiên tôi nh́n thấy nó, trong lúc ngồi chờ xem
có ai đó "get out" khỏi hồ bơi, để
tôi .. nhào vô. "Racquet & Health Club" là trung tâm thể dục
rất lớn, tọa lạc tại một vùng gần ngoại
ô thành phố Yuba, xung quanh có nhiều cây maple (cây thích) và những
khóm hoa dạ lư. Trung tâm có đầy đủ các lọai
dụng cụ thể dục, nhiều sân Tennis, pḥng tắm
hơi, tắm nắng, bốn hồ bơi và hồ
"Spa" đấm bóp nước nóng, nước lạnh,
trong nhà và cả ngoài trời. Mỗi hồ bơi
được chia ra bốn làn đôi có ngăn dây nổi,
mỗi làn cũng được chia hai bằng một vạch
sơn đen dưới đáy hồ, đủ chỗ
cho hai người bơi chung. "Nếu anh chị thấy
trong làn chỉ có một người bơi, th́ anh hoặc
chị có thể vào bơi "share" với họ,"
người quản lư đă nói trong ngày đầu chúng tôi
đến ghi danh. Tuy đă gần cuối mùa hè và trời
cũng chớm sang thu, nhưng khí hậu vẫn c̣n oi bức,
có ngày nhiệt độ đến trên chín chục nên hồ
bơi là chỗ hấp dẫn nhiều người,
đôi khi không đủ chỗ.
Bơi lội là sở
thích của tôi v́ tôi đă sống và lớn lên ở thành phố
biển Nha Trang từ thời "tuổi ngọc." Cho
đến bây giờ, mỗi lần nhào xuống biển
hay hồ bơi là tôi như "cá gặp nước,"
vùng vẫy lung tung, phải được một ḿnh một
cơi bơi tự do, bơi ào ào th́ mới "đă," chứ
bơi chung với ai đó cứ phải từ từ, len
lén sợ nước văng làm phiền thiên hạ tôi thà
là .. ở nhà sướng hơn. Hơn nữa, sau mấy
tháng tập trung vào kiểu bơi sải vận động
toàn thân, cái lưng đau của tôi đă được
điều chỉnh rất nhiều nên tôi cố gắng
"lôi" ông xă đến trung tâm hầu như mỗi
ngày. Khi nào hồ bơi đông người, tôi ngồi trên
dăy bờ tường thấp ngăn giữa hồ bơi
và hồ nước nóng "Spa" chờ có người
ra trống chỗ để tôi vào bơi một ḿnh cho thoải
mái. Nhờ vậy mà tôi mới có dịp nh́n thấy chiếc
nanh heo.
Ngày xưa trong thời
kỳ chiến tranh, tôi đă từng nghe nói có nhiều
người qua tận bên Miên để t́m mua nanh heo rừng
về đeo. Trừ những tay anh chị giang hồ
đeo nanh heo rừng để "làm oai," phần lớn
người ta tin tưởng đeo nó sẽ mang lại
may mắn và nhất là giúp cho sự an toàn, bảo vệ
tính mạng tránh khỏi "tên bay đạn lạc."
Tôi c̣n nhớ khi
tôi c̣n nhỏ, ở xă tôi có một người làm nghề
pháp sư tên Kỵ, thường được người
ta rước đi chữa bệnh tà, cúng đất, cúng
cầu an cho gia đạo. Một lần ông ấy đến
cúng đất cho người hàng xóm gần nhà tôi, ông có
đeo chiếc nanh heo trên cổ. Tôi và đám con nít xúm lại
coi và sợ hăi tản đi khi thấy ông làm phù phép, dùng
sơn đủ màu vẽ những "ông tướng"
mặt mày dữ tợn rồi đem "trấn" ở
bốn góc rào nhà ông hàng xóm. Từ đó mỗi lần
đi học ngang qua chỗ mấy ông tướng ngồi,
nếu không có ai đi cùng th́ tôi nhắm mắt chạy thục
mạng, cố vượt qua khỏi chỗ "các
ngài" càng nhanh càng tốt.
Buổi tối
hôm đó sau khi xong lễ, mọi người đến
ăn cỗ xúm lại ngồi quanh đàm đạo cùng
ông thầy. Bọn con nít chúng tôi cũng lao nhao trong nhà bếp
rập ŕnh hóng chuyện. Ông thầy Kỵ đă rất tự
hào về chiếc nanh heo rừng mà ông cho là linh thiêng,
đem lại "quyền lực" và "đạn bắn
không trúng" của ông. Ông ta nói đó là chiếc nanh
"Heo Rừng Rủ" rất quí hiếm, độc nhất
vô nhị, v́ nó là nanh của "heo rừng thành tinh" và
rụng tự nhiên mà người thầy Miên của ông
đă "yểm bùa" vào trước khi tặng ông, chứ
không phải được lấy từ heo rừng
săn bắn. Ông c̣n kháo rằng nó đă cứu ông thoát chết
nhiều lần, đạn bắn vào ông không trúng, cà nông nổ
gần kề cũng "chả ăn thua."
Có phải thật
sự chiếc nanh heo rừng đă "pḥ tŕ" cho ông ta
hay chăng th́ không ai dám chắc, nhưng người ta thấy
ông ấy sống an nhàn tự tại hành nghề "phù thủy"
và sau 75 vẫn ung dung làm thầy cúng cho đến hết
đời mà không một lần bị bắt bớ, dù
cũng có nghe chính quyền mới nhiều lần đến
"bố ráp" ông. Người ta đồn rằng
"ông heo rừng" thành tinh đă che mắt "mấy
ổng" để cứu ông thầy.
Không ngờ bây giờ
ở Mỹ mà cũng có người đeo nanh heo rừng.
Tôi thích thú nghĩ thầm rồi tẩn mẩn quan sát xem
ai là chủ nhân của nó. Dưới hồ ngay chỗ
để chiếc nanh heo, một tay bơi có mái tóc ngắn
bạc trắng muối tiêu đang sải tay vun vút, lặn
hụp nhịp nhàng làm nước văng tung tóe sang cả
những làn bơi bên cạnh. Tôi căng mắt ra nh́n, cố
đoán xem đó là nam hay nữ, nhưng không thể. Người
ấy bơi liên tục không nghỉ tay, bơi giáp đến
bên này là hụp ngay xuống để trở đầu,
đạp tống vào thành hồ, vút một cái đă thấy
cách bờ hồ xa lắc, y hệt một tay bơi
Olympic. Quan sát một hồi, tôi cũng chỉ có thể thấy
loáng thoáng được cái đầu tóc muối tiêu, hai
cánh tay áo ngắn màu nâu nâu đỏ, đôi kiến lội
(goggle) đen ng̣m ng̣m, và đôi chân nhái xanh màu mực vung vẩy
giữa đám bọt nước trắng xóa.
Bỗng bên góc trái
có một bà trèo lên khỏi hồ. Tôi vội vàng đứng
dậy, bước lại chỗ ṿi nước lọc, uống
vài ngụm rồi phóng ùm xuống hồ và bắt đầu
bơi. Thường th́ tôi bơi tính đủ mười
"lap" tức là bơi qua lại hai chục ṿng, sau
đó ôm miếng xốp bơi nhẹ bằng chân, thư
giăn trong ṿng mười lăm phút nữa rồi qua hồ
nước nóng "Spa" để cho nó "đấm
lưng." Nhưng hôm ấy dù cố gắng cách nào tôi
cũng không thể tập trung đếm "lap"
được v́ mắt tôi cứ măi dán vào cái làn bơi
"nanh heo" ở cuối hồ. Người ta nói
"đàn bà là chúa ṭ ṃ" quả không sai. Thật là kỳ
cục. Không dưng tôi lại quan tâm, muốn biết mặt
chủ nhân của chiếc nanh heo để làm ǵ nhỉ.
Tôi cố gắng đến hụt hơi, bơi theo cùng
chiều với "người bên ấy" nhưng
không tài nào bắt kịp, chỉ qua được nửa
đường th́ người ta đă "lộn mèo"
trở lại, liên tục không dừng lấy một lần.
Tôi thầm phục cho sự dẻo dai của tay bơi.
"Ngược
xuôi tơi tả," hết bơi lại rồi lại
bơi qua, cho đến khi tôi đuổi kịp về
nơi bắt đầu th́ cũng là lúc người đó
ngừng bơi, đứng lên chống hai tay thót ngược
ngồi vắt vẻo trên bờ hồ. Th́ ra đó là một
"lăo bá bá." Ông ta gỡ cặp kiếng lội ra, chộp
lấy chai nước nút lấy nút để như một
đứa bé bú b́nh. Tôi cũng dừng lại, vừa thở
vừa làm động tác lội bộ vừa nh́n sang chỗ
ông ta.
Người này
trông chưa già lắm, nhưng có lẽ cũng đă quá sáu
mươi, mặc quần sọt hoa nâu màu lính, và cái mà tôi
tưởng là "tay áo" lại là những h́nh xâm dày
đặc trên hai cánh tay, từ vai chạy dài xuống
đến khuỷu tay. Dáng người gọn gàng, khuôn mặt
xương xương, chóp mũi nho nhỏ đỏ hoe
v́ lạnh, mắt sâu, hàm râu quai nón được gọt tỉa
kỹ càng nhưng đă mọc ra lún phún làm khuôn mặt ông
trông xanh ḱn kịn và "ngầu" như tài tử cạo
gội Al Pacino.
Uống nước
xong, ông ta chống hai tay lên bờ hồ thở dốc, làm
như đă nhịn thở trong thời gian bơi liên tục
vừa qua. Quần tắm hoa rừng, râu quai nón, tay chân ḿnh
mẩy đầy lông, những h́nh xâm rậm rạp, tất
cả những thứ ấy gộp lại làm cho ông ta nh́n
giống hệt một "bác" King Kong đang ngồi
thư giăn trên cành cây sau một hồi "quần nhau"
với đồng loại.
Được một
lát, người đó rút đôi chân nhái bỏ sang bên cạnh,
nhặt sợi dây chuyền nanh heo lên, tay kia lấy khăn
lau tóc lau mặt xong th́ đeo nó vào cổ. Bất chợt
ông ta cầm lấy chiếc nanh heo đưa lên môi hôn một
cái rất là trang trọng, giống như người ta
hôn cây thánh giá, rồi đứng lên vơ vội chiếc
khăn và mọi thứ, bước nhanh qua phía hồ
nước nóng "Spa." Tôi sững sờ nh́n theo. Chiếc
nanh heo rừng chắc chắn có một ư nghĩa nào đó
rất quan trọng đối với người này. Tôi
bèn đặt tên cho ông ta là "người nanh heo," và
bắt đầu theo dơi ông từ hôm ấy.
Tôi thấy ông ta hầu
như mỗi ngày ở hồ bơi, lúc nào ông cũng đến
vào khoảng 12 giờ trưa, lặp lại những động
tác quen thuộc, cởi bỏ sợi dây chuyền trên chiếc
khăn, xuống bơi một hơi, lên bờ, đeo nó
vào và đi qua hồ nước nóng. Điều làm tôi ngạc
nhiên là ông ta liên tục chạy qua chạy lại giữa
hai hồ nước nóng và nước lạnh. Nước
nóng th́ quá nóng, c̣n hồ nước lạnh th́ lạnh
như đá, thế mà ông ta có vẻ như không thấy lạnh
chút nào, nhúng xuống hồ "Spa" một lát th́ trèo lên
chạy sang hồ nước lạnh và ngược lại.
Tôi có nghe người
ta nói, ngâm ḿnh vào hồ nước nóng sau đó nhúng sang hồ
nước lạnh sẽ làm cho sức khỏe dẻo dai,
da thịt săn chắc, nhưng chưa một lần dám
thử. Nh́n ông ta, tôi chợt liên tưởng đến miếng
sắt người thợ rèn ở làng tôi ngày xưa trui
vào lửa cho đến đỏ ḷe rồi đem nhúng vào
nước kêu cái xèo và lặp đi lặp lại cho đến
khi miếng sắt thật sự cứng đủ làm ra
cái rựa. H́nh như nhờ vậy mà ông ta trông khỏe mạnh
rắn chắc và nhanh nhẹn so với những người
cùng độ tuổi ông mà tôi thường gặp, mập
mạp phốp pháp, ngực lép bụng ph́nh, đi đứng
rủng rỉnh rung rinh, lờ đờ chậm chạp.
Ông ta nào biết
đă bị tôi quan sát kỹ như một thám tử
đang theo dơi người bị t́nh nghi. Rất may nhà tôi
không thích ra hồ bơi mà chỉ chăm lo rèn luyện mấy
cái bắp thịt của ông ấy bằng cách kéo máy và chạy
bộ trên Treadmill chứ nếu không có lẽ ổng
cũng "question" về cái vụ tôi cứ "mắt
la mày lét" nh́n theo ông Mỹ đó. Nhiều lần tôi muốn
lại bắt chuyện làm quen để hỏi về cái
nanh heo, nhưng mỗi lần tôi gật đầu chào th́
ông ta chỉ gật đầu chào lại, mặt mày lạnh
tanh, khó đăm đăm như người "bị
bón," nên tôi cũng ngán.
Dịp may đến
với tôi một tuần sau đó, khi trung tâm tổ chức
cuộc thi Tennis thường niên có ăn tối và ḥa nhạc.
Chúng tôi mua hai vé để sau khi tập thể dục xong sẽ
ở lại chung vui, v́ cụ chàng nhà tôi cũng có "máu
Tennis" đầy người. Đến quá trưa th́
một dàn nhạc "dă chiến" được sắp
xếp, chuẩn bị ở băi đậu xe cạnh dăy
sân Tennis. Tất cả các sân Tennis và lối đi đều
được xịt sơn xanh, màu xanh của mạ giống
như sân cỏ thật, nh́n rất mát mắt. Các cây dù lớn
màu sắc sặc sỡ được dựng lên rải
rác khắp nơi cùng với bàn ghế bày ra bên dưới,
và mấy ḷ nướng "Barbecue" bự chảng nằm
ngạo nghễ chênh vênh ở một góc sân đang bắt
đầu ngùn ngụt nhả khói, những làn khói thơm lừng
mùi thịt nướng hấp dẫn người ta, làm
cho ai hít vào cũng phải .. chảy nước miếng.
Khi chúng tôi ở hồ
bơi ra th́ khán giả đă ngồi kín hết các nơi có
bóng mát bên ngoài sân Tennis, kể cả trên hai dăy ban công của
trung tâm. V́ không c̣n chỗ trống, chúng tôi phải ra ngoài
băi đậu xe và chọn cái bàn dưới gốc một
cây maple cho dễ nh́n vào sân Tennis và cũng khỏi mất
công dời đi khi họ phục vụ bữa ăn chiều
sau trận đấu.
Chúng tôi thích thú ngồi
xem nhiều trận đấu "ác liệt" giữa
các đội nhà với nhau, những tay vợt "cây nhà
lá vườn" nhưng chơi cũng hùng dũng chẳng
kém ǵ anh em song sinh nhà Mike Bryan và Bob của Mỹ. Các đội
nữ chơi cũng đẹp mắt vô cùng. "Xem mấy
trận đấu thật là đáng đồng tiền
bát gạo!" Ông nhà tôi thích quá nói đùa.
Đến gần
chiều, khi các trận đấu vừa kết thúc th́ nhạc
bắt đầu trổi lên, vui nhộn, rộn ràng, làm
cho ai có máu "dancing" cũng phải bước đi
nhún nhẩy. Khán giả bây giờ đă trở thành thực
khách, ra chọn bàn ngồi và bắt đầu đi lấy
thức ăn. Mọi người sắp hàng, thi nhau "gắp
kẹp" vào đĩa của ḿnh. Ngoài các món đặc
sản của "chú Sam" như thịt nướng
"Barbecue," bơ, phó mát, các lọai rau trộn và trái
cây, bữa tối c̣n hấp dẫn thực khách bằng
nhiều món đậu và bánh bắp của người Mễ.
Tôi cũng đi chọn mấy món và đem trở lại
bàn ḿnh, vừa ngồi xuống th́ có một người
tay bưng đĩa thức ăn đầy vun, tay
bưng ly nước "Brunch" cao nghều bước
lại:
- Xin lỗi, tôi có
thể ngồi đây không?
Tôi nh́n lên bỗng
thấy ḷng mừng khôn tả. Người đó là "ông
nanh heo." Tôi từng theo dơi, "săn lùng" ông ta cả
tuần nay chờ cơ hội để làm quen, không ngờ
bây giờ tự dưng đến đây .. nộp mạng!
Và điều làm cho tôi "vui hết biết" là ông ta mặc
chiếc áo nhà binh loại áo vét sát cánh, quần sọt kaki,
và đội chiếc mũ lưỡi trai có hàng chữ
"Vietnam Veteran." Chiếc nanh heo vẫn ṭng teng trước
ngực. Th́ ra ông là một cựu chiến binh Việt Nam!
Thảo nào. Bây giờ th́ tôi đă có giải đáp cho xuất
xứ của chiếc nanh heo ông đang mang trên cổ. Thích
thật.
- Ồ, xin ông cứ
tự nhiên. Tôi "hồ hởi" nói với ông khi nhà
tôi cũng vừa đem thức ăn lại.
Ông ta nói cám ơn
rồi ngồi xuống. Cái đĩa của ông đầy
thật là đầy, nhưng ngoài mấy miếng thịt
nướng ra, c̣n lại toàn là các loại rau đầy
màu sắc, xà lách xanh, cà nút đỏ, ớt bell vàng, nấm
trắng, hột ô liu đen, những mảnh bánh ḿ sấy
.. và bên trên là một lớp "Dressing" màu sữa đục
được tưới ngoằn ngoèo khéo léo nh́n thật
bắt mắt. Tay này quả là biết cách ăn uống
"healthy," tôi thầm nghĩ.
Trong tiếng nhạc
vui rộn ră, tôi vừa ăn vừa ngầm quan sát người
khách cùng bàn. Ông ta dùng nĩa trộn tất cả lại và
bắt đầu nhai ngồm ngoàm, cắm cúi ăn không cần
nh́n ai, ăn mạnh mẽ như "tằm ăn
lên," chỉ thỉnh thoảng dừng lại uống
vài ngụm nước và dùng khăn giấy thấm vào bộ
ria mép. Đúng là ăn như .. lính ăn! Sau một tiếng
đồng hồ bơi liên tục như vậy chắc
ông ta đă đói lắm. Ông ăn một hơi cho đến
khi sạch đĩa. Nh́n cái đĩa trống trơn của
ông ta, tôi chợt nhớ có lần cô bạn Jilly đă nói,
người Mỹ họ không thích phung phí thức ăn, dù
là đi ăn "Bufett" họ cũng chỉ ăn bao
nhiêu th́ lấy bấy nhiêu và ăn cho hết chứ không
bao giờ lấy thật nhiều để rồi nửa
ăn nửa bỏ. Tôi bỗng cảm thấy xấu hổ
khi nhớ lại những lần đi ăn "bao bụng"
v́ "đói con mắt" nên thấy thứ ǵ cũng muốn
thử, lấy cho nhiều rồi "nuốt không vô"
đă phải đem vất bỏ. Lần này th́ tôi nhất
định phải ăn cho hết những ǵ có trong
đĩa của ḿnh.
Ăn xong, ông ta dừng
lại lau miệng, đem vất đĩa muỗng vào
thùng rác, đi lấy một đĩa bánh kem tráng miệng,
và trở lại bàn cùng với ly nước trái cây. Nhiều
người vẫn c̣n tiếp tục lấy thêm thức
ăn nhưng chúng tôi đă xong và dọn dẹp, trên bàn bây
giờ chỉ c̣n lại mấy ly nước. Ban nhạc
chuyển sang chơi một khúc êm dịu. Sau bữa ăn
trong buổi chiều hè, ngồi dưới bóng những
tàn cây maple, nhâm nhi món nước trái cây hỗn hợp giữa
âm thanh của bản ḥa tấu êm dịu, thật làm mát
ḷng người. Bấy giờ th́ ông nanh heo" mới
nh́n sang chúng tôi:
- Anh chị là
"Chinese" hả?
Trời đất.
Không biết ông ta "trông gà hóa cuốc" thế nào mà
nghĩ chúng tôi là người Hoa nhỉ.
- Không, chúng tôi là
người Việt Nam. Nhà tôi trả lời.
Ông ta kêu lên:
- "Really!"
-Vậy sao, thế mà bữa giờ thấy chị này hoài
nhưng tôi cứ tưởng chị là người Hoa.
Vậy ra ông
tưởng tôi người Tàu nên đă "làm mặt lạnh"
với tôi sao. Tại sao vậy nhỉ. Tôi cười, chỉ
vào chiếc mũ của ông:
- Ông là cựu chiến
binh Việt Nam? Chiếc mũ của ông đă nói lên điều
đó.
Ông ta gật đầu
xác nhận và nói: "Mỗi lần tôi đội chiếc
mũ này ra phố, nhiều thanh thiếu niên đă đến
chào tôi và nói "cám ơn ông đă phục vụ cho nước
Mỹ," nên tôi thích đội nó." Trao đổi thêm
vài chuyện bâng quơ, ông hỏi chúng tôi có biết chỗ
nào bán những loại cây thuốc "herb plant," dược
thảo th́ chỉ dùm. Ông cho biết là không thích dùng các loại
thuốc Tây "supplement" v́ nó có nhiều phản ứng
phụ. "Thuốc dược thảo bất quá cũng
chỉ là cây lá thiên nhiên, uống vào như ḿnh ăn rau trái,
nếu không lợi th́ cũng chẳng hại ǵ," ông
nói.
Tôi thật ngạc
nhiên. Không ngờ một người Mỹ lại cũng
thích dùng dược thảo như người Á Châu. Tôi ghi
cho ông địa chỉ và tên hiệu thuốc Bắc của
một người Việt gốc Hoa mà tôi quen ở
Sacramento, nói với ông ở đó họ có thầy xem mạch
và hốt thuốc chữa bệnh nếu ông cần. Ông tỏ
vẻ rất mừng, cám ơn rối rít và tự giới
thiệu ông tên Devin.
Trong khi chuyện
tṛ, tôi để ư mấy h́nh xâm bên cánh tay trái của ông
Devin. Giữa những h́nh lập thể kỳ dị là một
h́nh trái tim màu xanh đậm, và chính giữa là chữ
"Tho" màu đỏ được viết rất kiểu
cách, phải để ư kỹ mới đọc được.
Sau khi tôi nói tên tôi và tên của ông xă, Devin hỏi:
- Anh chị ở
vùng nào bên Việt Nam?
- Miền Trung. Nhà
tôi nói.
Ông cười thật
rạng rỡ:
- Ồ, vậy ra
là anh chị ở "Hue" ư? Ngày xưa tôi đă từng
làm việc ở Huế từ năm 67 đến 68
đó.
Nhà tôi chưa kịp
trả lời th́ tôi đă gật đầu để cho
qua chuyện, không đính chính, ḷng thầm "tính kế"
để lái câu chuyện sang chiếc nanh heo rừng mà tôi
đă một lần thấy ông trang trọng hôn lên nó, và cái
tên "Tho" rất Việt Nam xâm trên cánh tay ông cũng gợi
sự ṭ ṃ của tôi.
Thấy tôi gật
đầu, mắt ông ta sáng lên, ông nh́n chúng tôi với một
vẻ thân thiện lạ kỳ:
- Vậy th́ khi sự
kiện "TET 68," trận chiến Tết Mậu Thân
xảy ra anh chị có ở Huế không? Ông ta hỏi
chưa hết câu th́ giọng chùng xuống nghe buồn năo
ruột.
Tết Mậu
thân ư. Có người dân miền Nam Việt Nam nào mà quên
được cái "Tết Con Khỉ" đẫm
máu, thây phơi chật đất, máu chảy đầy ..
chùa chiền, đền miếu, nhà thờ, cái Tết mà tiếng
pháo mừng Xuân ḥa lẫn vào tiếng súng đánh nhau vang rền
khắp nơi ấy nhỉ. Tôi lắc đầu:
- Không. Khi ấy
chúng tôi đang ở Nha Trang.
Rồi để
rời khỏi sự hồi tưởng quá khứ đớn
đau trong một buổi chiều vui đẹp và an b́nh
như thế này, tôi bèn lảng sang chuyện khác. Tôi chỉ
vào sợi dây chuyền trên cổ ông và hỏi:
- Đây là chiếc
nanh heo rừng phải không? Đẹp quá! Ngày xưa bên Việt
Nam nhiều người bạn của tôi cũng có mang những
chiếc nanh heo như thế này. Ông làm sao có được
nó vậy?
- Đúng rồi.
Nó là chiếc nanh heo rừng do người vợ Việt
Nam của tôi tặng. Nàng ở Huế, tên "Tho," ông
chỉ vào chữ Tho trong h́nh xâm trên cánh tay: - Nghĩa là
"Poem" đó. Nói xong, ông sờ vào chiếc nanh heo, tay
mân mê, mắt nh́n xa xăm, vẻ mặt thẫn thờ
như đang hồi tưởng về quá khứ.
- Ồ! Tôi kêu lên
đầy thú vị. - Vậy ra bà nhà là người Việt
Nam sao? Wow! Ông c̣n hiểu cả nghĩa tên của bà nữa.
Đúng rồi! "Tho" nghĩa là "Poem" đó!
Tôi lập lại và hỏi: - Ông có thể nào kể chúng tôi
nghe về chuyện t́nh của hai người không? Bà tặng
ông chiếc nanh heo này trong trường hợp nào? Bà đến
Mỹ cùng lúc với ông hả? Tôi hỏi một hơi
không kịp thở. Nhà tôi trợn mắt:
- Cái bà này! Hỏi
ǵ mà tía lia vậy, làm sao ông ấy trả lời kịp chứ!
Dường
như ông Devin bắt đầu có cảm t́nh với chúng
tôi và cảm thấy gần gũi khi biết chúng tôi là
"đồng hương" của người vợ
Việt Nam của ông. Vẻ lạnh lùng trên gương mặt
ông bây giờ đă biến mất, cái vẻ lạnh lùng
khép kín mà tôi thường bắt gặp mỗi khi nói chuyện
với những cựu chiến binh Việt Nam khác. Nếu
không quen thân th́ mỗi khi có ai hỏi về việc ngày
xưa chiến đấu bên Việt Nam họ thường
trả lời, "Tôi không muốn nhắc lại." Có
lẽ đă lâu rồi Devin chưa hề có dịp để
tâm sự với một ai về Việt Nam.
Nghe tôi hỏi, ông
lắc đầu buồn bă:
- "I wish!"
Tôi ước ǵ được như thế! Tho, "Ton
Nu Thuy Tho" (chẳng biết là Thụy hay Thùy...?) không phải
vợ tôi bây giờ, mà là người vợ trong quá khứ
của tôi. Chiếc nanh heo rừng này nàng đă tặng tôi
khi chúng tôi vừa mới yêu nhau.
Ḷng bồi hồi,
tôi ngồi gần như nín thở, đợi ông Devin kể
tiếp, làm như thở mạnh sẽ khiến cho tan
loăng đi những ǵ ông ấy sắp nói ra. Trầm ngâm một
lúc, rồi có lẽ v́ sự xúc động bất ngờ
khi gặp lại những đồng hương của
người vợ cũ, hoặc v́ tác động bởi
bầu không khí êm đềm của buổi chiều hè, ông
Devin bằng một giọng trầm trầm bắt đầu
kể chúng tôi nghe về chuyện t́nh của ông và Thơ cô
gái Huế, cùng xuất xứ của chiếc nanh heo rừng
đă theo ông bốn mươi mấy năm qua ..
Năm 1967, chàng
trai trẻ Devin được điều sang Việt Nam,
chức vụ thiếu úy, là cố vấn quân sự cho
quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, làm việc ở Huế.
Qua giao dịch giấy tờ, Devin được anh bạn
Trung úy người Việt Nam giới thiệu làm quen với
cô gái xinh đẹp tên Thơ, là người bà con của
Tam, khi anh đến Việt Nam được hơn bốn
tháng. Thơ là thông dịch viên văn pḥng, chuyên dịch
văn kiện giấy tờ cho một căn cứ quân sự
Mỹ thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Chuyện t́nh của
hai người gặp phải rất nhiều sóng gió.
Thơ là con gái của một gia đ́nh quyền quí, có họ
hàng với vua chúa ngày xưa. Khi biết chuyện hai người
yêu nhau, gia đ́nh nàng kịch liệt phản đối,
nhất quyết ngăn cấm. Đă từ lâu, từ thời
Pháp thuộc, người dân Huế luôn bảo thủ, ǵn
giữ nề nếp cổ truyền, không muốn con cái lấy
vợ lấy chồng ngoại quốc. "Người
Huế không thích người ngoại quốc hiện diện
trên quê hương họ, Nhật, Pháp, Mỹ ǵ cũng thế.
Cho đến khi sự kiện Tết 68 xảy ra, họ
mới hiểu họ cần sự bảo vệ của
chúng tôi, và rất đông người đă chạy ùa vào
căn cứ Mạc-Vi (MACV Advisory) để nhờ giúp
đỡ," ông Devin nói.
Thơ đă bị
cha đánh đập, mẹ rầy la, ḍng họ mắng
nhiếc, làng xóm xầm x́, v́ có người yêu là một anh
chàng "mũi lơ." Nhưng t́nh yêu của Thơ đối
với Devin đă vượt qua cả sự ngăn cấm
của gia đ́nh. Điều này th́ tôi biết, v́ cô bạn
thân người Huế của tôi ngày xưa từng nói
"Con gái Huế nổi tiếng là lăng mạn và đa
t́nh, khi đă yêu ai th́ yêu hết ḿnh, chết cũng không sợ."
Thơ và Devin không dám đi cùng với nhau ra ngoài, họ
thường hẹn ḥ ở những quán bar hay căng tin
trong căn cứ quân sự. Hầu hết là do Tam giúp sắp
xếp.
Những khi Devin
đi công tác, Thơ ở nhà thấp thỏm không yên, nàng vô
cùng lo lắng cho sự an nguy của anh. Một lần
Thơ tặng cho người yêu sợi dây chuyền có chiếc
nanh heo rừng. Đây là món quà từ người bạn học
ở Tây Nguyên tặng Thơ, v́ tin rằng nó sẽ giúp nàng
may mắn, tránh khỏi hiểm nguy trong thời chiến.
Chiếc nanh heo thật lớn mà Thơ là con gái không thể
đeo nên đă đem cất kỹ. Và khi có người
yêu th́ nàng tặng cho Devin, mong nó sẽ đem lại an toàn
cho anh.
Cuối cùng, hai
người phải nhờ đến Trung úy Tam cầu cứu
với cấp trên của anh, nhờ họ cùng nhau đến
nhà thuyết phục cha mẹ Thơ. Và gia đ́nh nàng
đă đồng ư trong miễn cưỡng cho hai người
lấy nhau. V́ vậy "đám cưới nhà binh" của
họ diễn ra thật đơn giản, một ngày
trước lễ Giáng Sinh năm 1967.
Khác với gia
đ́nh Thơ, cha mẹ Devin khi biết tin anh có người
yêu và thấy được h́nh của cô gái Việt Nam
xinh đẹp, họ rất vui mừng. Họ gửi quà
mừng cho cặp vợ chồng mới và thúc giục anh
lo sẵn giấy tờ để khi anh hết nhiệm vụ
trở về Mỹ th́ phải đem Thơ đi cùng. Hai
người đă sống với nhau rất hạnh phúc.
Thơ thường nấu cho chồng những món đặc
sản xứ Huế, tập Devin ăn thức ăn Việt
Nam. Ông Devin nói "món ruột" của Tho mà ông rất
thích là "Bun Bo Hue." Cho đến bây giờ, mỗi
khi có dịp đến những vùng có nhà hàng Việt Nam, thế
nào ông cũng đi ăn bún ḅ Huế cho bằng được.
"Đến Tết
Monkey, chưa đầy ba tháng sau khi chúng tôi đám cưới."
Ông Devin nhớ lại. "Hai ngày trước Tết,
Thơ nói với tôi cô ấy về quê để cùng ăn
Tết với gia đ́nh, bốn ngày sau sẽ trở lại
thành phố. Tối ba mươi Tết, tôi ở trong
căn cứ Mạc-Vi một ḿnh cũng buồn nên rủ
hai thằng bạn, Mike và Jack, bày ra nhậu cho vui. Ba đứa
tôi thức rất khuya, vừa ăn uống vừa tán chuyện
vừa nghe tiếng pháo mừng giao thừa của dân địa
phương nổ râm ran ngoài thành phố. Khoảng hơn
ba giờ sáng, th́nh ĺnh căn cứ của chúng tôi bị tấn
công, bắt đầu là một lọat pháo kích nổ ầm
ầm ngoài cổng căn cứ, rung rinh cả ṭa nhà. Tôi và
hai thằng bạn vội vă trang bị súng ống, đội
mũ sắt vào rồi ra ngoài để xem xét t́nh h́nh."
Nói đến
đây ông Devin bỗng dừng lại, bàn tay ông run run, nét mặt
căng thẳng.
Trời đă về
chiều, vài cơn gió thổi qua lay động hàng cây
maple. Những chiếc lá khô vội vă ĺa cành bay là đà xuống
đất, nằm rải rác trên sân Tennis và các lối
đi, điểm những vệt nâu h́nh năm cánh trên nền
sơn xanh, giống như những bàn tay vấy đất
của đứa bé nghịch ngợm in dấu vào một
bức tranh đồng cỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy
ngột ngạt, cồn cào dù bầu không khí lúc này đă phần
nào dịu mát. Tôi bần thần, người toát mồ
hôi, những lời kể của ông Kavin gợi nhớ
đêm giao thừa năm xưa. H́nh ảnh cái đêm giao thừa
Mậu Thân khủng khiếp ấy bỗng ào ạt hiện
về.
Những ngày
trước Tết 68, người ta nghe nói đă có lệnh
"ngừng bắn để cho dân ăn Tết" giữa
hai bên, vậy mà sau đó người dân miền Nam lại
phải ăn Tết trong cảnh máu lửa kinh hoàng. Ba giờ
sáng mồng một Tết tôi và một người bạn
từ Nha Trang ngồi xích lô ra bến xe miền Trung để
về quê ăn Tết. Trên đường đi chúng tôi thấy
xác pháo ngập đường Độc Lập, tiếng
pháo vẫn c̣n "Tạch! Tạch! Đùng! Đùng!" và
tiếng súng lớn mà chúng tôi cứ tưởng là pháo
đại cũng "Ầm! Ầm!" khắp mọi
nơi. Chúng tôi nào biết thành phố đă bị tấn
công, nên cứ măi trầm trồ là chưa có năm nào tiếng
pháo giao thừa lại nổ rầm rộ và kéo dài đến
gần sáng như năm này. Từ đường Độc
Lập chạy xuống hướng chợ Đầm,
dưới ánh đèn đường thỉnh thoảng có
những vật hay đống ǵ đó đen đen nằm
lù lù dọc theo hè phố. Khi ra đến đường
Phan Bội Châu th́ trời đă sáng dần, và chúng tôi hoảng
hốt nhận ra những đống đen đó là những
xác người bị bắn chết bỏ nằm rải
rác trên lề đường. Ra đến bến xe th́ gặp
phải đánh nhau, súng nổ bốn phương tám hướng,
cuối cùng chúng tôi phải hối xe chạy bán sống bán
chết để quay về.
Tuy sự chết
chóc ở thành phố Nha Trang trong sự kiện Mậu Thân
chưa đến nỗi khủng khiếp kinh hoàng như
những ǵ nhà văn Nhă Ca đă đối diện ở Huế
khoản thời gian đó và tường thuật trong quyển
hồi kư "Giải Khăn Sô Cho Huế" của bà,
nhưng nó cũng đă làm cho tôi gặp ác mộng hằng
đêm sau ngày ấy. Thật là kinh khủng.
"Anh chị biết
không?" Ông Devin lên tiếng sau phút im lặng. "V́ c̣n thức
nên chúng tôi là những người ra ngoài sớm nhất
trong khi các pḥng khác c̣n đang mặc trang phục và la hét nhốn
nháo trong pḥng. Chúng tôi cùng nhau bước về hướng
bên trái, là nơi có những lô cốt chống đạn
xây bằng bao cát, để chuẩn bị pḥng thủ. Trời
lúc này vẫn c̣n tối và lạnh. Đi được mấy
bước, th́nh ĺnh tôi thấy một người con gái mặc
áo dài tím xuất hiện ngay trước mắt tôi. Cô ta
đưa tay ra chận lại và hét lên: "Stop!" Đừng
đi! Rồi cô biến mất. Nh́n quanh nh́n quất
cũng không thấy cô ta đâu, tôi giật ḿnh chụp lấy
tay thằng bạn Mike. "Cô ta là ai thế?" Tôi hỏi
nó. Thằng bạn tôi ngơ ngác, rồi ph́ cười:
"Mày nói cái ǵ vậy Devin? Cô nào? Mới có mấy tiếng
rốc kết mà mày đă hoảng loạn như thế rồi
sao?"
Ông Devin nói người
bạn tên Jack cũng cười nhạo ông, dù ông quả
quyết đă chính mắt nh́n thấy rơ ràng cô gái đó
dưới ánh đèn lờ mờ của căn cứ. Tuy
chưa bao giờ tin là có ma, nhưng cô ta biến mất một
cách nhanh chóng như thế cũng làm Devin cảm thấy rờn
rợn, dựng tóc gáy. Và ông bỗng rùng ḿnh trong đêm tối
khi bước theo hai người bạn. Hiện tượng
kỳ lạ đă làm cho ông phân tâm, quên đi sự lo lắng
về mấy quả pháo kích.
"Chúng tôi tiếp
tục bước," Ông Devin kể tiếp, "khi
đến gần một chiếc xe Jeep đang đậu
th́ cô gái áo dài tím lại hiện ra. Tôi dụi mắt thật
mạnh để biết là ḿnh không mơ ngủ. Lần
này th́ tôi thấy cô gái đang bay lơ lửng, vạt áo
dài tím phất phơ bên trên đôi chân cụt lủn máu chảy
ṛng ṛng, hai tay cô vung vẩy trước mặt tôi, và cô gào
lên thảm thiết: "Đứng lại! Đừng
đi!"
Devin bỗng lắc
đầu thật mạnh, như xua đi những h́nh ảnh
thảm thương mà ông vừa nhớ lại. Ông bưng
ly nước lên hớp một ngụm rồi đặt
chiếc ly xuống bàn, cố gắng nuốt một cách
khó nhọc như người đang mắc nghẹn:
"Tôi hoảng
quá, biết là ḿnh đă gặp ma thật rồi. Không kịp
suy nghĩ, tôi vội vàng chụp tay hai thằng bạn lôi
ngược lại, vừa lúc tiếng đạn rốc
kết bay xé gió rít lên trên không "Hú .. ú .. ú .. ú .." và
chúng tôi chỉ kịp nhào xuống phía sau chiếc Jeep th́
"Boooom!" một tiếng nổ long trời lở
đất vang lên ở gần bên, tôi bị hất tung lên
rồi bắn ra xa, và không c̣n biết ǵ nữa."
- Trời! Tôi và
nhà tôi cùng kêu lên thảng thốt.
- Rồi bạn
ông và ông có bị thương không? Tôi vội vàng hỏi.
- Jack bị
thương rất nặng, sém chút nữa th́ nó đă
đi chầu trời, thằng Mike th́ găy chân và một cánh
tay. Tụi nó được trạm y tế dă chiến
trong căn cứ tận t́nh cứu chữa và cầm cự
đến hơn hai mươi ngày mới được
đưa đi bệnh viện. Riêng tôi bị ngất xỉu
một ngày đêm, nhưng như một phép lạ, tôi chỉ
bị thương ở những phần mềm, v́ tôi
văng trúng cái thùng container bằng giấy cát tông và mấy
cái bao cát."
- "Oh my
God!" - Trời ơi! Như vậy là cô "Ma"
đó đă cứu các ông rồi! Tôi kêu lên trong sự
ngưỡng mộ, ma người Việt mà cũng có ḷng
nhân, đă giúp cứu mạng mấy người lính Mỹ.
Thật là kỳ diệu.
Ông Devin đột
nhiên ngồi sững, hai tay ôm lấy đầu nh́n vào khoảng
không trước mặt, mắt lộ vẻ đau đớn
cùng cực. Được một lúc, ông bỏ tay ra và nói
nho nhỏ, gần như là th́ thầm với chính ông:
- "Cô ấy là
Thơ, vợ tôi. Nàng đă bị giết trong đêm giao thừa,
buổi tối trước lúc chúng tôi bị tấn
công."
Tôi tṛn mắt,
không thể tin được những ǵ ḿnh vừa nghe:
- Trời đất!
Nhưng làm sao mà ông biết được chính xác như thế
chứ?
Ông Devin thở
dài:
"Măi đến
gần một tháng sau, đúng hơn là hai mươi tám
ngày sau, sau khi quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng
Ḥa lấy lại được toàn bộ thành phố Huế,
tôi mới liên lạc được với gia đ́nh
Thơ. Họ cho tôi biết, hôm tối ba mươi, chiếc
xe lam chở vợ tôi và hai người bạn của cô ấy
cùng nhiều người khác nữa, trên đường
đi chùa về th́ bị trúng một quả đạn
súng cối, mọi người trên xe đều chết hết."
Và ông bỗng nấc lên: "Tối hôm đó Thơ cũng
mặc chiếc áo dài màu tím và mảnh đạn đă cắt
mất đôi chân của nàng .."
- Tôi thật xin lỗi.
Tôi nói, nước mắt tôi ứa ra. - Linh hồn cô ấy
quả linh thiêng, đă hiện về để cứu ông
và mấy người bạn. Chắc bây giờ cô ấy
đang ở trên thiên đàng, xin ông cũng đừng buồn.
Ông Devin ngồi thẫn
thờ, h́nh như không nghe những lời tôi nói. Ông lại
lần nữa mân mê chiếc nanh heo rừng trên cổ. Có lẽ
ông đang hồi tưởng lại thời kỳ yêu
đương nồng thắm với Thơ, thời kỳ
yêu đương cách nay đă hơn bốn thập niên,
nhưng nó vẫn c̣n sôi sục trong ḷng người cựu
chiến binh cho đến tận bây giờ. Không biết
chiếc nanh heo này có thật sự linh nghiệm hay
chăng, nhưng tôi tin chắc một điều, là nó
đă được ḥa quyện t́nh yêu bất diệt của
cô gái Huế, và t́nh yêu ấy đă cứu mạng ông Devin.
Ba người
chúng tôi cùng ngồi bất động thật lâu cho đến
khi trời sẫm tối. Đèn đường đă bật
sáng, ban nhạc đă ngừng chơi tự lúc nào, thực
khách lục tục đứng dậy ra về, và người
ta bắt đầu xếp dù, thu dọn bàn ghế.
Khi vợ chồng
tôi và ông Devin đứng lên th́ mọi người cũng
đă về gần hết. Chúng tôi băng qua khu vực băi
đậu, ra ngoài đường để lấy xe. Hàng
cây maple vô tư phe phẩy xạc xào trước ngọn
gió đêm mát rượi, bầu trời hè buổi tối
trong xanh, rải rác những v́ sao lấp lánh, và thoang thoảng
đâu đây trong không khí mùi hương hoa dạ lư ngọt
ngào. Một buổi tối thật yên b́nh, nhưng tôi biết
trong ḷng người cựu chiến binh Devin đang dậy
sóng. Tôi thở dài, nh́n ông cúi đầu lầm lũi bước
đi.
PHƯƠNG
HOA
(Diễm Xưa sưu tầm và chuyển)