HƯƠNG
GÂY MÙI NHỚ
..
(Ngô
Kim-Khôi - Paris)
Ừ nhỉ,
tự bảo là sẽ không đặt bút, v́ đă có nhiều
người viết đến, mà lại viết thật
hay, thật thấm thía, từ cái ông Thạch-Lam qua ông Nguyễn
Tuân đến ông Vũ Bằng... Nhưng mà không viết lại
không chịu được, nhất là những ngày cuối
năm đi trong nhạc điệu mùa Đông buồn se sắt,
với không-khí tha-hương lạnh lùng sương
rơi heo may buồn ngơ ngác bóng chim bay mây tím giăng sầu
đó đây , và c̣n tại cái hệ-thống sưởi
trong nhà bỗng dưng dở chứng không chịu chạy,
th́ cái lạnh lại như cắt vào ḷng, như muốn
chui vào tận trong xương trong tủy, lạnh từ
trong đầu trong óc mà lạnh ra, cứ muốn trùm tấm
chăn bông mà ấp ủ .. Thế, chao ôi, thèm ơi là thèm
hương vị rừng rực nồng nàn, muôn thuở ấm
áp của một bát phở.
Đấy,
th́ đă bảo, "người ta" viết về phở
đă hay lắm rồi, đâu đến phiên ḿnh !
Này nhé, giá mà
cứ đưa vào tay bác Tô Vũ nhà ta, để bác ta
ngoáy lên đôi ḍng "cà kê", th́ cũng đă nên khuôn vàng
thước ngọc. C̣n ḿnh, cũng v́ chỉ thèm ăn phở,
thôi th́ xin lạm-bàn vài ba hàng, cho đỡ .. cơn thèm.
Vẽ chuyện
! Có thèm th́ đi ra quận 13, hay đi Belleville, mà ăn một
bát cho xong, bày đặt làm chi vẽ vời viết lách !
Ấy vậy,
thưa anh, nếu có đi ra quận 13, hay đi Belleville, cũng
không thể nào nguôi ngoai được, cũng như khi ta
ngồi buồn, mở nhạc nghe, vô-t́nh lại trúng vào
bài "Buồn tàn thu" của nhạc sĩ Văn Cao,
nhạc dẫn d́u dặt, rồi giọng Thái-Thanh trỗi
lên,.. ai lướt đi ngoài sương gió không dừng
chân đến tôi bẽ bàng .., ôi, cái chữ "lướt"
ấy, qua tiếng hát vượt thời-gian Thái-Thanh, bỗng
trở thành bất-diệt. Bài nhạc đă hát xong rồi,
con tim vẫn c̣n nao nao, th́ anh ơi, cũng như mùi
hương phở ngạt ngào một lần đâu
đây, thấm vào da vào thịt, vào lục phủ ngũ tạng,
nhớ muôn đời không quên ..
Vâng, thưa
ông thưa bà, thưa anh thưa chị, không thể nào nguôi
ngoai ..
Lại nhớ
hôm nọ, năm ngoái hay năm kia nhỉ, ghé sang nhà ông bà
Tào văn Trạch, được bác Tuyết-Anh đăi
ăn một bữa phở ḅ, trời ơi, bỏ .. bùa bỏ
ngăi ǵ trong ấy mà sao lại ngon không .. chịu được,
ngon đến nỗi đă ăn hai bát, bụng không c̣n chỗ
chứa, nhưng cứ muốn ăn thêm, sợ .. phí của
giời ! Ra về, lại ỉ ôi với hai bác, c̣n tí
nước dùng trong nồi trên bếp, bác cho cháu, bác nhé !
Th́ cũng ngần
ấy thứ thôi, có phải nêm thêm .. vàng thêm ngọc ǵ vào
trong ấy đâu, thế mà bát phở của bác Tuyết-Anh
phải như sơn-hào hải-vị, có khi c̣n hơn thế
nữa, không chừng.
Dạ
thưa quư-vị, cái chữ "phở" nhỏ tí tị
t́ ti ấy, xem ra cũng c̣n nhiều bàn căi.
Trong
"An-nam tự-vị latin" của Pigneaux de Béhaine
(Bá-Đa-Lộc) viết vào khoảng giữa thế-kỷ
thứ 18 không có chữ "phở". Trong "Đại-Nam
quấc-âm tự-vị" của Huỳnh-Tịnh Paulus Của,
nhà xuất-bản Rey, Curiol & Cie, năm 1896, có chữ
"phở" nhưng không .. ăn nhằm ǵ đến
phở mà chúng ta đang nói (Phở : Nổi tiếng
tăm. Mầng phở lỡ : Mầng lắm, tome II, trang 200).
Cũng như quyển "Việt-Pháp tự-điển"
của J.F.M. Génibrel, nhà xuất-bản De la Mission à Tân-định,
tái-bản lần thứ hai năm 1898, có chữ "phở"
đồng nghĩa với Paulus Của (phở lỡ :
Bruyamment, trang 614). Trong "Việt-Nam tự-điển"
của Hội Khai-trí Tiến-đức , xuất-bản
năm 1931, tra thấy có chữ "phở" như ḿnh
muốn nói, mừng ơi là mừng ("mầng phở lỡ"),
và được giải nghĩa như sau : "Phở do chữ
phấn mà ra. Món đó ăn bằng bánh thái nhỏ nấu
với thịt ḅ : phở xào, phở tái"
.
Đọc
"Sài-g̣n tạp pín lù" của cụ Vương Hồng
Sển :
.. "hủ
tíu", theo ông bạn quá cố Lê Ngọc Trụ là "hủ
mộc phấn thổ", người Quảng Đông cũng
gọi là "phảnh", và danh từ này, khi lọt vào
tay đồng bào Bắc Việt, "ngầu dục phảnh"
(ngưu nhục phấn), tao không thèm gọi như chúng mi nữa,
và biến ra "ngưu nhục phở", kêu tắt
"phở" lại càng thêm gọn. Từ cái mùi "Ba
Tàu" hủ tíu, ba xu xưa một tô nhỏ, sáu xu một
tô trộng trộng, vừa có ít sợi ḿ vàng, ít sợi bún
"phảnh", bước một bước qua ranh Bắc
Việt "phở" đă mất mùi "chệc",
thơm ngon béo bổ hơn "hủ tíu Tàu" nhiều,
phở nấu với nước cốt thịt ḅ, vi ta
min giàu hơn, nhứt là cách nay mấy tháng, khi phở Huỳnh
Phú Nhuận c̣n mở cửa, trời sáng lạnh lạnh,
tô phở bay hơi nghi ngút, tay cầm đũa, vít miếng
thịt mềm nhừ, hay miếng "mỡ gầu"
vừa gịn vừa dai, gion gion gịn gịn, chấm một chút
tương cay, mắt liếc tay ngọc bưng tô cho bàn
bên cạnh, tưởng đâu chừng ḿnh đă theo
Lưu Nguyễn lạc lối thiên thai, với mười
bảy đồng hay hai chục đồng mà nếm tô phở
Huỳnh buổi ấy, hơn Lưu Nguyễn bội phần
v́ hai chàng lạc lối cảnh ăn đào thiếu bổ
!
Cũng cụ
Vương Hồng Sển, "Tự-vị tiếng nói
miền Nam" , đọc thấy "Phở : phảnh,
'phấn' đọc giọng Tàu. Bột gạo mịn
như phấn nấu trong nước cốt gà, heo v.v. Phở
là món ăn quốc túy, do đồng bào Bắc chế biến,
được dân trong Nam hoan nghinh nhứt và đánh đổ
thay thế tô hủ tíu Tàu : phở tái, phở áp chảo,
.."
Ấy mà cũng
có người đặt giả-thiết rằng phở
có .. bố mẹ là người Tây, do chữ
"Pot-au-feu" mà ra, v́ "Pot-au-feu" có mùi vị
"hơi hơi" giống phở của chúng ta, và v́ họ
nhấn mạnh chữ "feu" riết nên thành chữ
"phở" ! Hỡi ôi, có cha mẹ Tây là thế, tại
sao mấy năm trước đây, đâu có xa xôi ǵ lắm
đâu, cũng chỉ chừng mươi năm trở lại
mà thôi, người Tây gọi phở là soupe chinoise, phải
chăng cha mẹ không biết mặt con cái, cứ thấy
"da vàng mũi tẹt" th́ sắp loại phở cùng
là anh chị em với hủ-tíu hay vằn-thắn ? Chán
ơi là chán ! Chắc có lẽ bị mắng quá, bị sửa
lưng nhiều quá, ông Tây bà Đầm ngày nay .. khôn ra, không
c̣n dịch bừa băi phở là soupe chinoise nữa, mà dạ
thưa quí-vị, là soupe tonkinoise , nếu dịch cho có căn
có kệ, có phân-định biên-giới hẳn hoi, c̣n không,
gọi chung chung là soupe vietnamienne, đấy ạ. Nhưng
dịch thế nào th́ dịch, cũng không thể làm sao lột
tả được chính-xác hương-vị phở của
chúng ta, xin đề-nghị gọi là "le phở",
như "le áo-dài" hoặc "le nước-mắm"
.., tiện hơn không ?
Trở lại
chữ "ngưu nhục phấn" (níu ṛu fen), ? ? ?,
trong "tự-điển Hán-Việt" của Đào
Duy-Anh, nhà xuất-bản Minh-Tân, năm 1931, "ngưu nhục"
chính là thịt ḅ, nhưng nhấn mạnh một điều
rằng chữ "ngưu" không nên lầm là trâu, v́ Trâu
là "thủy ngưu", ? ? . Riêng chữ "phấn"
(?) : Vật nghiền ra rất nhỏ (quyển hạ,
trang 108), chứ Đào tiên-sinh không nói ǵ đến "phở"
cả.
Trong "tự-điển
Hán-Việt" của nhóm Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ
Lương .. , trang 189, tra chữ "phấn" (fen), ?
th́ đọc được : Bún, bánh phở, miến.
Trong
"Dictionnaire français-chinois" (tự-điển Pháp-Hoa) của
Thượng-hải Dịch-văn Xuất-bản-xă, 1979,
trang 1337, tra chữ "Vermicelle", cũng ra chữ ?.
Như vậy,
chữ "Phở" từ chữ "Phấn" mà ra
có thể tin cậy được.
Chúng tôi có ư
muốn biết hoàn-cảnh ra đời của món phở,
nhưng không t́m được tài-liệu nào. Trong quyển
gia-chánh "Nữ-công thắng-lăm" của Hải-Thượng
Lăn Ông (Lê Hữu-Trác, 1720-1791), viết vào năm 1760, không có
nói đến phở.
Trong hành-tŕnh
đến Việt-nam từ 11/01/1884 đến 19/04/1886 của
Bác-sĩ Hocquard, tường-thuật lại rất cặn
kẽ cách ăn nếp ở của người dân ta
trong"Une campagne au Tonkin" , nhắc đến cả mắm
tôm, nhưng chẳng có một lời nói đến món
ăn có tên là phở cả.
Theo thứ-tự
thời-gian xuất-hiện chữ "phở" trong các
tự-điển nói ở trên, chúng ta có thể đặt
giả-thiết rằng món phở chỉ có thể sinh ra
đời khoảng đầu thế-kỷ XX, tức là
lúc có người ăn quà ngoài đường phố, tiếp
theo đó, bắt đầu thịnh-hành vào thập-niên 20,
và theo nhà văn Vũ-Bằng, "đến năm 1952,
công việc chế biến món phở đă đến chỗ
tuyệt đỉnh, nghĩa là không thể thêm hoặc bớt
một món ǵ nữa" . Dân Hà-thành thuở đó đă
"bầu" phở Tráng ở phố hàng Than là "Vua
phở".
Năm nọ,
ăn bát phở tại nhà bác Tuyết-Anh ngon quá đỗi,
nay xin bác viết cho một bài "Khéo tay làm lấy", chỉ
cách nấu phở, v́ dù sao phở cũng là một món
ăn truyền-thống của dân-tộc ta. Thử hỏi
có người Việt-nam nào chưa từng ăn phở
không ? Nhà văn Vũ Bằng quả-quyết rằng không.
Có nghĩa hễ là người Việt-nam, từ Bắc
chí Nam, thế nào cũng có lần ăn phở.
Nhưng xin
bác đừng quên các bí-quyết để có một nồi
phở ngon, bác nhé, v́ tiệm phở nào cũng dấu rất
kỹ ngón nghề. Ai cũng cho rằng cái "bí-mật"
của ḿnh là hơn thiên-hạ, không thể nào .. dại dột
tiết lộ ra ngoài cho mọi người nghe. Đồng-bào
ơi, tôi dơ tay lên xin phát-biểu ư-kiến, rằng nếu
chúng ta biết trao đổi kinh-nghiệm nấu phở với
nhau, t́m ra một phương-pháp hoàn-thiện th́ chúng tôi chắc
chắn rằng món Phở của người Việt-nam
ta sẽ được bầu là món ăn ngon nhất .. thế-giới.
Mà không hiểu
các tiệm phở dấu nghề làm ǵ nhỉ, v́ ít khi
người ta nấu phở ở nhà. Kéo nhau ra tiệm, ś
sụp ăn bát phở, cảm-thấy ngon hơn nhiều,
làm như phở ngon cần có không-khí của tiệm
ăn. Nấu phở ở nhà phải có chục người
ăn, mới bơ, dăm ba người, nấu một nồi
phở to tướng, dọn ra bàn, lơ láo nh́n nhau, mất
ngon.
Chúng ta đều
biết điều quan-trọng nhất làm cho phở ngon
là nước dùng (nước lèo) ngon ngọt độc-đáo,
kế tiếp mới đến bánh phở trắng ngà, dẻo
dai.
Phần thịt
trong nước dùng, ngoài thịt ḅ, xương ḅ,
xương heo, người ta c̣n cho đuôi ḅ. Điều
này, cuối chợ, khi sắp đóng cửa hàng, phần
"xí-quách" ấy là một món ăn c̣n có thể nói là
hơn lương-trân, dành riêng cho các ông thích nhậu. Hỡi
ôi, gặm cục xương đă mềm nhừ hay ăn
cái đuôi ḅ thấm đượm, chiêu một ngụm
rượu cay nồng, giữa cái lạnh lùng giá buốt của
mùa Đông, tưởng chừng như thiên-đàng cũng
không bằng !!!
Có người
cầu-kỳ, cho thêm tôm khô hay đầu mực, bảo rằng
như thế th́ nước đậm hơn. Chúng tôi không
dám có ư-kiến, ấy là tùy bàn tay người nội-trợ,
phải không .. cô Hai ? Điều cần phải nhớ là
không được bỏ đường, nhưng chắc
rằng phải có một chút bột ngọt (ḿ chính), chỉ
một chút thôi, như một thoáng nghi-ngờ (un soupçon), chứ
cho nhiều bột ngọt th́ ăn lợm giọng mà c̣n hại
cho sức khỏe.
Muốn cho
nước trong, khi nồi nước bắt đầu
sôi th́ phải hớt bọt, có nhiều chỗ trả tiền
cho một đứa trẻ, bắt nó đứng cạnh
nồi để hớt bọt, hớt cho tới bao giờ
kiệt hết bọt th́ thôi. Này, tôi bảo cho một
bí-quyết, gia-truyền đấy nhé, nhưng phải hứa
với tôi là không được nói lại với ai, kê lỗ
tai vào đây nào, để tôi nói nho nhỏ cho mà nghe, kẻo
"con mẹ" hàng xóm nó .. ŕnh, xuỵt xuỵt .., muốn
cho nước dùng trong hơn, sau khi hớt bọt rồi,
cho vào nồi củ cà-rốt và củ cải trắng, vừa
thêm ngọt nước nữa đấy, nhưng sau
đó th́ không được ăn mà phải vứt các củ
ấy đi, nhớ nhé (!?)
Đến
đây th́ phải nói tới phần chính để làm cho
nước phở trở thành một .. bài thơ tao-nhă,
danh bất hư truyền, đó là gia-vị. Trong nồi
nước dùng, ngoài mắm muối ra, phải nướng
hành củ và nướng gừng, cho vào nồi cùng với
đinh-hương, quế và hồi-hương. Có nơi
c̣n cho thảo-quả.
Đinh-hương
hay đinh-tử-hương
, tên khoa-học Syzygium aromaticum, thuộc họ Sim (Myrtaceae).
V́ có h́nh-dáng như cây đinh, lại tỏa mùi thơm nên
có tên là đinh-hương (? ?). Khi chúng ta ngửi thấy
mùi hương này, sẽ liên-tưởng ngay đến
pḥng .. Nha-khoa, v́ đinh-hương có công-dụng phổ-biến
là dùng để cất lấy tinh-dầu, có tính sát-trùng mạnh
nên sử-dụng để làm thuốc tê và diệt tủy
răng. Những người hay bị đau răng,
thường gói theo ḿnh một ít đinh-hương, khi
răng .. dở chứng, bỏ một nụ vào chỗ
đau, ngậm một chút th́ cơn đau sẽ qua đi.
Trong những khi bị nạn dịch, người ta có thể
nhai đinh-hương để pḥng bị truyền-nhiễm.
Đinh-hương là vị thuốc có tính ôn, vị cay,
tác-dụng vào 4 kinh (phế, tỳ, vị, thận), dùng chữa
các chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa .. Ngoài việc
làm gia-vị cho nước phở, đinh-hương có
công-dụng phổ-biến là để chế bột
cà-ry.
Quế,
c̣n gọi là ngọc-quế
(? ?), có rất nhiều loại mà thông-dụng chia ra ba loại
là Quế Thanh-Hóa, Quế quan (quế Xri-Lanca) và Quế
Trung-quốc, tên khoa-học gọi chung là Cinnamomum, thuộc
họ Long-năo (Lauraceae). Nhớ khi chúng tôi c̣n nhỏ, khoảng
4-5 tuổi, sau khi ăn quít thường để dành vỏ
phơi khô, được nhiều nhiều th́ chạy ra
tiệm thuốc Bắc đổi lấy vài miếng quế
đem về .. ngậm chơi. Trong "Cung oán ngâm khúc"
của Nguyễn Gia-Thiều, ngay câu đầu tiên ta đă
đọc được "trải vách quế gió vàng
hiu hắt", có nhiều người cho rằng vách quế
do chữ quế-dịch mà ra, nghĩa là vách tường có
hồ trộn mạt-cưa cây quế, nơi ở của
cung-tần phi-nữ, quế làm cho ấm, khỏi cần
.. sưởi. Theo Huỳnh Khắc-Dụng, phải là phách
quế, có nghĩa là trăng sáng, th́ đúng hơn . Quế
có vị cay, ngọt, tính đại-nhiệt, tác-dụng
vào 2 kinh (can, thận), bổ mệnh môn tướng hỏa,
trị cố lănh trầm hàn, chữa chân tay co quắp, chồn
chân mỏi gối, bụng quặn đau, kinh-nguyệt bế,
ung thư .. Ngoài ra, quế c̣n dùng để cất rượu
hay trong công-nghệ kẹo bánh.
Hồi-hương
hay bác-giác hồi-hương,
đại-hồi-hương (? ? ?), tên khoa-học
Illicium, thuộc họ Hồi (Illiciaceae). Hồi là trở
về, hương là thơm, thịt thiu hay tương thối
cho ít đại-hồi vào nấu th́ mùi thơm lại trở
về, v́ vậy nên đặt tên ấy. Thật sự, phải
gọi là Hồi-quả chứ không phải Hồi-hoa, v́
quả có ngôi sao 6-8 cánh đẹp như một bông hoa nên
ta vẫn gọi lầm. Nhiều quả có đến 12-13
cánh. Hỡi các anh thích .. nhậu, ngửi mùi hồi th́ anh
liên-tưởng ngay đến rượu .. Pastis hay Ricard,
là rượu khai-vị, cất từ tinh-dầu cây hồi,
nồng-độ rượu thường là 45, có màu trắng
trong, pha với nước sẽ chuyển sang màu vàng đục,
một phần rượu năm phần nước, uống
lạnh với đá, rất được ưa chuộng
tại các tỉnh miền Nam nước Pháp. Vào quán, khách
hàng thường gọi một cách thân thiết "ông chủ,
làm ơn cho một cái .. vàng" (un jaune, s'il vous plait), làm
người Á-đông da vàng ḿnh nghe cũng .. chột dạ.
Đại-hồi có vị cay, tính ôn, tác-dụng vào 4 kinh
(can, thận, tỳ, vị), dùng chữa các chứng đau
bụng, khó tiêu, nôn mửa, đau nhức, tê thấp ..
Ngoài việc làm gia-vị cho nước phở, hồi c̣n
dùng làm thơm thuốc đánh răng, kẹo bánh, hay bỏ
vào nồi ra-gu ḅ th́ cũng .. ác liệt lắm.
Thảo-quả
(? ?), c̣n gọi là quả
ṭ ho, tên khoa-học Amomum aromaticum, thuộc
họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo-quả chủ-yếu
dùng làm gia-vị, khi dùng, bóc quả đă xấy khô lấy
hạt ở trong, người miền Bắc hay cho vào chè
lam hay chè kho. Thảo-quả là vị thuốc có tính ôn, vị
cay, chát, tác-dụng vào 2 kinh (tỳ, vị), có năng-lực
khử đờm, chữa sốt rét, đau bụng ..
Bốn gia-vị
kể ở trên đây, không ôn th́ nhiệt, bởi thế
nhiều người cho rằng ăn phở th́ trong
người cứ bị nóng, nổi mụn (?), ấy là
c̣n chưa nói đến gừng.
Gừng
c̣n gọi là khương
(?), có tên khoa-học Zingiber officinale, thuộc họ Gừng
(Zingiberaceae). Ngày Tết, chúng ta thường hay ăn mứt
gừng, nhưng người Anh và Mỹ th́ dùng gừng làm
nguyên-liệu để chế .. rượu bia. Củ gừng
(sinh-khương) có vị cay, tính hơi ôn, vào 3 kinh (phế,
tỳ, vị), trong nhân-dân dùng chữa tiêu đờm, giải
độc, cảm-mạo, phong-hàn, khó tiêu, ho .. Nhiều
người c̣n cho rằng gừng có tính .. cường
dương (?).
Úi giời,
thế th́ phở quả nhiên "nhiệt" thật,
toàn là thứ để làm thành rượu th́ ăn phở
đâm ra .. nghiện cũng đúng thôi (?). Đă vậy,
khi ăn, nước dùng phải thật nóng, bỏng
lưỡi bỏng miệng, phải cho thêm tiêu vào, nóng
đến nước mắt nước mũi dàn dụa
ra th́ mới ngon. Phải như cụ Nguyễn Tuân, vục
mặt xông vào trong làn khói nghi ngút của bát phở nóng có nhiều
hành hoa .., x́ xà x́ xụp, phải ăn cho hết bát phở,
húp hết cả nước dùng. Có nhiều người
làm ra vẻ thanh-cảnh, chỉ ăn thịt và bánh phở,
uốn éo ỏng eo bỏ bê nước dùng, ăn như thế
th́ nào đâu biết ăn phở là ǵ. Thật là phí của
giời. Nhiều người c̣n tệ hơn nữa,
đập quả trứng vào, vừa làm đục nước
dùng trong tô phở, vừa có cái mùi tanh tanh của trứng,
át cả hương-vị thanh-tao của món ăn quốc-hồn
quốc-túy, ôi, bày chi cảnh hoa ḥe hoa sói, ăn vào .. phí cả
mồm ! Ăn thế, với phở gà th́ mồm đă phí
rồi, lại c̣n ăn với phở ḅ nữa, trời ạ
!!!
Khi .. Nam-tiến,
phở đă thay đổi đôi chút trong cách ăn.
Người trong Nam cho thêm giá sống, ng̣ (rau mùi) .. Sang bên
đất Tây này, chúng tôi c̣n thấy nhiều người bỏ
cả rau bạc-hà (menthe). Phở chính hiệu .. "con nai
vàng ngơ ngác" th́ không có các thứ ấy, chỉ là chế-biến
thêm vào sau này mà thôi, và theo ư riêng của chúng tôi, những thứ
ấy có hay không, không ảnh-hưởng đến
hương-vị của phở, cũng không làm phở
ngon hơn. Nhưng ăn phở mà thiếu vị này th́
không c̣n là phở, đó là ng̣ gai. Có tên khoa-học là Eryngium
foetidum, ng̣ gai xuất-xứ từ Trung-Mỹ, nhưng ta lại
gọi là rau mùi tàu, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Ng̣ gai chữa
được cảm mạo, sốt, khó tiêu .. Dân ta c̣n
dùng ng̣ gai nấu với bồ-kết để gội
đầu. Ngoài ra, ăn phở c̣n phải có rau húng-quế
(Ocimum basilicum), trong Nam gọi là rau é, và dĩ nhiên phải
có hành hoa.
Hành c̣n gọi
thông-hoa (? ?), thông-bạch .., tên khoa-học là Allium fistulosum,
thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Thông là rỗng, dọc
lá hành th́ rỗng, bạch là trắng, củ (ḍ) hành có màu trắng,
v́ vậy nên đặt tên ấy. Hành là vị thuốc rất
công-dụng từ thời cổ xưa, tính ôn, vị cay,
vào 2 kinh (phế, vị), chữa sốt rét, cảm, nhức
đầu, phù thủng, khó tiêu .. Tinh-dầu hành có tính sát
khuẩn mạnh, chữa mụn nhọt, mưng mủ, ngạt
mũi .. Hiện nay, nhiều nước dùng hành tây, c̣n gọi
là dương-thông (Allium cepa), tuy có nguồn gốc tại
châu Á nhưng v́ củ to (!) nên gọi là .. tây.
Em yêu dấu,
khi ánh chiêu-dương chiếu rực rỡ trên những
chùm hoa tuyết đang bay phất phới ở ngoài song cửa,
th́ anh xin được th́ thầm vào tai em rằng Đông
sẽ qua và Xuân lại về, cái lạnh ấy thế nào
rồi cũng phải nhường chỗ cho muôn vàn ấm
áp, đó là lẽ vô-thường của trời đất.
Hôm nay, nh́n những trắng xóa lạnh lùng mênh mang ngoài trời
kia, th́ em yêu, hăy ngồi xuống bên anh, chỉ xin chút mộng
mơ về quê cũ, có mặt trời ngậm non đoài,
có ánh kim-quang ngời sáng, ta cùng nhau thưởng thức mùi
hương của phở như vừa theo con gió lạ
nào vừa đưa tới, đó là mùi
vị
quê-hương trong ngạt ngào,
say đắm, để bừng lên đôi má em nét hồng
mây sớm, để đôi môi kia run lên như nhịp
đàn, và để anh bàng-hoàng thốt lên :
.. cuồng loạn
âm giai má hải đường
gọi nhau say chết
giữa mùi hương
khi ăn niệm bóng
sang ngồi cạnh
đưa t́nh
thương tới gặp t́nh thương ..
NGÔ
KIM KHÔI
- Paris -