LINH
HỒN
(Tác Giả: VIỆT PHƯƠNG)
Cái nóng tháng
năm đưa anh xuống biển. Anh bước đi
khi cơn nắng hạ soi trên đỉnh đầu nỗi
đau váng vất. Thành phố buồn thiu. Anh cúi đầu
lầm lũi. Ánh mắt buồn bã của cha anh như chiếc
bóng theo anh trên lối đi. Ôi! Đôi mắt buồn đến
chín nẫu lòng anh. Mà mãi đến bây giờ anh vẫn nhớ.
Đó cũng là lần cuối cùng trong đời, ba anh
nhìn anh. Đôi mắt có những lằn gân đỏ của
những đêm mất ngủ. Anh ứa nước mắt
khi nhớ tới đôi mắt đẫm ướt của
mẹ. "Con tới nơi, nhớ viết thư về".
Mẹ thì thào bên tai anh. Anh điếng người dạ dạ.
Con đường buổi trưa thưa thớt tiếng
xe. Anh đi như trong cơn mê sảng. Qua cầu Xóm Bóng,
nhìn lên Tháp Bà, anh thấy những chùm hoa phượng đỏ
rung rinh, như máu loang trên bầu trời xanh không một
áng mây. Đó là một ngày cuối Tháng Năm, 1982. Anh xuống
bãi Dương theo hẹn, đi vượt biên.
o O o
Chiếc tàu
nhỏ như chiếc lá giữa đại dương. Thật
ra, khi lội ra biển để lên tàu, anh mới thấy
bất ngờ. Chiếc tàu quá nhỏ không đủ cho một
chuyến hải hành dài. Không lẽ lại quay về. Vàng,
mẹ đã chung trước. Mà có quay về chưa chắc
người tổ chức đã cho phép. Thôi cũng
đành, như cô dâu chọn sai bến đỗ: "Bước chân
xuống thuyền, nước mắt rưng rưng"
.. .. Anh đâu có nói ngoa. Anh khóc
thật. Anh khóc bằng những giọt nước mắt
chảy ngược vào tim, làm tưng tức lồng ngực.
Vì biết rằng ra đi, anh sẽ phải đánh mất
tất cả. Tàu âm thầm rẽ nước dưới
ánh trăng lu. Tất cả mọi người im lìm, nín thở.
Chỉ nghe tiếng máy tàu nổ rì rầm. Đêm không thấy
mặt nhau. Tàu lao vào biển đen. Gió cào cấu da thịt
anh một cảm giác rờn rợn. Những dây thần
kinh trong óc anh căng như những sợi dây đàn, chờ
một ai đó chạm vào, khuấy động một thứ
âm thanh lạc loài, ma quái. Bỗng, có tiếng nổ. Phá tan
màn đêm dày sệt. Một tiếng hét thất thanh. Hình
như ai đó bị trúng đạn. Trên tàu nhốn nháo. Có
tiếng người đàn ông la lớn. Bình tĩnh. Mọi
người hãy bình tĩnh. Không được đứng
dậy. Ai ngồi yên đấy. Không thì lật tàu. Tiếng
súng vẫn nổ. Nhưng trời ơi! sao chiếc tàu lại
như con sâu đo, chậm chạp đo từng bước
một, trên biển trời mênh mông vô tận?
Thời gian
trôi rất chậm. Cho đến khi người tài công la
lớn lên để trấn an mọi người. Gần
tới hải phận rồi. Tụi nó đã ngưng
đuổi theo, bà con yên tâm. Ai nấy đều thở
phào, nhẹ nhõm. Chỉ còn tiếng khóc tỉ tê, não lòng của
người đàn bà đang ôm cứng xác chồng.
Buổi sáng,
mặt trời uể oải ngoi mình lên từ mặt
nước biển còn thẫm màu. Anh mới hoàn hồn.
Người đàn ông khoảng 36 tuổi bị trúng đạn
tối hôm qua, đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Mọi
người đồng ý thả xác ông xuống biển.
Máu loang cả một vùng. Biển máu nhấp nhô trộn với
ánh bình minh le lói sáng, tạo thành một màu đỏ lóng
lánh, sền sệt đến
rợn người. Hình như người đàn ông còn có
thêm đứa con trai 10 tuổi. Anh thấy cậu bé ôm lấy
mẹ, khi bà ấy khóc như điên dại, chứng kiến
xác ông bị trục xuống biển. Sau đó, tiếng
khóc nỉ non nhỏ dần, nhỏ dần .. Đêm đến,
anh lại nghe tiếng chị khóc một mình. Não ruột.
Ngoài vài khuôn
mặt anh đã gặp buổi chiều trong căn phòng
trước khi chờ đêm xuống để lội ra
tàu, anh còn thấy thêm những khuôn mặt mới. Trong
đó có đôi vợ chồng mới cưới chưa tới
một năm. Người vợ xinh đẹp, cặp mắt
đen láy, nụ cười tròn lẳn, hay mỉm cười
với anh, khiến anh có thiện cảm. Nhìn họ âu yếm
lo lắng cho nhau trên tàu, anh thấy tủi thân chi lạ. Họ
ngồi bên cạnh anh nên bắt chuyện cũng dễ dàng.
Người chồng tên Quang, lớn hơn vợ 5 tuổi,
cô gái tên Yên, lớn hơn anh 3 tuổi. Cả hai từ Sài
Gòn ra Nha Trang vượt biên.
Chuyến tàu
gồm 26 nhân mạng, vừa chết một, nay chỉ còn
lại 25 người. Tuy nhiên so với chiếc tàu nhỏ
như thế, 25 người cũng đã quá tải. Anh
nghĩ tới chặng đường trước mặt,
thấy tuyệt vọng vô cùng. Chưa hết ngày thứ
5, lương thực và nước uống trên tàu đã
không còn. Chiếc tàu cũng không biết chạy về
hướng nào, vì cái hải bàn cũng đã bị đập
bể bởi ông tài công sau một cuộc cãi vã, giành giựt
nhau về nước uống. Anh lén lút cầm hơi bằng
những gói sâm bột mẹ anh đã giấu kỹ cho anh
trong áo lót. Sau đó anh không cầm lòng, đành mang ra san sẻ
cho cậu bé nhỏ hơn anh mấy tuổi đang nằm
thoi thóp bên cạnh. Đến ngày thứ bảy. Tàu bể
máy. Hết rồi. Tuyệt vọng rồi. Cậu bé bên cạnh
anh đã chết. Anh cũng không còn hơi sức nào cả.
Khát quá, đành phải uống nước biển. Càng uống,
càng khát. Hai đứa bé một và hai tuổi của cặp
vợ chồng trẻ, mấy ngày trước còn cho bố
mẹ chúng nước tiểu để uống, hôm nay
cũng đã qua đời. Thả hai cháu xuống biển,
bố mẹ cháu cũng không còn nước mắt để
khóc. Anh chỉ thấy trong lõm mắt họ thật sâu, hun
hút niềm đau. Cậu bé bên cạnh anh cũng được
thả xuống biển. Hình như cậu khoảng 15, 16
tuổi gì đó. Cậu đi một mình. Khuôn mặt cậu
chìm xuống dòng nước, trẻ như tuổi 13. Anh vẫn
nhớ hoài khuôn mặt đó. Và đôi mắt biết
ơn nhìn anh khi cầm gói sâm Hoa Kỳ anh tặng trên tay.
Chiếc tàu
lần quần giữa đại dương. Ban đêm,
đầu óc anh mơ màng thấy cậu bé và hai đứa
nhỏ ngồi trên mui thuyền. Anh không biết thực hay
mộng, vì linh hồn anh đôi lúc đã thấy cận kề
với họ. Biển đêm không trăng. Âm u. Rờn rợn.
Gió se lạnh vào da. Cơn đói khát vã người. Anh chập
chờn ảo giác thấy những cánh tay vươn lên từ
đại dương, kéo chiếc tàu đứng lại.
Có lúc anh lại thấy cả người đàn ông mình mẩy
đầy máu, ngồi ướt đẫm trên mũi tàu.
Người đàn ông trúng đạn đêm đầu
tiên. Khuôn mặt ông buồn vời vợi. Vài ngày sau đó,
vợ ông cũng chết theo ông.
Qua ngày hôm
sau, lại có thêm người chết. Hình như anh Quang chồng
chị Yên. Anh thấy chị khóc không ra lệ. Khuôn mặt
xinh đẹp khiến anh chú ý từ ban đầu đã
biến dạng. Đen mốc, khắc khổ tội tình.
Người chồng mới cưới tròm trèm một
năm, nằm co quắp bên cạnh. Không ai còn đủ sức
để trục họ xuống biển. Người chết,
kẻ sống như nhau, nằm kề bên nhau, chỉ khác
nhau hơi thở. Ngày qua, đêm tới, vẫn những
linh hồn đó vất vưởng trên tàu. Anh nhìn họ
thật gần. Họ có khác gì anh đâu. Càng lúc, anh thấy
càng có nhiều cánh tay vươn lên từ mặt biển
như những nhánh xương rồng, khẳng khiu, níu
kéo tàu anh lại. Sau này, anh nghe người ta bảo, những
linh hồn chết oan đó cố tình làm nặng tàu, không
muốn cho tàu trôi đi. Anh tin điều đó, vì đôi
khi anh có cảm tưởng chiếc tàu không nhúc nhích, dù chỉ
một di động nhỏ nhoi. Có đêm, anh còn nhìn thấy
hai đứa bé rượt nhau chạy trên những xác
người, rất thảnh thơi.
Chiếc tàu
vẫn âm thầm lặng lờ trôi. Những xác người
nằm phơi trên đó như những xác cá khô. Ngày nắng
cháy da. Đêm lạnh chín thịt. Áo sống và những gì
có thể, đã được cột lại làm buồm.
Ôi cánh buồm tả tơi thế kỷ. Những xác
người chờ chết. Chết thêm một vài lần.
Đêm thứ
30. Trời nổi gió. Sóng lớn. Chiếc tàu như muốn
bị nhận chìm. Sau đó là một trận mưa. Một
trận mưa tưới lên những đôi môi khô hạn,
nứt nẻ. Anh như được hồi sinh. Ôi! Những
giọt nước mưa như những giọt cam lồ.
Tạ ơn Quan Thế Âm Bồ Tát. Những giọt nước
cam lồ cải tử hoàn sanh. Mưa rớt. Bão táp.
Mưa như nhận chìm tàu xuống đáy vực nước.
Bão cuồng nộ hất tung tàu lên lại trên đầu
sóng. Cứ như thế. Chiếc tàu như biết nhào lộn
với sóng nước. Không còn tiếng la thất thanh, hốt
hoảng. Không còn sợ hãi. Đã chết trong mấy ngày
qua. Chết thêm một lần, chẳng sao .. Nhưng
như một phép lạ. Bão cuốn chiếc tàu vào bờ.
Bão đánh chiếc tàu đụng bãi. Tàu vỡ. Có hề
chi. Đụng bãi. Không thấy tiếng kêu la mừng rỡ?
Sức lực đâu? Mạnh ai nấy bò xuống tàu. Lê
thân vào bãi cát. Trời ơi! Về tới đất liền.
Mưa vẫn còn xối xả. Mưa như roi quất vào
da thịt trần khi áo quần đã rách tả tơi. Và,
bão như tát vào mặt những bạt tai trời giáng.
Nhưng không sao. Cảm ơn mưa như những lằn
roi thức tỉnh. Cảm ơn bão đã quật đời
sống dậy từ con tàu như nấm mồ hoang lạnh.
Anh nằm sóng soài trên mặt cát. Trời đất quay cuồng,
đảo lộn. Cảm ơn cuộc đời. Anh còn
sống. Được sống. Dầu không biết mình
đang bị trôi dạt vào đâu?
o O o
Những
tháng ngày mới đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Lúc
nào anh cũng có cảm giác mình đang bị say sóng. Trong giấc
ngủ của anh, luôn đưa anh trôi lềnh bềnh, chập
chờn trên sóng nước. Có đêm anh mơ thấy những
cánh tay khẳng khiu trồi lên từ mặt nước
đen ngòm. Và, trời ơi! Máu. Máu loang. Loang lênh láng trên chỗ
anh nằm. Giật mình thức giấc, anh mừng rỡ
thấy yêu quý đời sống lạ lùng. Đời sống
tự do mà anh suýt phải đổi lấy sinh mạng của
chính mình.
Lần đầu
tiên anh gặp lại cậu bé trên đất Mỹ, khi
đang lái xe về nhà sau một cơn say xỉn của buổi
họp mặt cuối năm. Đó là cái Tết Việt
Nam đầu tiên trên xứ người. Không gian vần
vũ tuyết rơi. Anh lái xe trong tiếng nhạc phát ra từ
chiếc băng cassette cũ, đã nhão. Giọng Lệ Thu
nghe mềm nhũn thịt da: "Mây bao la trời đen u tối. Đêm
đông trường lữ khách bâng khuâng .." (*).
Anh lè nhè hát
theo. Nước mắt anh bỗng dưng tuôn trào. Đêm trừ
tịch quê người. Anh một mình lái xe về chốn
trọ trong hắt hiu niềm nhớ. Cơn buồn ngủ
khi không kéo mí mắt của anh sụp xuống. Xa lộ vắng
người. Anh chợt thiếp đi trong chớp mắt.
Bỗng dưng anh thấy có bàn tay nhỏ bé nào đó kéo anh
tỉnh giấc. Trong một sát na. Anh thấy đầu xe
anh sắp sửa đụng vào đuôi xe vận tải
trước mặt. Ai đó, níu vô lăng. Xe anh bay khỏi
highway, lao xuống lòng đường sâu hun hút. Anh chợt
ngất đi. Đến bên anh bằng một vệt sáng,
cậu bé có khuôn mặt tím tái như nhuốm bệnh. Tóc cậu
loe hoe vài sợi mềm dính sát da đầu. Cậu mở
miệng cười như thiên thần. Nụ cười
không một cái răng, móm mém, dễ yêu đến lạ
thường. Cậu rót vào tai anh những âm thanh lạ lẫm
như muốn vực anh dậy. Anh choàng tỉnh. Lồm cồm
bước ra khỏi xe. Trời lạnh. Tuyết vẫn
còn rơi. Không một ai chung quanh. Anh vội vàng lên xe, nổ
máy. Chạy tiếp. Lạ quá. Chiếc xe Oldsmobile đời
1975, dềnh dàng như một chiếc xe tăng cũ kỹ,
không hề hấn gì. Như một phép lạ, vẫn tiếp
tục nổ máy. Anh tỉnh người. Cảm ơn Trời
Phật. Quành ra highway, chạy trong cơn hoàn hồn. Về
nơi chốn trọ. Anh ngã lăn ra ngủ như chết.
Sáng hôm sau tỉnh giấc. Anh không bị thương tích
gì. Nhớ lại chuyện đêm qua cùng khuôn mặt cậu
bé anh đã gặp đâu đó, làm anh rùng mình.
o O o
Năm 2002,
anh trở về thăm Việt Nam lần đầu tiên
sau 20 năm xa xứ. Thành phố cũ đã có những
thay đổi. Không như những ngày tháng của 20
năm trước. Dĩ nhiên. Hai mươi năm, thời
gian đủ cho một đứa trẻ sinh ra và trưởng
thành. Anh cũng đã bước vào tuổi trung niên, thì mọi
sự thay đổi không phải là một điều khó
hiểu. Anh trầm tư nhìn thành phố anh đã lớn
lên với nhiều xúc cảm. Anh qua cầu xóm Bóng, viếng
Tháp Bà. Những chùm phượng xưa vẫn còn nở
đỏ trong bầu trời tháng hạ. Anh ra bãi
Dương, hình ảnh vượt biên ngày cũ gợn lại
trong anh khiến anh bật khóc tự lúc nào. May quá, chung quanh
anh không có ai để thấy rõ sự mềm yếu này. Bỗng
nhiên anh muốn quay về căn nhà của mẹ. Muốn
sà vào lòng mẹ. Anh sợ phải nhìn thấy máu loang từ
ngoài khơi, khi không tràn vào nhận chìm trí nhớ.
Mẹ anh lúc
nào cũng muốn giữ chân anh ở nhà trong những ngày
anh về thăm quê hương. Nhưng anh nhất định
xin mẹ lên Đà Lạt chơi vài ngày. Anh sợ nhìn sóng
biển. Anh muốn lên cao nguyên tìm sự an bình. Thành phố
anh đã bỏ quên mối tình đầu của mình trên ấy.
"Anh
hãy nhìn vào đây. Huyền muốn giữ hình ảnh của
anh lại mãi trong chiếc gương này. Đừng lay
động. Đừng tan biến".
Huyền vừa cầm chiếc gương được
gắn vào khung gỗ thông, cưa cắt bằng thủ
công cầu kỳ, vừa nói với anh khi cả hai đang
đứng trong gian hàng bán quà lưu niệm ở khu Hòa
Bình. Anh cười tươi như đang chuẩn bị
được chụp hình. Huyền, cô gái mười tám
anh quen trong sân trường đại học Đà Lạt,
những ngày anh lên thi vào Trường Đại Học
Nguyên Tử Lực ở đây. Chỉ hai tuần sống
trên Đà Lạt mà tình cảm mới lớn của hai
đứa mọc xanh như cỏ trong sân trường.
Huyền có xuống tìm anh ở Nha Trang trước ngày anh
đi vượt biên. Huyền khóc trên vai anh khi hai đứa
ngồi trong quán cà phê Chiều Tím đường Hai Chùa.
Đó là những kỷ niệm của anh và Huyền, dù chỉ
là những tháng ngày rất ngắn. Kỷ niệm lúc nào
cũng đẹp dù đó là kỷ niệm buồn. Đẹp
và buồn như những giọt nước mắt của
Huyền năm nào làm dậy sóng ly cà phê đen sánh. Đêm
đó, dưới tàn cây hồng đào trong quán cà phê Chiều
Tím, anh nói với Huyền khi đang khoắng khoắng ly
cà phê để che giấu sự lúng túng: "Đừng hy vọng
bất cứ những gì nơi anh. Vì anh sẽ ra đi.
Vĩnh viễn ra đi".
Cuối cùng
anh cũng thuyết phục được mẹ anh. Ngồi
trên xe đò bình thường với những hành khách địa
phương. Anh thấy gần gũi hơn với người
dân trong nước. Anh ăn mặc giản dị. Mang theo
backpack gồm vài bộ đồ và giấy tờ tùy thân.
Anh ngồi cạnh cửa sổ. Bên phải anh là người
đàn bà gầy gò thỉnh thoảng rung lên trong cơn ho sù
sụ. Xe leo lên đèo Ngoạn Mục. Khí hậu đã bắt
đầu thay đổi dễ chịu. Chiếc xe đò
cũ kỹ, nặng nề leo lên con đèo ngoằn ngoèo,
chật hẹp, có từ thời Pháp thuộc. Thỉnh thoảng
có những chiếc xe ngược chiều, chạy ào
trước mặt, khiến anh giật thót tim. Xe ì ạch
leo lên đèo. Anh nhìn xuống, một bên là vực sâu, bên kia
là vách núi. Chiều về rất vội. Cửa xe hở.
Gió như than rít bên ngoài. Anh nghe tiếng nổ bánh xe. Chiếc
xe bỗng dưng mất thăng bằng. Hành khách trong xe la
rú thảm khốc. Anh nhắm mắt. Thôi rồi, nếu
chiếc xe lăn xuống vực sâu như thế kia, thì,
chẳng ai còn sống. Đột nhiên anh thấy một vệt
sáng. Trời ơi! Thiên thần bé nhỏ của anh. Cậu
bé tóc loe hoe mấy sợi dính sát da đầu, bay qua mắt
anh làm bao nhiêu lỗ chân lông trên da thịt anh như muốn
nở ra. Mồ hôi anh tươm, rìn rịn. Gió thổi tốc
vào da lạnh tới tận xương. Anh nghe một tiếng
rầm rất lớn. Chiếc xe tông vào vách núi, nằm chổng
bốn bánh lên trời. Mọi người hoàn hồn bò ra
khỏi xe. Lạ! Không ai bị thương nặng. Chỉ
có một vài người bị trầy sướt ngoài da.
Anh nhìn lại anh. Không một vết thương. Giống
như lần đầu anh bị tại nạn bên Mỹ
một đêm tuyết năm nào. Anh nhìn quanh. Cậu bé loe
hoe mấy sợi tóc dính sát da đầu, đang vẫy vẫy
bàn tay nhỏ xíu trước khi bay mất vào rừng.
Anh đến
Đà Lạt, không còn Huyền trong căn nhà nhỏ với
nhiều chùm hoa giấy tím trước hiên nhà. Căn nhà
đã được thay chủ nhiều lần. Và Huyền,
chỉ còn lại nơi anh, trong trí nhớ.
Anh ở
Khách Sạn Đà Lạt, vài ngày, loanh quanh chốn cũ.
Anh đi góp nhặt từng kỷ niệm của thời
mới lớn. Anh bước vào tiệm bán đồ lưu
niệm năm nào nay đã được tân trang, quy mô
hơn. Cầm chiếc gương trên tay. Anh soi lại
hình bóng anh những năm mười tám. "Yêu nhau giữa
đám rong rêu. Theo dòng nước cuốn lêu bêu .."
(**). Ca khúc Huyền đã hát cho anh nghe trên đồi Cù
năm nào nay thoảng vào tai anh như gió. Anh ngang qua Vọng
Nguyệt Lầu, hình như Huyền đang ngồi đâu
đó bên anh, đang chu môi thổi muỗng chè nóng hổi.
Anh thở dài. Hai mươi năm còn gì, chắc giờ này
Huyền đã là mẹ của một bầy con rồi.
o O o
Lần thứ
ba anh gặp cậu bé vào một buổi chiều chạng
vạng tối. Anh cố gắng nhổ nốt đám cỏ
dại cuối vườn. Bỗng nhiên, cậu bé đến
như một vệt sáng, lao qua mặt anh. Anh sửng sốt
hướng tầm mắt về phía đó. Thì trời
ơi! Đứa con gái đầu lòng hai tuổi của
anh không biết bằng cách nào đã ra khỏi nhà và đang
rơi tõm xuống hồ bơi. Anh tung mình xuống hồ.
Con gái anh đã chìm xuống đáy nước. Anh lặn xuống.
Xốc cháu lên trong cơn hốt hoảng tột cùng. Khi
đem cháu lên khỏi mặt nước, người cháu
đã tím. Anh làm một vài động tác cấp cứu. Lúc
cháu tỉnh dậy, anh còn nghe thấy tiếng cười
nắc nẻ của cậu bé làm mặt nước hồ
gợn sóng lăn tăn. Rõ ràng anh thấy cậu bé -
cũng với những sợi tóc loe hoe dính sát da đầu
- đang vụt bay, rất nhanh trong ánh chiều tà.
Đêm
đó, anh lại mơ thấy anh đang mê thiếp trên tàu
và những linh hồn vẫn còn ngồi đong đưa
trên mũi tàu. Hai đứa bé chạy trên những xác
người, hồn nhiên như dạo nào. Tiếng khóc nỉ
non của người vợ mất chồng vẫn còn
vang động góc tàu. Máu người chồng vẫn còn chảy
nóng hổi lòng tàu. Và, đứa con trai mười tuổi
còn sống anh vẫn thường gặp: lẻ loi, lạc
loài trong trại tỵ nạn Hong Kong.
o O o
Nơi chiếc
tàu bị bão đánh tấp vào, may quá, không phải là một
bãi bờ của Việt Nam, mà là một làng nhỏ thuộc
đảo Hải Nam. Anh và những người trên tàu may
mắn còn sống sót. Đếm lại, chỉ còn 8
người. Như thế là 18 người đã bị chết.
Có những xác còn nằm trong khoang tàu. Dân trên làng ùa xuống
biển xem bọn anh bò lê lết trên bãi như những con
thú lạ. Áo quần mục rách. Da thịt rát bỏng nổi
mụn nước đầy người. Rồi họ nấu
cháo cho ăn. Ôi! Những bát cháo trắng nóng hổi ăn với
muối hột của dân đảo Hải Nam dạo ấy,
ngon nhất trần đời.
Buổi chiều
hôm đó, chị Yên - người thiếu phụ có đôi
mắt đen và nụ cười tròn lẳn - ngồi bên
anh trên đồi cát. Biển xanh, hàng thùy dương
như rú gọi trong gió những tiếng kêu thê thiết.
Chiếc tàu bị cát lấp chỉ còn nửa thân đang
trồi đầu hiu hắt cuối bãi. Chị Yên cất
giọng rầu rầu nói với anh:
"Chị
đang mang thai 8 tháng trong bụng. Nhưng lạ quá, chị
không nghe cháu đạp. Anh Quang mất rồi. Chị không
biết ai lo cho chị khi sanh nở đây. Con so em à, chị
cũng không có kinh nghiệm gì cả".
Anh quay nhìn chị
ngạc nhiên:
"Chị
có thai 8 tháng ư? Sao em thấy bụng chị không lớn?"
"Tại
chị mặc áo rộng. Hơn nữa chắc em bé
cũng nhỏ xíu thôi".
Anh im lặng.
Như vậy số người trên tàu phải tính là 27
người mới đúng. Chị Yên tiếp:
"Khi chị
sinh con, em giúp chị nhé".
Anh giãy nảy:
"Em
đâu có biết ba cái vụ này chị".
Chị Yên
nhìn anh khẩn cầu:
"Em giúp chị
tới đâu thì hay tới đó nhé".
Anh bối rối
gật đầu:
"Em sẽ
giúp, nhưng không biết là giúp chị bằng cách nào
đây .. Em chưa biết gì về .. đàn bà .. con gái hết
.."
Chị Yên
phá lên cười:
"Chị
hiểu. Em là trai tân mà".
Anh đỏ
mặt. Nhìn bụng chị Yên. Dưng không anh thấy cay
cay mi mắt. Anh nhìn những con sóng bạc đầu. Chiều
xám. Biển mênh mông quá, không thấy được
đường chân trời. Quê nhà xa lắc. Anh có cảm
giác hụt hẫng, thất lạc. Không biết ngày mai sẽ
ra sao. Anh thì thầm hát:
"Ôi quê
hương! Giờ chìm trong khói sương. Mây bao la gợi
sầu ai viễn phương .." (***)
"Bài hát buồn
quá".
Nói xong. Chị
Yên gục mặt trên vai anh, khóc nức nở.
Tối hôm ấy,
chị Yên trở dạ. Chị kêu la thảm thiết. Anh
và chị Hạnh, người phụ nữ (có hai đứa
con nhỏ chết trên tàu) bối rối giúp chị suốt
đêm. Đến gần sáng, em bé mới ra khỏi bụng
mẹ. Mặt em tím tái. Tóc em loe hoe mấy sợi mềm
dính sát vào da đầu. Mắt em nhắm nghiền. Chị
Hạnh vỗ vào mông em bé. Không một tiếng khóc. Thì ra em
bé đã chết trong bụng mẹ tự bao giờ mà chị
Yên không biết. Chị Yên khóc ngất khi biết con mình
đã chết. Chị Hạnh quấn em bé trong chiếc áo
rách rồi đưa cho anh bế. Chị nói với chị
Yên đó là con trai. Chị hỏi ý chị Yên nhờ anh mang
đi chôn cất em bé giùm. Chị Yên đau đớn gật
đầu. Anh run run ôm em bé vào lòng. Bỗng dưng anh bật
khóc. Trời ơi! Em bé có tội tình gì đâu. Anh lồm cồm
bước khỏi căn chái. Chân anh xiêu vẹo trên cát. Anh
nhìn đứa bé Việt Nam, chết vô lý trên đất
người, khi chưa kịp khóc tiếng chào đời.
Ôm chặt đứa bé còn ướt, anh ngước mặt
nhìn trời. Bỗng nhiên anh rống lên khóc. Không biết anh
khóc thương anh hay khóc thương ai? Khóc một trận
để giải tỏa những đớn đau, ức
chế trong tháng ngày vừa qua.
Như thế,
tính thêm em bé này, số tử vong trên chuyến tàu anh đi
đã lên tới con số 19.
Anh kiếm một
miếng đất cạnh bờ suối, đào huyệt
chôn em bé. Em bé chưa có tên. Vô danh. Anh chỉ biết chôn em,
làm dấu trên tảng đá gần đó. Để một
mai có trở lại .. Ngôi mộ
em. Tảng đá ấy. Bên bờ suối. Trong ngôi làng tên là Lèng-lao thuộc đảo Hải
Nam. Anh vẫn mong có dịp về lại đó. Nhưng
đã trên ba mươi năm rồi anh vẫn chưa thực
hiện được tâm niệm của mình.
o O o
Anh đổi
nhà khác, khi đứa con gái thứ hai chào đời. Anh
không muốn có hồ bơi sau nhà nữa. Anh sợ. Rất
sợ.
Lúc dọn
vào nhà mới, để tiết kiệm tiền thuê thợ
thiết kế màn cửa, anh tự tay làm lấy. Sau khi
quan sát một vài nhà mẫu và tìm ý tưởng trong những
tạp chí về trang trí nội thất, anh bắt tay vào
làm việc. Nhà cửa vẫn còn ngổn ngang. Chiếc bàn
cà phê mặt kính, vẫn chưa được đặt
vào đúng chỗ, vẫn còn nằm cạnh lò sưởi,
bệ bằng đá trắng. Trần nhà cao 22 ft, làm anh phải
bắc thang cao để đóng đinh, máng màn. Vợ con
anh đứng xa xa phía dưới ngắm giùm anh đã ngay
ngắn chưa để anh đóng đinh vào. Đang loay
hoay với tấm vải màn và chiếc búa lẫn đinh lỉnh
kỉnh. Khi không anh bị mất thăng bằng rơi xuống.
Anh nghe rất rõ tiếng vợ và đứa con gái lớn
của anh hốt hoảng đồng loạt la lớn.
Nghe chỉ để mà nghe. Anh không biết làm sao hết.
Đang chới với rơi xuống, nếu đầu
không đụng vào bệ lò sưởi bằng đá thì
cũng đập vào bàn cà phê mặt kính dày 3 ly bên cạnh.
Đập vào đâu cũng tồi tệ, không chết
cũng bị thương. Thôi rồi. Anh dọn sẵn
mình.
Anh hoa mắt.
Một vệt trắng bay qua, hất anh văng xuống thảm.
Như một phép lạ. Anh đứng dậy ngẩn
ngơ. Anh nghe văng vẳng tiếng cười. Cậu
bé vẫn chưa có tên. Vẫn tóc loe hoe vài sợi mềm
dính sát da đầu. Đang bay ra khỏi nhà như một
làn khói. Dĩ nhiên, lần này cũng chỉ một mình anh
nhìn thấy, mà thôi.
VIỆT
PHƯƠNG
10/2013
(Diễm Trinh sưu tầm và chuyển)