Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | TÀI TÌNH | CHÚ Ý | CHÚ Ý [tt] | CHÚ Ý 1 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | TA.P GHI 50 | TA.P GHI 51 | TA.P GHI 52 | TA.P GHI 53 | TA.P GHI 54 | TA.P GHI 55 | TA.P GHI 56 | TA.P GHI 57 | TA.P GHI 58 | TA.P GHI 59 | TA.P GHI 60 | TA.P GHI 61 | TA.P GHI 62 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI [1] | VA(N VUI [2] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | LINKS | TIN BUÔ`N | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | THÚ VI. | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | TU'? TÊ' | TU'? TÊ' [tt] | TU'? TÊ' 1 | TU'? TÊ' 2 | TU'? TÊ' 3 | -DE.P | -DÔ.C -DÁO

TA.P GHI 33

 

LINH HỒN

(Tác Gi: VIT PHƯƠNG)

 

 

Cái nóng tháng năm đưa anh xuống biển. Anh bước đi khi cơn nắng hạ soi trên đỉnh đầu nỗi đau váng vất. Thành phố buồn thiu. Anh cúi đầu lầm lũi. Ánh mắt buồn bã của cha anh như chiếc bóng theo anh trên lối đi. Ôi! Đôi mắt buồn đến chín nẫu lòng anh. Mà mãi đến bây giờ anh vẫn nhớ. Đó cũng là lần cuối cùng trong đời, ba anh nhìn anh. Đôi mắt có những lằn gân đỏ của những đêm mất ngủ. Anh ứa nước mắt khi nhớ tới đôi mắt đẫm ướt của mẹ. "Con tới nơi, nhớ viết thư về". Mẹ thì thào bên tai anh. Anh điếng người dạ dạ. Con đường buổi trưa thưa thớt tiếng xe. Anh đi như trong cơn mê sảng. Qua cầu Xóm Bóng, nhìn lên Tháp Bà, anh thấy những chùm hoa phượng đỏ rung rinh, như máu loang trên bầu trời xanh không một áng mây. Đó là một ngày cuối Tháng Năm, 1982. Anh xuống bãi Dương theo hẹn, đi vượt biên.

 

o O o

 

Chiếc tàu nhỏ như chiếc lá giữa đại dương. Thật ra, khi lội ra biển để lên tàu, anh mới thấy bất ngờ. Chiếc tàu quá nhỏ không đủ cho một chuyến hải hành dài. Không lẽ lại quay về. Vàng, mẹ đã chung trước. Mà có quay về chưa chắc người tổ chức đã cho phép. Thôi cũng đành, như cô dâu chọn sai bến đỗ: "Bước chân xuống thuyền, nước mắt rưng rưng" .. ..  Anh đâu có nói ngoa. Anh khóc thật. Anh khóc bằng những giọt nước mắt chảy ngược vào tim, làm tưng tức lồng ngực. Vì biết rằng ra đi, anh sẽ phải đánh mất tất cả. Tàu âm thầm rẽ nước dưới ánh trăng lu. Tất cả mọi người im lìm, nín thở. Chỉ nghe tiếng máy tàu nổ rì rầm. Đêm không thấy mặt nhau. Tàu lao vào biển đen. Gió cào cấu da thịt anh một cảm giác rờn rợn. Những dây thần kinh trong óc anh căng như những sợi dây đàn, chờ một ai đó chạm vào, khuấy động một thứ âm thanh lạc loài, ma quái. Bỗng, có tiếng nổ. Phá tan màn đêm dày sệt. Một tiếng hét thất thanh. Hình như ai đó bị trúng đạn. Trên tàu nhốn nháo. Có tiếng người đàn ông la lớn. Bình tĩnh. Mọi người hãy bình tĩnh. Không được đứng dậy. Ai ngồi yên đấy. Không thì lật tàu. Tiếng súng vẫn nổ. Nhưng trời ơi! sao chiếc tàu lại như con sâu đo, chậm chạp đo từng bước một, trên biển trời mênh mông vô tận?

 

Thời gian trôi rất chậm. Cho đến khi người tài công la lớn lên để trấn an mọi người. Gần tới hải phận rồi. Tụi nó đã ngưng đuổi theo, bà con yên tâm. Ai nấy đều thở phào, nhẹ nhõm. Chỉ còn tiếng khóc tỉ tê, não lòng của người đàn bà đang ôm cứng xác chồng.

 

Buổi sáng, mặt trời uể oải ngoi mình lên từ mặt nước biển còn thẫm màu. Anh mới hoàn hồn. Người đàn ông khoảng 36 tuổi bị trúng đạn tối hôm qua, đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Mọi người đồng ý thả xác ông xuống biển. Máu loang cả một vùng. Biển máu nhấp nhô trộn với ánh bình minh le lói sáng, tạo thành một màu đỏ lóng lánh, sền sệt  đến rợn người. Hình như người đàn ông còn có thêm đứa con trai 10 tuổi. Anh thấy cậu bé ôm lấy mẹ, khi bà ấy khóc như điên dại, chứng kiến xác ông bị trục xuống biển. Sau đó, tiếng khóc nỉ non nhỏ dần, nhỏ dần .. Đêm đến, anh lại nghe tiếng chị khóc một mình. Não ruột.

 

Ngoài vài khuôn mặt anh đã gặp buổi chiều trong căn phòng trước khi chờ đêm xuống để lội ra tàu, anh còn thấy thêm những khuôn mặt mới. Trong đó có đôi vợ chồng mới cưới chưa tới một năm. Người vợ xinh đẹp, cặp mắt đen láy, nụ cười tròn lẳn, hay mỉm cười với anh, khiến anh có thiện cảm. Nhìn họ âu yếm lo lắng cho nhau trên tàu, anh thấy tủi thân chi lạ. Họ ngồi bên cạnh anh nên bắt chuyện cũng dễ dàng. Người chồng tên Quang, lớn hơn vợ 5 tuổi, cô gái tên Yên, lớn hơn anh 3 tuổi. Cả hai từ Sài Gòn ra Nha Trang vượt biên.

 

Chuyến tàu gồm 26 nhân mạng, vừa chết một, nay chỉ còn lại 25 người. Tuy nhiên so với chiếc tàu nhỏ như thế, 25 người cũng đã quá tải. Anh nghĩ tới chặng đường trước mặt, thấy tuyệt vọng vô cùng. Chưa hết ngày thứ 5, lương thực và nước uống trên tàu đã không còn. Chiếc tàu cũng không biết chạy về hướng nào, vì cái hải bàn cũng đã bị đập bể bởi ông tài công sau một cuộc cãi vã, giành giựt nhau về nước uống. Anh lén lút cầm hơi bằng những gói sâm bột mẹ anh đã giấu kỹ cho anh trong áo lót. Sau đó anh không cầm lòng, đành mang ra san sẻ cho cậu bé nhỏ hơn anh mấy tuổi đang nằm thoi thóp bên cạnh. Đến ngày thứ bảy. Tàu bể máy. Hết rồi. Tuyệt vọng rồi. Cậu bé bên cạnh anh đã chết. Anh cũng không còn hơi sức nào cả. Khát quá, đành phải uống nước biển. Càng uống, càng khát. Hai đứa bé một và hai tuổi của cặp vợ chồng trẻ, mấy ngày trước còn cho bố mẹ chúng nước tiểu để uống, hôm nay cũng đã qua đời. Thả hai cháu xuống biển, bố mẹ cháu cũng không còn nước mắt để khóc. Anh chỉ thấy trong lõm mắt họ thật sâu, hun hút niềm đau. Cậu bé bên cạnh anh cũng được thả xuống biển. Hình như cậu khoảng 15, 16 tuổi gì đó. Cậu đi một mình. Khuôn mặt cậu chìm xuống dòng nước, trẻ như tuổi 13. Anh vẫn nhớ hoài khuôn mặt đó. Và đôi mắt biết ơn nhìn anh khi cầm gói sâm Hoa Kỳ anh tặng trên tay.

 

Chiếc tàu lần quần giữa đại dương. Ban đêm, đầu óc anh mơ màng thấy cậu bé và hai đứa nhỏ ngồi trên mui thuyền. Anh không biết thực hay mộng, vì linh hồn anh đôi lúc đã thấy cận kề với họ. Biển đêm không trăng. Âm u. Rờn rợn. Gió se lạnh vào da. Cơn đói khát vã người. Anh chập chờn ảo giác thấy những cánh tay vươn lên từ đại dương, kéo chiếc tàu đứng lại. Có lúc anh lại thấy cả người đàn ông mình mẩy đầy máu, ngồi ướt đẫm trên mũi tàu. Người đàn ông trúng đạn đêm đầu tiên. Khuôn mặt ông buồn vời vợi. Vài ngày sau đó, vợ ông cũng chết theo ông.

 

Qua ngày hôm sau, lại có thêm người chết. Hình như anh Quang chồng chị Yên. Anh thấy chị khóc không ra lệ. Khuôn mặt xinh đẹp khiến anh chú ý từ ban đầu đã biến dạng. Đen mốc, khắc khổ tội tình. Người chồng mới cưới tròm trèm một năm, nằm co quắp bên cạnh. Không ai còn đủ sức để trục họ xuống biển. Người chết, kẻ sống như nhau, nằm kề bên nhau, chỉ khác nhau hơi thở. Ngày qua, đêm tới, vẫn những linh hồn đó vất vưởng trên tàu. Anh nhìn họ thật gần. Họ có khác gì anh đâu. Càng lúc, anh thấy càng có nhiều cánh tay vươn lên từ mặt biển như những nhánh xương rồng, khẳng khiu, níu kéo tàu anh lại. Sau này, anh nghe người ta bảo, những linh hồn chết oan đó cố tình làm nặng tàu, không muốn cho tàu trôi đi. Anh tin điều đó, vì đôi khi anh có cảm tưởng chiếc tàu không nhúc nhích, dù chỉ một di động nhỏ nhoi. Có đêm, anh còn nhìn thấy hai đứa bé rượt nhau chạy trên những xác người, rất thảnh thơi.

 

Chiếc tàu vẫn âm thầm lặng lờ trôi. Những xác người nằm phơi trên đó như những xác cá khô. Ngày nắng cháy da. Đêm lạnh chín thịt. Áo sống và những gì có thể, đã được cột lại làm buồm. Ôi cánh buồm tả tơi thế kỷ. Những xác người chờ chết. Chết thêm một vài lần.

 

Đêm thứ 30. Trời nổi gió. Sóng lớn. Chiếc tàu như muốn bị nhận chìm. Sau đó là một trận mưa. Một trận mưa tưới lên những đôi môi khô hạn, nứt nẻ. Anh như được hồi sinh. Ôi! Những giọt nước mưa như những giọt cam lồ. Tạ ơn Quan Thế Âm Bồ Tát. Những giọt nước cam lồ cải tử hoàn sanh. Mưa rớt. Bão táp. Mưa như nhận chìm tàu xuống đáy vực nước. Bão cuồng nộ hất tung tàu lên lại trên đầu sóng. Cứ như thế. Chiếc tàu như biết nhào lộn với sóng nước. Không còn tiếng la thất thanh, hốt hoảng. Không còn sợ hãi. Đã chết trong mấy ngày qua. Chết thêm một lần, chẳng sao .. Nhưng như một phép lạ. Bão cuốn chiếc tàu vào bờ. Bão đánh chiếc tàu đụng bãi. Tàu vỡ. Có hề chi. Đụng bãi. Không thấy tiếng kêu la mừng rỡ? Sức lực đâu? Mạnh ai nấy bò xuống tàu. Lê thân vào bãi cát. Trời ơi! Về tới đất liền. Mưa vẫn còn xối xả. Mưa như roi quất vào da thịt trần khi áo quần đã rách tả tơi. Và, bão như tát vào mặt những bạt tai trời giáng. Nhưng không sao. Cảm ơn mưa như những lằn roi thức tỉnh. Cảm ơn bão đã quật đời sống dậy từ con tàu như nấm mồ hoang lạnh. Anh nằm sóng soài trên mặt cát. Trời đất quay cuồng, đảo lộn. Cảm ơn cuộc đời. Anh còn sống. Được sống. Dầu không biết mình đang bị trôi dạt vào đâu?

 

o O o

 

Những tháng ngày mới đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Lúc nào anh cũng có cảm giác mình đang bị say sóng. Trong giấc ngủ của anh, luôn đưa anh trôi lềnh bềnh, chập chờn trên sóng nước. Có đêm anh mơ thấy những cánh tay khẳng khiu trồi lên từ mặt nước đen ngòm. Và, trời ơi! Máu. Máu loang. Loang lênh láng trên chỗ anh nằm. Giật mình thức giấc, anh mừng rỡ thấy yêu quý đời sống lạ lùng. Đời sống tự do mà anh suýt phải đổi lấy sinh mạng của chính mình.

 

Lần đầu tiên anh gặp lại cậu bé trên đất Mỹ, khi đang lái xe về nhà sau một cơn say xỉn của buổi họp mặt cuối năm. Đó là cái Tết Việt Nam đầu tiên trên xứ người. Không gian vần vũ tuyết rơi. Anh lái xe trong tiếng nhạc phát ra từ chiếc băng cassette cũ, đã nhão. Giọng Lệ Thu nghe mềm nhũn thịt da: "Mây bao la trời đen u tối. Đêm đông trường lữ khách bâng khuâng .." (*).

 

Anh lè nhè hát theo. Nước mắt anh bỗng dưng tuôn trào. Đêm trừ tịch quê người. Anh một mình lái xe về chốn trọ trong hắt hiu niềm nhớ. Cơn buồn ngủ khi không kéo mí mắt của anh sụp xuống. Xa lộ vắng người. Anh chợt thiếp đi trong chớp mắt. Bỗng dưng anh thấy có bàn tay nhỏ bé nào đó kéo anh tỉnh giấc. Trong một sát na. Anh thấy đầu xe anh sắp sửa đụng vào đuôi xe vận tải trước mặt. Ai đó, níu vô lăng. Xe anh bay khỏi highway, lao xuống lòng đường sâu hun hút. Anh chợt ngất đi. Đến bên anh bằng một vệt sáng, cậu bé có khuôn mặt tím tái như nhuốm bệnh. Tóc cậu loe hoe vài sợi mềm dính sát da đầu. Cậu mở miệng cười như thiên thần. Nụ cười không một cái răng, móm mém, dễ yêu đến lạ thường. Cậu rót vào tai anh những âm thanh lạ lẫm như muốn vực anh dậy. Anh choàng tỉnh. Lồm cồm bước ra khỏi xe. Trời lạnh. Tuyết vẫn còn rơi. Không một ai chung quanh. Anh vội vàng lên xe, nổ máy. Chạy tiếp. Lạ quá. Chiếc xe Oldsmobile đời 1975, dềnh dàng như một chiếc xe tăng cũ kỹ, không hề hấn gì. Như một phép lạ, vẫn tiếp tục nổ máy. Anh tỉnh người. Cảm ơn Trời Phật. Quành ra highway, chạy trong cơn hoàn hồn. Về nơi chốn trọ. Anh ngã lăn ra ngủ như chết. Sáng hôm sau tỉnh giấc. Anh không bị thương tích gì. Nhớ lại chuyện đêm qua cùng khuôn mặt cậu bé anh đã gặp đâu đó, làm anh rùng mình.

 

o O o

 

 

Năm 2002, anh trở về thăm Việt Nam lần đầu tiên sau 20 năm xa xứ. Thành phố cũ đã có những thay đổi. Không như những ngày tháng của 20 năm trước. Dĩ nhiên. Hai mươi năm, thời gian đủ cho một đứa trẻ sinh ra và trưởng thành. Anh cũng đã bước vào tuổi trung niên, thì mọi sự thay đổi không phải là một điều khó hiểu. Anh trầm tư nhìn thành phố anh đã lớn lên với nhiều xúc cảm. Anh qua cầu xóm Bóng, viếng Tháp Bà. Những chùm phượng xưa vẫn còn nở đỏ trong bầu trời tháng hạ. Anh ra bãi Dương, hình ảnh vượt biên ngày cũ gợn lại trong anh khiến anh bật khóc tự lúc nào. May quá, chung quanh anh không có ai để thấy rõ sự mềm yếu này. Bỗng nhiên anh muốn quay về căn nhà của mẹ. Muốn sà vào lòng mẹ. Anh sợ phải nhìn thấy máu loang từ ngoài khơi, khi không tràn vào nhận chìm trí nhớ.

 

Mẹ anh lúc nào cũng muốn giữ chân anh ở nhà trong những ngày anh về thăm quê hương. Nhưng anh nhất định xin mẹ lên Đà Lạt chơi vài ngày. Anh sợ nhìn sóng biển. Anh muốn lên cao nguyên tìm sự an bình. Thành phố anh đã bỏ quên mối tình đầu của mình trên ấy. "Anh hãy nhìn vào đây. Huyền muốn giữ hình ảnh của anh lại mãi trong chiếc gương này. Đừng lay động. Đừng tan biến". Huyền vừa cầm chiếc gương được gắn vào khung gỗ thông, cưa cắt bằng thủ công cầu kỳ, vừa nói với anh khi cả hai đang đứng trong gian hàng bán quà lưu niệm ở khu Hòa Bình. Anh cười tươi như đang chuẩn bị được chụp hình. Huyền, cô gái mười tám anh quen trong sân trường đại học Đà Lạt, những ngày anh lên thi vào Trường Đại Học Nguyên Tử Lực ở đây. Chỉ hai tuần sống trên Đà Lạt mà tình cảm mới lớn của hai đứa mọc xanh như cỏ trong sân trường. Huyền có xuống tìm anh ở Nha Trang trước ngày anh đi vượt biên. Huyền khóc trên vai anh khi hai đứa ngồi trong quán cà phê Chiều Tím đường Hai Chùa. Đó là những kỷ niệm của anh và Huyền, dù chỉ là những tháng ngày rất ngắn. Kỷ niệm lúc nào cũng đẹp dù đó là kỷ niệm buồn. Đẹp và buồn như những giọt nước mắt của Huyền năm nào làm dậy sóng ly cà phê đen sánh. Đêm đó, dưới tàn cây hồng đào trong quán cà phê Chiều Tím, anh nói với Huyền khi đang khoắng khoắng ly cà phê để che giấu sự lúng túng: "Đừng hy vọng bất cứ những gì nơi anh. Vì anh sẽ ra đi. Vĩnh viễn ra đi".

 

Cuối cùng anh cũng thuyết phục được mẹ anh. Ngồi trên xe đò bình thường với những hành khách địa phương. Anh thấy gần gũi hơn với người dân trong nước. Anh ăn mặc giản dị. Mang theo backpack gồm vài bộ đồ và giấy tờ tùy thân. Anh ngồi cạnh cửa sổ. Bên phải anh là người đàn bà gầy gò thỉnh thoảng rung lên trong cơn ho sù sụ. Xe leo lên đèo Ngoạn Mục. Khí hậu đã bắt đầu thay đổi dễ chịu. Chiếc xe đò cũ kỹ, nặng nề leo lên con đèo ngoằn ngoèo, chật hẹp, có từ thời Pháp thuộc. Thỉnh thoảng có những chiếc xe ngược chiều, chạy ào trước mặt, khiến anh giật thót tim. Xe ì ạch leo lên đèo. Anh nhìn xuống, một bên là vực sâu, bên kia là vách núi. Chiều về rất vội. Cửa xe hở. Gió như than rít bên ngoài. Anh nghe tiếng nổ bánh xe. Chiếc xe bỗng dưng mất thăng bằng. Hành khách trong xe la rú thảm khốc. Anh nhắm mắt. Thôi rồi, nếu chiếc xe lăn xuống vực sâu như thế kia, thì, chẳng ai còn sống. Đột nhiên anh thấy một vệt sáng. Trời ơi! Thiên thần bé nhỏ của anh. Cậu bé tóc loe hoe mấy sợi dính sát da đầu, bay qua mắt anh làm bao nhiêu lỗ chân lông trên da thịt anh như muốn nở ra. Mồ hôi anh tươm, rìn rịn. Gió thổi tốc vào da lạnh tới tận xương. Anh nghe một tiếng rầm rất lớn. Chiếc xe tông vào vách núi, nằm chổng bốn bánh lên trời. Mọi người hoàn hồn bò ra khỏi xe. Lạ! Không ai bị thương nặng. Chỉ có một vài người bị trầy sướt ngoài da. Anh nhìn lại anh. Không một vết thương. Giống như lần đầu anh bị tại nạn bên Mỹ một đêm tuyết năm nào. Anh nhìn quanh. Cậu bé loe hoe mấy sợi tóc dính sát da đầu, đang vẫy vẫy bàn tay nhỏ xíu trước khi bay mất vào rừng.

 

Anh đến Đà Lạt, không còn Huyền trong căn nhà nhỏ với nhiều chùm hoa giấy tím trước hiên nhà. Căn nhà đã được thay chủ nhiều lần. Và Huyền, chỉ còn lại nơi anh, trong trí nhớ.

 

Anh ở Khách Sạn Đà Lạt, vài ngày, loanh quanh chốn cũ. Anh đi góp nhặt từng kỷ niệm của thời mới lớn. Anh bước vào tiệm bán đồ lưu niệm năm nào nay đã được tân trang, quy mô hơn. Cầm chiếc gương trên tay. Anh soi lại hình bóng anh những năm mười tám. "Yêu nhau giữa đám rong rêu. Theo dòng nước cuốn lêu bêu .." (**). Ca khúc Huyền đã hát cho anh nghe trên đồi Cù năm nào nay thoảng vào tai anh như gió. Anh ngang qua Vọng Nguyệt Lầu, hình như Huyền đang ngồi đâu đó bên anh, đang chu môi thổi muỗng chè nóng hổi. Anh thở dài. Hai mươi năm còn gì, chắc giờ này Huyền đã là mẹ của một bầy con rồi.

 

o O o

 

Lần thứ ba anh gặp cậu bé vào một buổi chiều chạng vạng tối. Anh cố gắng nhổ nốt đám cỏ dại cuối vườn. Bỗng nhiên, cậu bé đến như một vệt sáng, lao qua mặt anh. Anh sửng sốt hướng tầm mắt về phía đó. Thì trời ơi! Đứa con gái đầu lòng hai tuổi của anh không biết bằng cách nào đã ra khỏi nhà và đang rơi tõm xuống hồ bơi. Anh tung mình xuống hồ. Con gái anh đã chìm xuống đáy nước. Anh lặn xuống. Xốc cháu lên trong cơn hốt hoảng tột cùng. Khi đem cháu lên khỏi mặt nước, người cháu đã tím. Anh làm một vài động tác cấp cứu. Lúc cháu tỉnh dậy, anh còn nghe thấy tiếng cười nắc nẻ của cậu bé làm mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Rõ ràng anh thấy cậu bé - cũng với những sợi tóc loe hoe dính sát da đầu - đang vụt bay, rất nhanh trong ánh chiều tà.

 

Đêm đó, anh lại mơ thấy anh đang mê thiếp trên tàu và những linh hồn vẫn còn ngồi đong đưa trên mũi tàu. Hai đứa bé chạy trên những xác người, hồn nhiên như dạo nào. Tiếng khóc nỉ non của người vợ mất chồng vẫn còn vang động góc tàu. Máu người chồng vẫn còn chảy nóng hổi lòng tàu. Và, đứa con trai mười tuổi còn sống anh vẫn thường gặp: lẻ loi, lạc loài trong trại tỵ nạn Hong Kong.

 

o O o

 

Nơi chiếc tàu bị bão đánh tấp vào, may quá, không phải là một bãi bờ của Việt Nam, mà là một làng nhỏ thuộc đảo Hải Nam. Anh và những người trên tàu may mắn còn sống sót. Đếm lại, chỉ còn 8 người. Như thế là 18 người đã bị chết. Có những xác còn nằm trong khoang tàu. Dân trên làng ùa xuống biển xem bọn anh bò lê lết trên bãi như những con thú lạ. Áo quần mục rách. Da thịt rát bỏng nổi mụn nước đầy người. Rồi họ nấu cháo cho ăn. Ôi! Những bát cháo trắng nóng hổi ăn với muối hột của dân đảo Hải Nam dạo ấy, ngon nhất trần đời.

 

Buổi chiều hôm đó, chị Yên - người thiếu phụ có đôi mắt đen và nụ cười tròn lẳn - ngồi bên anh trên đồi cát. Biển xanh, hàng thùy dương như rú gọi trong gió những tiếng kêu thê thiết. Chiếc tàu bị cát lấp chỉ còn nửa thân đang trồi đầu hiu hắt cuối bãi. Chị Yên cất giọng rầu rầu nói với anh:

"Chị đang mang thai 8 tháng trong bụng. Nhưng lạ quá, chị không nghe cháu đạp. Anh Quang mất rồi. Chị không biết ai lo cho chị khi sanh nở đây. Con so em à, chị cũng không có kinh nghiệm gì cả".

Anh quay nhìn chị ngạc nhiên:

"Chị có thai 8 tháng ư? Sao em thấy bụng chị không lớn?"

"Tại chị mặc áo rộng. Hơn nữa chắc em bé cũng nhỏ xíu thôi".

Anh im lặng. Như vậy số người trên tàu phải tính là 27 người mới đúng. Chị Yên tiếp:

"Khi chị sinh con, em giúp chị nhé".

Anh giãy nảy:

"Em đâu có biết ba cái vụ này chị".

Chị Yên nhìn anh khẩn cầu:

"Em giúp chị tới đâu thì hay tới đó nhé".

Anh bối rối gật đầu:

"Em sẽ giúp, nhưng không biết là giúp chị bằng cách nào đây .. Em chưa biết gì về .. đàn bà .. con gái hết .."

Chị Yên phá lên cười:

"Chị hiểu. Em là trai tân mà".

Anh đỏ mặt. Nhìn bụng chị Yên. Dưng không anh thấy cay cay mi mắt. Anh nhìn những con sóng bạc đầu. Chiều xám. Biển mênh mông quá, không thấy được đường chân trời. Quê nhà xa lắc. Anh có cảm giác hụt hẫng, thất lạc. Không biết ngày mai sẽ ra sao. Anh thì thầm hát:

"Ôi quê hương! Giờ chìm trong khói sương. Mây bao la gợi sầu ai viễn phương .." (***)

"Bài hát buồn quá".

Nói xong. Chị Yên gục mặt trên vai anh, khóc nức nở.

 

Tối hôm ấy, chị Yên trở dạ. Chị kêu la thảm thiết. Anh và chị Hạnh, người phụ nữ (có hai đứa con nhỏ chết trên tàu) bối rối giúp chị suốt đêm. Đến gần sáng, em bé mới ra khỏi bụng mẹ. Mặt em tím tái. Tóc em loe hoe mấy sợi mềm dính sát vào da đầu. Mắt em nhắm nghiền. Chị Hạnh vỗ vào mông em bé. Không một tiếng khóc. Thì ra em bé đã chết trong bụng mẹ tự bao giờ mà chị Yên không biết. Chị Yên khóc ngất khi biết con mình đã chết. Chị Hạnh quấn em bé trong chiếc áo rách rồi đưa cho anh bế. Chị nói với chị Yên đó là con trai. Chị hỏi ý chị Yên nhờ anh mang đi chôn cất em bé giùm. Chị Yên đau đớn gật đầu. Anh run run ôm em bé vào lòng. Bỗng dưng anh bật khóc. Trời ơi! Em bé có tội tình gì đâu. Anh lồm cồm bước khỏi căn chái. Chân anh xiêu vẹo trên cát. Anh nhìn đứa bé Việt Nam, chết vô lý trên đất người, khi chưa kịp khóc tiếng chào đời. Ôm chặt đứa bé còn ướt, anh ngước mặt nhìn trời. Bỗng nhiên anh rống lên khóc. Không biết anh khóc thương anh hay khóc thương ai? Khóc một trận để giải tỏa những đớn đau, ức chế trong tháng ngày vừa qua.

 

Như thế, tính thêm em bé này, số tử vong trên chuyến tàu anh đi đã lên tới con số 19.

 

Anh kiếm một miếng đất cạnh bờ suối, đào huyệt chôn em bé. Em bé chưa có tên. Vô danh. Anh chỉ biết chôn em, làm dấu trên tảng đá gần đó. Để một mai có trở lại ..  Ngôi mộ em. Tảng đá ấy. Bên bờ suối. Trong ngôi làng  tên là Lèng-lao thuộc đảo Hải Nam. Anh vẫn mong có dịp về lại đó. Nhưng đã trên ba mươi năm rồi anh vẫn chưa thực hiện được tâm niệm của mình.

 

o O o

 

Anh đổi nhà khác, khi đứa con gái thứ hai chào đời. Anh không muốn có hồ bơi sau nhà nữa. Anh sợ. Rất sợ.

 

Lúc dọn vào nhà mới, để tiết kiệm tiền thuê thợ thiết kế màn cửa, anh tự tay làm lấy. Sau khi quan sát một vài nhà mẫu và tìm ý tưởng trong những tạp chí về trang trí nội thất, anh bắt tay vào làm việc. Nhà cửa vẫn còn ngổn ngang. Chiếc bàn cà phê mặt kính, vẫn chưa được đặt vào đúng chỗ, vẫn còn nằm cạnh lò sưởi, bệ bằng đá trắng. Trần nhà cao 22 ft, làm anh phải bắc thang cao để đóng đinh, máng màn. Vợ con anh đứng xa xa phía dưới ngắm giùm anh đã ngay ngắn chưa để anh đóng đinh vào. Đang loay hoay với tấm vải màn và chiếc búa lẫn đinh lỉnh kỉnh. Khi không anh bị mất thăng bằng rơi xuống. Anh nghe rất rõ tiếng vợ và đứa con gái lớn của anh hốt hoảng đồng loạt la lớn. Nghe chỉ để mà nghe. Anh không biết làm sao hết. Đang chới với rơi xuống, nếu đầu không đụng vào bệ lò sưởi bằng đá thì cũng đập vào bàn cà phê mặt kính dày 3 ly bên cạnh. Đập vào đâu cũng tồi tệ, không chết cũng bị thương. Thôi rồi. Anh dọn sẵn mình.

 

Anh hoa mắt. Một vệt trắng bay qua, hất anh văng xuống thảm. Như một phép lạ. Anh đứng dậy ngẩn ngơ. Anh nghe văng vẳng tiếng cười. Cậu bé vẫn chưa có tên. Vẫn tóc loe hoe vài sợi mềm dính sát da đầu. Đang bay ra khỏi nhà như một làn khói. Dĩ nhiên, lần này cũng chỉ một mình anh nhìn thấy, mà thôi.

 

VIỆT PHƯƠNG

10/2013

 

(Dim Trinh sưu tm và chuyn)

 

 

website counter