EM
DÌN
(Tác
Giả: Hồ Dzếnh)
Trong số những người
đọc tôi hôm nay, ít nhất cũng
có đến một trăm người quen em
gái tôi.
Tôi nói một trăm,
vì muốn để cho em tôi đỡ tủi,
khi mưa xuân lướt về trên những
mái nhà đầm ấm, và nắng xuân
chợt bừng qua kẽ lá như ánh sáng
chiếu lại từ những tấm lòng của
các thiếu nữ đương tơ.
Ngót bảy năm nay,
chúng tôi xa nhau, ai biết em tôi đã qua
bao nhiêu cuộc thử thách, người con
gái vốn đã gầy yếu sẵn khi
còn ở chung với chúng tôi?
Và cả em nữa, em anh ạ,
biết đâu em sẽ lại chẳng đọc anh,
đọc chính em, ngạc nhiên thấy đời
em giống in như thiên truyện anh viết, và hết
cả hồ nghi khi nhìn đến cái tên
ký thân thiết dưới này. Nhưng em sẽ
ở đâu đọc anh, gần anh, xa anh, hay
không còn gần và xa anh nữa, trên đời
này?
Xuân đến! Mưa bay!
Người ta bảo nhỏ anh rằng trong tháng
giêng tốt lành sẽ có nhiều
đám cưới. Anh không tin, mà tin làm
sao, vì qua ánh sáng ngày xuân, anh vẫn
thấy lòng buồn vô hạn.
Sau
bốn năm ba tôi mất, trước hai năm
tôi lên tỉnh học, em gái tôi, tôi nhớ
đúng thế, vào đời. Cuộc
đón rước đầu tiên ở ngưỡng
cửa đời sống là một cuộc hò hẹn
giữa em tôi và người bạn trai của em.
Năm đó, em tôi mười lăm tuổi.
Như thế em tôi còn là chậm biết
đời nếu so sánh với những thiếu nữ
bây giờ mới mười ba tuổi đã tỏ
ra lịch lãm.
Những
khách nợ lâu đời nhất của dì
ghẻ tôi - em tôi và tôi là đôi
con cùng cha khác mẹ - được em tôi lục
ra và đi đòi hết. Em tôi trang điểm
cẩn thận trước khi đi, và đi thật
lâu. Tôi còn nhớ mùi nước hoa lần
đầu em xịt lên tóc, một thứ
hương vị ảo não đặc biệt cho mũi
tôi lúc bấy giờ. Dì tôi nhìn em
trang điểm thì gắt nhưng không phải
là đe nẹt, mà lại ngụ ý khen.
Riêng tôi, tôi nhận
thấy em tôi đã đổi khác. Người
con gái họ Hồ đó có lẽ sắp
làm nên chuyện gì phi thường
đây. Thành thử, hễ em tôi đi
đòi nợ, là tôi trốn học đi
theo. Chúng tôi "đuổi" nhau qua nhiều
phố, cuối cùng, em tôi đến
"đòi nợ" một người con trai nhỏ
nhắn, xinh đẹp, đứng đợi em ở một
phố vắng vẻ vùng ngoại ô.
Ai
đã từng có một người em gái tự
do, tất hiểu lòng tôi lúc đó, một
nửa căm giận, một nửa e thẹn, chỉ sợ
em biết được anh tò mò dò theo. Sự
bắt được tang chứng kia càng làm
tôi phục ba tôi là thông minh, khi một
hôm, no thuốc phiện rồi, người nhắm mắt
lại, rồi lại mở mắt ra, bảo với
tôi đương loay hoay định ăn cắp một
cái bánh ngọt trên khay:
- Ba biết con thèm ăn
bánh lắm, nhưng sao con không xin ba? Ba
đương mải nghĩ về em Dìn của con.
Ba chỉ sợ sau này nó hư. Tướng
nó không được tốt lắm. Chỉ
có anh Hai con là tử tế thôi.
Tôi nũng nịu bảo ba
tôi:
- Thế con không tử tế
à ba? Lúc nào ba hút thuốc phiện chẳng
có con ở ngay bên là gì. Còn anh Hai
thì chỉ biết chạy đi chơi.
- Phải, con tử tế với mấy
cái bánh. Nhưng thôi, các con nhờ trời
cũng khá cả, cái đứa hư nhất ba
sợ là con Dìn.
Và ba tôi đã nói
đúng. Tôi cũng nghĩ đúng. Một dịp
cho tôi khoe cái tài trinh thám với anh
tôi:
- Đố anh biết đi
đòi nợ là gì?
- Là đi bắt nợ,
là đi thúc nợ.
- Là ...
Tôi vít cổ anh tôi xuống,
nói khẽ:
- Là đi với trai, em
Dìn nó đi với trai đấy.
Anh tôi còn trẻ, nên cũng
hăng hái hỏi tôi:
- Thật à? Bé thấy con
Dìn ở đâu? Hay ai bảo? Nói mau lên,
anh sốt ruột nghe lắm rồi đây!
Tôi kỹ càng thuật lại
chuyện và cười bảo anh tôi:
- Anh em mình được
như cái thằng cu ấy, cũng thích đấy
nhỉ.
Ngày hôm sau, chúng
tôi lại đi rình, và lại bắt gặp
em gái tôi. Nhưng chúng tôi chỉ
trông nhau mà không ai dám ra đánh mắng
người con trai như ở nhà đã định.
Mãi đến sau này, tôi mới kịp nhận
thấy chúng tôi nhát gan và vô lý,
nhưng lúc tỉnh ngộ như thế, thì em
gái tôi đã vào đời!
Gia đình tôi là cuộc
phân tranh ngấm ngầm và ra mặt giữa hai
phe. Mẹ tôi và dì ghẻ tôi
đánh nhau luôn, nhất là từ ngày ba
tôi mất. Dì ghẻ tôi đã nhanh nhẹn
chiếm được hết của cải của ba
tôi, và khôn khéo sang tên dì ngay từ
hồi ba tôi còn sống. Mẹ tôi không
có cái gì cả, ngoài ba thằng con trai
phải nuôi, và cái bàn thờ của ba
tôi phải dọn sửa.
Mẹ tôi bảo dì tôi
là con một đứa hái củ nâu. Dì
tôi chối phắt cái gốc tích ấy
đi, và trả lại cho mẹ tôi hai tiếng
"lái đò". Rồi hai người
đánh nhau. Anh Cả tôi chạy can hai người
ra, anh Hai tôi đóng cửa cho hàng phố khỏi
thấy, còn em tôi và tôi thì khóc.
Chúng tôi không biết ai phải, ai trái,
nhưng chúng tôi người nào bênh mẹ
người ấy. Em gái tôi phân bua với
tôi:
- Mẹ anh tồi quá, cứ
đánh mẹ em luôn.
- Mẹ em tồi ấy. Cậy
có của lộng quyền.
Giữa hai chúng tôi có
một cái gì ngăn trở. Chúng tôi tuy
cùng ở chung một nhà, ăn cùng mâm,
nhưng thực ra thì xa cách. Mẹ tôi
tìm đủ cơ hội để dìm dì
tôi xuống, và cố nhiên, như bắt
được một thứ khí giới độc
ác và mầu nhiệm, người vin ngay lấy
câu chuyện theo trai của em tôi để nói
bóng gió. Hôm hai người cãi nhau,
tôi được gọi ra làm chứng. Tôi
thấy dì tôi ngồi trên sập, trước
mặt một cái tráp trầu không vỡ
đổ, nghiến răng hỏi tôi:
- Có thực chính mắt
anh trông thấy con tôi theo trai không?
Tôi không đáp và
đưa mắt nhìn em gái tôi đứng
thút thít khóc ở xó nhà vì vừa
bị mấy cái tát. Tiếng dì tôi vẫn
dằn mạnh:
- Anh cứ nói đi để
tôi đánh tan xác nó ra, đồ
không có người dạy!
Mẹ tôi xen vào:
- Đừng có nỏ mồm.
Bảo ai không có người dạy? Không
được chạm đến con tôi!
Giữa lúc tôi chưa biết
nói làm sao cả, thì em gái tôi chắp
tay đưa lên bụng, kín đáo lạy
tôi mấy cái. Lòng thương một người
con gái yếu ớt làm tôi quên hẳn sự
hiềm khích giữa người trong nhà. Tôi
đáp rất gọn:
- Không, con nói dối đấy
chứ!
Tức thì dì tôi
vênh mặt lên:
- Nghe nữa đi, nghe cái đồ
nói dối nữa đi!
Và tức thì hai cái
tát của mẹ tôi cháy bỏng trên
má tôi:
- Ai dạy mày nói
điêu, mày hai lưỡi!
Nhưng tôi lại chỉ
còn có một lưỡi, khi ngồi ăn cơm
với mẹ tôi:
- Đúng là con Dìn
đi với trai, mẹ ạ. Ban nãy nó lạy
con đừng nói.
Mẹ tôi lườm tôi
và im lặng.
Một chiều kia, đi học về,
tôi ngạc nhiên thấy em gái tôi bị
trói chặt như con lợn nằm ngoài sân,
nhăn mặt dưới những vụt roi mây chập
ba lại. Bên cạnh em, những tờ thư vất
bừa bãi, cái xanh, cái tím, cái
vàng, cái lá mạ. Dì tôi sai anh Hai
tôi đọc to lên từng cái một. Mỗi
lần một bức thư đọc dứt, là một
lần roi mây vụt xuống đít em tôi.
Tôi ngẩn người nghe cái giọng nói
khôn khéo ngọt ngào mà tôi được
biết lần thứ nhất. Nó lọt tai và
mát lòng quá. Đôi khi người con trai
gọi em tôi là "quý nương"
và tự xưng là "kẻ này".
Tôi giấu một bức thư vào túi rồi
đem ra học thuộc lòng. Em tôi chắc
không muốn nghe lắm, nên nhắm mắt lại.
Thực không gì đẹp bằng yêu nhau, xấu
bằng yêu nhau!
- Đấy, em anh, anh xử lấy.
Bây giờ ba nó đã chết rồi,
tùy anh định liệu.
Anh Cả tôi vốn hùng hổ
nên đáp:
- Gọt gáy bôi vôi,
đem trôi sông nó đi!
Em tôi nghe hai tiếng
"trôi sông" thì nức nở khóc.
Dì tôi nóng mắt, cúi xuống, giật từng
cái áo của em mặc ra. Đột nhiên
không ai bảo ai, ba anh em chúng tôi cùng quay
mặt đi. Riêng tôi, tôi thấy nổi dậy
trong lòng nỗi công phẫn đối với
cách giáo dục tàn nhẫn kia. Và suốt
đời, tôi không quên được
cái thảm cảnh của một người con
gái bị xử ngược chỉ vì phạm một
tội rất thông thường là yêu vì
nhẹ dạ. Sự đó rất có ảnh
hưởng đến đời tình ái của
tôi, một cuộc đời chỉ toàn thấy
những dang dở vì lẽ tôi không biết
giữ trong tay những hạnh phúc mau biến.
Sau trận đòn hôm ấy,
em tôi trở nên buồn bã. Cuối cùng,
dì tôi nhốt em tôi vào một cái buồng
tối, khóa kỹ, chỉ cho giao tiếp với
bên ngoài qua cái cửa sổ nhỏ. Tôi
linh cảm rằng, tuy chúng tôi đã
được yên lòng về cách nhốt em
tôi như thế, một sự gì nghiêm trọng
vẫn lảng vảng quanh nhà chúng tôi.
Quả nhiên, một đêm
kia thức dậy, tôi đứng ở trên
gác nhìn xuống đường phố, chợt thấy
một bóng người động đậy trong
bóng cây. Ngay lúc đó, cánh cửa
dưới nhà kêu lên, và người
vú già tay cầm một tờ giấy trắng tiến
lại phía cái bóng. Tôi ngẫm nghĩ
và hiểu biết. Sáng mai, tôi chạy xuống
nhà, lại căn buồng nhốt em gái tôi,
bảo em:
- Sao em dám đưa thư cho
vú già đem cho cái thằng nào đấy?
Em tôi đáp lại bằng
một giọng cương quyết, rắn rỏi, một
giọng nói làm tôi rùng mình,
không ngờ có thể có được ở
trên môi người con gái mới mười
lăm tuổi:
- Tại vì ... em nhớ người
ta quá!
- Thế em không sợ người
nhà đánh à?
- Trừ phi anh nói. Nhưng em biết
anh tử tế, chắc chẳng bao giờ anh muốn em
khổ hết; anh còn nhớ ngày nào
chúng ta giữ trâu và ăn ổi với nhau
không?
Tôi không quên được
ngày đó. Nó là cái kỷ niệm
đẹp đẽ của đời tôi mà em
tôi vừa nhắc lại. Một cánh đồng
cỏ xanh mượt nằm ngủ dưới chân
đồi, mới ba giờ chiều đã mờ,
vì bóng núi che khuất mặt trời đổ
lên đó. Chúng tôi thả trâu cho tự
do ăn cỏ, lòng thanh thản dưới một bầu
trời sáng đẹp. Đôi lúc tiếng
sáo của dân Mường từ xa vẳng lại,
là những thanh âm độc nhất hiu hắt
trong cái rộng rãi, cô quạnh của linh hồn.
Chúng tôi đánh trâu bò lên đồi
vào lúc mờ sáng, và trở về
nhà khi nắng vàng chỉ còn nửa đốt
ngón tay trên đầu bụi trúc.
Đàn vật nối nhau theo
hàng một, từ trên đồi uể oải xuống,
làm thành một cái dòng màu xám
chảy chầm chậm trong ánh mờ nhạt của
hoàng hôn.
Ngoài mấy người con
gái mà tôi mến rất nhẹ nhàng
và rất kỳ dị, em tôi là người
bạn nhỏ hiền hậu của tôi ngày ấy.
Chúng tôi cùng để lòng ước
mong những chuyện không thể có, em tôi
mơ được một căn nhà ngói dựng
trên đồi, và tôi khờ khạo hơn,
giản dị hơn, được bình yên
chăn trâu trọn kiếp.
Hai
tôi lấy hoa sim cài lên đầu, lên
áo, và cùng cho rằng hương hoa sim
thơm, tuy thực ra nó vô cùng nhạt nhẽo.
Chính ở cái chốn mà mây gió
còn giữ nguyên màu dĩ vãng
đó, chúng tôi lớn lên hồn
nhiên giữa bài thơ tưng bừng của sự
sống, hồn nhiên nhận biết cái tang
máu mủ lần thứ nhất xảy ra trong cuộc
đời chúng tôi: ba tôi mất. Cái chết
lặng lẽ của người trái hẳn với
tháng ngày sôi nổi người sống,
làm nhiều khi tôi sinh lòng ngơ ngẩn
trước thiên luật không thể cưỡng
lại gieo xuống muôn loài.
Đời sống lôi cuốn
chúng tôi về những hoàn cảnh khác.
Chúng tôi đau đớn thấy mây gió
ngày xưa dần dần xa vắng bên những giấc
mộng chỉ còn là nỗi thương tiếc
nức nở giữa cuộc đời.
Người con gái ngây
thơ, vô tội là em tôi ngày xưa,
bây giờ đang yêu thắm thiết, yêu
mê say và đang phác họa trong óc những
bước đường liều lĩnh sau này. Một
sáng, giấc mơ của tôi bị cắt đứt
vì mấy tiếng kêu hốt hoảng của
dì ghẻ tôi:
- Trời ơi, con Dìn nó
trốn mất rồi!
Tất cả mọi người
cùng chạy vội lại bên dì. Gian buồng
nhốt em tôi đã từ bao giờ bật
khóa. Rương của em tôi bị nậy nắp,
bao nhiêu áo quần cũ, mới đều mất
hết. Tôi chợt nhận thấy, trước quang cảnh
đó, một sự gì hoang vắng lạ
lùng, một nỗi gì lạnh lẽo không hẳn
buồn rầu, nhưng kinh ngạc.
Dì tôi lăn mình vật
vã khắp nhà. Anh Cả tôi suy nghĩ về
cách trốn đó. Anh Hai tôi thông minh
hơn, chạy tìm em ở khắp các xó
giường giăng đầy mạng nhện. Tôi
thì chỉ biết yên lặng. Bỗng tôi
để ý đến đôi mắt của ba
tôi trong bức ảnh đặt trên bàn thờ,
đôi mắt như quắc nhìn tôi. Nét
mặt người buồn vì sám. Tôi ngờ
như có sự trách cứ huyền bí
nào đó, sự trách cứ chính
đáng gieo xuống tôi, vì tôi là một
kẻ phạm tội: tôi đã quá dung thứ
sự thầm lén của em gái tôi.
Cuộc trốn đi được
ngót ba tháng, thì một hôm, chúng
tôi nghe tin em Dìn bị người con trai từ bỏ.
Sự đoạn tuyệt đột ngột đó rất
phiền phức và khó hiểu với tôi.
Nhưng anh Hai tôi lại tỏ ra rất tường tận,
kinh nghiệm. Anh giảng cho tôi biết:
- Đại phàm yêu nhau
mà lấy nhau là hỏng.
- Thế yêu nhau mà không
lấy nhau là không hỏng à anh?
- Cái đó còn
tùy mỗi người một duyên số!
Câu triết lý vu vơ của
anh tôi thế mà đúng. Người ta
yêu nhau chỉ để yêu nhau. Lấy nhau tức
là tham lam, ích kỷ. Mà đã yêu
nhau, sao lại không thể can đảm xa nhau,
không thể cao thượng chịu dứt cái
tình đau đớn được? ái
tình, mà cái tên thứ hai ở thế
gian này là Đau khổ, không bao giờ cho
phép người ta được thỏa nguyện.
Chỉ
có cha mẹ mới có quyền định đoạt
được cuộc đời của con, và
"Trời" muốn thế, vì các bậc
đã phải mang nặng đẻ đau, ắt
được đền bằng một bài tính
đố chính họ tìm lấy con số
đáp!
Xa nhau là yêu nhau thêm
lên, vì hai trái tim vẫn tưởng nhau đẹp
đẽ, nghĩa là vẫn sung sướng
đánh lừa được nhau, vẫn mơ hồ
và ... tưởng tượng! Em gái tôi
không hiểu thế sự, dám liều lĩnh
đem cái tuổi mười lăm của mình
ra thử thách một chuyện vượt lên
trí óc, dại dột đem mình làm
gương cho người sau, cho tôi.
Em tôi đi được ba
tháng thì dì ghẻ tôi cũng đi theo.
Người đàn bà này đường
hoàng đi ra bằng lối cửa chính, đem
theo tất cả những của cải mồ hôi,
nước mắt của ba tôi. Người khách
thương ba mươi năm trời lăn lộn
để gây chút sự nghiệp mong manh,
không biết lúc này, ở thế giới
bên kia, có thấy rằng, chỉ những cuộc
hôn nhân chính đáng mới tạo
được nên những người vợ hiền
và con chính đáng? Còn những sự lấy
nhau vì nhục dục, vì tham vọng, chỉ
là cách tự thỏa mãn và không
có nghĩa gì?
Từ bao lâu nay, tôi vẫn
tin rằng mẹ tôi sung sướng. Nhiệm vụ một
người vợ hiền, mẹ đảm Việt Nam
đã được làm trọn vẹn, và
danh vọng xứng đáng ấy được lấp
lánh ở một chỗ cao quý nhất trong
trái tim người. Cái phần thưởng
đến với người tuy quá chậm và
khó, nhưng chính sự khó và chậm ấy
đã khiến tôi yêu mến nước Nam của
tôi bằng một tấm lòng trọng đại,
một mối tình vô song, nhất là quê
hương thứ hai của tôi lại không
được huy hoàng rực rỡ!
Một năm trôi qua. Mùa
xuân đến. Chúng tôi đón Tết
trong nhà nhỏ, ba anh em cùng ngồi quây quần
bên mẹ, quanh một nồi bánh chưng sôi.
Gió bên ngoài rét lắm, lật trái
những tấm lá thấp thoáng trong ánh lửa
từ bếp chiếu ra. Mưa rơi ngoài cửa.
Bàn thờ ba tôi sáng trưng lên dưới
một hàng nến đỏ nghiêm chỉnh như
một toán quân đi chào cờ. Mắt mẹ
tôi long lanh ướt. Người nhìn vào bếp
lửa, đầu gối giơ cao để che lấp
đôi mắt, chăm chú giở củi, nhưng
thực ra là để che sự cảm động.
Giữa lúc đó, người vú già
ghé vào tai tôi:
- Cậu ra cho cô Dìn hỏi.
Cậu ra một mình thôi!
Tôi ngạc nhiên đứng
dậy, nói thác với mẹ tôi là
đi tiểu rồi mở cửa bên chạy ra
đường. Tôi thấy em tôi đứng
nép dưới hiên một nhà người hàng
xóm, rét run cầm cập. Tuy không trông
rõ mặt và người em, nhưng tôi cũng
biết được em gầy và yếu đi nhiều
lắm. Em tôi nhìn tôi rồi hỏi:
- Anh ra có ai biết không? Mẹ
em làm gì đấy?
Tôi giấu chuyện dì
tôi bỏ nhà đi, và đáp:
- Không ai biết cả, vì
anh nói dối anh đi tiểu. Cả nhà đang
nhớ em, sao em không vào?
- Anh đừng nói cho ai biết
em về nhé! Em van anh đó. Em xấu hổ lắm.
Em lại đây thăm nhà vì em nhớ mẹ,
nhớ các anh.
Tôi nghẹn ngào bảo em:
- Thôi em cứ về. Mẹ em
năm nay ăn Tết ở nhà ông ngoại. Chả
ai đánh em nữa đâu.
Nước mắt em tôi
trào ra, em nức giọng:
- Không, em không vào. Em
đến chúc Tết anh là đủ. Xong, em
đi ...
Tôi hốt hoảng:
- Em đi đâu?
- Em vào Sài Gòn. Mười
giờ tối hôm nay có tàu. Em chỉ còn
ở đây được hai giờ nữa thôi.
Năm nay anh có được nhiều tiền phong
bao không? Chắc bánh chưng ở nhà ngon lắm
nhỉ?
- Ừ ngon lắm, em vào
mà ăn!
- Em đã bảo em không
vào mà lại! Em lại đây cốt
được trông thấy anh, và xin anh ... mấy
xu mừng tuổi gọi là nhớ lại ngày
nào anh mừng tuổi em!
Tôi sờ vào túi,
móc ra được năm đồng xu, ngần ngại
đưa cho em tôi.
- Anh nghèo lắm em ạ.
Em tôi đón lấy số
tiền, và cười đau đớn:
- Thế là nhiều rồi anh ạ.
Thôi em đi nhé!
Nói dứt, em tôi lủi
vào bóng tối, trong lúc tôi chợt nhớ
ra, hỏi với:
- Em ... em vào Sài Gòn với
ai?
Tôi bước vào nhà
buồn bã, sau khi đưa ống tay áo lên
quệt nước mắt, giữa lúc mẹ tôi
đã đứng dậy thắp hương trên
bàn thờ ba tôi, vì tiếng pháo giao thừa
bắt đầu nổ. Xuân về!
Mẹ tôi yên lặng khấn
khứa, đoạn quay lại phía chúng tôi,
giọng nói của người như nhắc lại
cả một dĩ vãng thiếu tươi đẹp:
- Không biết con Dìn năm
nay bao nhiêu tuổi nhỉ?
Tháng chạp, 1943
HỒ
DZẾNH
(T.C.H
sưu tầm
và chuyển)