Chiếc
xích lô chở mùa xuân
(Tác
Giả: Thanh Thương Hoàng)
1
Tân ngồi vắt vẻo
trên chiếc xích lô ngước nhìn những
tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền
trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới
những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào
khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp
xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn
chưa kiếm được một “cuốc”
nào. Nếu đến trưa vẫn không có
khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền
thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn
luôn bữa trưa.
Chỗ Tân đậu xe góc
đường Lê Lợi - Tự Do, anh cho là rất
“địa lợi”, vì phía chéo
bên kia đường là khách sạn Đại
Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới
ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày
để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn.
Đồng thời nơi này cũng là nơi
có nhiều kỷ niệm với Tân - những
ngày tháng cũ trước 75 - anh đã gặp
“người yêu lý tưởng” của
mình và sau đó cưới làm vợ.
Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh
phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu
thảm. Tân móc túi lấy gói thuốc
rê vấn một điếu. Vừa phập phèo
mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc,
thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia
đường. Tân vội quay nhìn. Một người
đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt
vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm
xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp
nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ
này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của
khách sạn nên họ cấm xích lô đậu.
Anh em xích lô chỉ có thể “đột
kích” đón khách rồi phóng đi
ngay).
“Cô muốn đi
đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng
rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc
nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả
nói:
”Anh muốn chở tôi
đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm
thôi nhé!”
Tân hỏi lại: “Nghĩa
là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ
túi trong thành phố?”
“Đúng!”
Trước khi cho xe chuyển
bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ
trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên
sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt
đầu".
Cô khách đáp:
”Tôi sẽ trả anh như đã trả cho
những người trước anh.”
“Nghĩa là ...?”
“Nghĩa là mỗi giờ
tôi trả anh hai đô la.”
“Cô trả vậy hơi nhiều
đấy!”
Cô khách nhắc lại
câu hỏi của tôi khi nãy:
“Nghĩa là ...?”
“Tôi tính cô một
đô la một giờ thôi.”
Cô khách một lần nữa
tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì.
Hôm qua cô trả cho anh
xích lô đúng như giá anh ta
đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn
nì xin thêm. Còn anh xích lô này
thì lại xin bớt. Con người xứ sở
này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.
Tân từ từ đạp xe về
phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi
khách:
"Cô đã biết chợ
Bến Thành này chưa?" Và không chờ
khách khách trả lời, anh nói tiếp:
“Đây là ngôi chợ
lớn nhất của thành phố Saigon và
có một bề dầy lịch sử.”
Cô khách mỉm cười.
Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy
khách cười:
“Tôi biết. Hôm trước
một người bạn Việt-Nam đã dẫn
tôi vào trong chợ ăn món bún thịt
nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất
là cái món nước “sốt” mặn
mặn với ngọt ngọt và hơi cay.
“Cô ăn được cả
nước mắm?”
“Cũng hơi ... khó chịu
một chút lúc đầu.”
Thấy sự trao đổi
nói năng có vẻ thân mật cởi mở,
Tân hỏi:
“Tôi hơi tò mò,
xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay
làm việc?”
“Tôi tới Saigon có
chút việc riêng, tiện thể làm chuyến
du lịch luôn.”
“Cô tới đây lần
đầu?”
Khách khẽ gật và
đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp.
Bây giờ Tân mới có dịp quan sát
người đẹp. Cô khoảng dưới ba
mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng
cao bó gọn trong chiếc áo pull trắng và
chiếc quần gin mầu xanh đậm. Mớ tóc
vàng óng ả của cô chẩy dài
buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da
cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông
tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi
cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve
những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm
rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của Tân
thì nhan sắc cô nàng ở mức trung
bình nhưng khá quyến rũ , hình như
cô có cái duyên ngầm của các
cô gái phương Đông.
“Cô mới từ Mỹ tới?”
Tân hỏi.
Khách khẽ gật.
“Tôi đoán cô
là người miền Đông nước Mỹ,
Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang
nào vùng đó.”
Lần này cô nàng
ngoái hẳn mình về phía sau nhìn
Tân:
“Anh căn cứ vào
đâu mà đoán tôi là người
miền Đông?”
Tân hóm hỉnh cười:
“Giọng nói của cô
và nhất là nước da của cô. Chỉ
có những người sinh sống ở xứ lạnh
mới có nước da trắng hồng như
cô.” Tân nói nịnh thêm.
“Đúng là nước da lý tưởng
các cô gái mơ ước.”
Cô khách càng thêm ngạc
nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc
giới lao động bình dân thất học,
mà lại có vẻ hiểu biết những sự
việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi
còn biết cả nịnh đầm ố món
“võ” của bọn đàn ông có
học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:
“Anh đoán giỏi đấy!
Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina.
Lớn lên đi học đi học và sống ở
Washington DC.”
Tới chợ Bến
Thành cô bảo anh ngừng xe để cô
vào chợ mua một món gì đó.
Cô hỏi anh có đợi được
không. Anh gật đầu. Mươi phút sau
cô trở ra trên tay cầm một cái gói
bọc giấy nhỏ.
“Bây giờ cô muốn
tôi chở cô đi đâu?”
“Tùy anh.” Tân suy nghĩ
một chút:
“Cô đã vào Chợ
Lớn chưa?”
“Hay đấy! Tôi nghe bạn
bè nói Chợ Lớn là thành phố của
người Hoa như ở Hồng Kông vậy.
Nên đi coi cho biết.”
“Cô đã đến Hồng
Kông?”
“Tôi đến đó hồi
còn là con nhóc đi với bố mẹ.”
Tân có vẻ ngập ngừng
trước khi nói:
“Xin lỗi, cô đã lập
gia đình?”
“Phải, tôi đã lập
gia đình gần mười năm. Vợ chồng
tôi có một con gái.”
Nói xong, cô khẽ thở
dài, mặt thoáng buồn, đôi mắt xanh
biếc đăm đăm như nhìn vào
cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy
vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp
xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng
dài, dưới trời nắng bắt đầu gay
gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn
trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi
lúc cô khách sợ hãi kêu lên
vì tưởng nó đâm nhào vào
mình. Từ đường Đồng Khánh,
cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm
tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân
một vật nhỏ:
"Anh thấy đẹp đấy
chứ?" Tân thốt lên:
“Tưởng gì, cái
này bên Mỹ đâu thiếu.”
“Phải, bên Mỹ
không thiếu, nhưng đây là thứ
tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm,
đồng thời làm quà tặng con gái
tôi.”
Dứt lời cô khách
lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt
cô quay lại hỏi Tân:
“À,
tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa
mua bên Mỹ có nhiều?”
“Vì
tôi đã ở bên đó và có
mua tặng người yêu. Cái cô vừa mua
là do người Tàu Chợ Lớn làm
nhái theo đồ của Mỹ.”
“Ồ, anh
đã ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”
“Tôi
đi học.”
Cô lại thốt
lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:
“Đi học?
Thì ra anh sang Mỹ du học!”
“Không phải!
Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học
lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư
cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”
Cô khách
người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới
ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích
thú nghe những điều Tân nói. Cái
con người lam lũ nghèo khổ đạp
xích lô này đã từng là sỹ
quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô
nửa tin nửa ngờ, dò đường:
“Anh sống ở
Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”
Tân
đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc
áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng
vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân
cảm thấy bắt đầu mệt và khát
nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ
sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả
lời khách không mấy hào hứng sốt sắng
như lúc đầu:
“Tôi học
lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào
năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm
rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp
đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”
“Anh còn
nhớ tên khóa huấn luyện?”
“Khóa
67A. Khóa này tôi được huấn luyện
cùng với bọn Pilot Hải Quân Mỹ.”
Sau khi thảng thốt
kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi
và im lặng một lúc lâu.
Tân cũng chẳng
quan tâm đến sự im lặng của cô
khách. Anh đang mải lo đối phó với những
xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự
trên đường phố. Chỉ cần sơ
ý một chút, có thể gây ra tai nạn
thương tích cho người ngồi trên xe. Hai
bên lề đường Đồng Khánh, người
người đi lại tấp nập. Hàng hóa
của các tiệm bầy tràn ra cả lề
đường. Rồi những gánh hàng quà
rong, những xe bán nước ngọt, trái
cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt.
Cô khách có lẽ vui lây với không
khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn
những người đàn bà Hoa mặc những
bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi
Tân:
“Họ chắc
không phải là người Việt?”
“Vâng, họ
là người Hoa. Thành phố này là
thành phố của người Hoa dù dưới
thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản
cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi
được họ!”
“Không phải
riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy.
Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ
cai trị thế giới.”
Ngưng chút
cô nói tiếp: “Cả về chính trị
và kinh tế. Vì thời đại chúng ta,
kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!”
Tân cãi:
“Tôi
không đồng ý với cô. Người ta
đã dùng kinh tế để làm cái
roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng
sản sẽ thất bại cả về chính trị
lẫn kinh tế.”
“Tôi nghĩ
với Cộng sản thì chỉ có thể
dùng vũ lực.”
“Dùng vũ
lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước
đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt
được Cộng sản thôi. Sức tác
động bên ngoài không đủ mạnh bằng
sự tự hủy hoại từ bên trong.”
Cả buổi
trưa hôm đó, cô khách người Mỹ
và anh xích lô đạp mải mê tranh luận
về nhiều vấn đề thời sự, chính
trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh,
hòa bình, cộng sản, tư bản ... quên
cả đường phố chật chội xe cộ chen
lấn bừa bãi. Năm đó là năm
1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp,
xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp
xích lô quên cả mệt và đói. Anh
đang hào hứng. Đã lâu lắm anh
không hề dám nói năng thảo luận với
bất cứ ai những vấn đề húy kỵ
trên. Nói với cô khác lạ này
không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc,
chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ
mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh
bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp
xích lô chở cô khách Mỹ về
khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi
xe khách mới hỏi:
“Nãy giờ
tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan
Không Quân từng sang Mỹ học lái máy
bay, sao lại ... lại đi đạp xích
lô?”
Tân phì
cười trước câu hỏi này. Đúng
là một người Mỹ ngây ngô, chẳng
biết gì về làn sóng đỏ đang
tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc
liệt cả miền Nam. Anh trả lời:
“Vì
tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”
“À, ra thế!”
“Anh bị tù có lâu không?”
“Gần
mười năm.”
“Trời! Anh
được tha lâu chưa?”
“Mới
sáu tháng.”
“Ô
là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ
lắm?”
“Tất
nhiên. Chúng tôi đã trải qua những
năm tháng sống thời Trung Cổ.”
“Tại sao
các anh không vùng lên phản kháng, chống
đối? Dân tộc anh là một dân tộc
có cả một lịch sử oai hùng về
ý chí quật cường, về truyền thống
tranh đấu ...”
Tân cười
nửa miệng:
“Đồng
thời dân tộc tôi cũng có truyền thống
nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”
Cô khách
người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy
năm đô la đưa cho Tân và hẹn
sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp.
Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh
định đưa trả lại một tờ thì
cô khách Mỹ đã bước vào trong
khách sạn.
Sáng hôm
sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới
góc đường Lê Lợi - Tự Do
đã nhìn thấy cô khách đứng chờ.
Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại
ngồi lên xe.
“Hôm nay
cô muốn đi đâu?”
“Đi
đâu cũng được. Tôi muốn có
nhiều thì giờ để trò chuyện với
anh.”
“Hôm qua
cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của
tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy
thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi.
Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ
vào số tiền cô trả dư hôm qua.”
Cô khách
Mỹ chỉ cười và chớp chớp
đôi mắt xanh biếc không có ý kiến
gì, nhưng trong đầu cô nẩy một
câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở
thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại
còn chê tiền?
Còn Tân
bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt
xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt
mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong
đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ
lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản
và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn
sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn
của con người. Các cụ mình xưa nhận
xét thật tài tình tinh vi. Xe chạy ra bờ
sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô
khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi
vườn hoa. Tân nói đùa:
“Tuy ngồi
chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ
đạp xe đấy!”
“Tốt
thôi, không có gì đáng phải
bàn cãi!”
Để an
toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc
xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và
khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh
nói với cô khách Mỹ:
“Cho chắc
ăn!”
Cô khách
cười: “Xe để sát bên cạnh anh,
còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”
“Bần
cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt
Nam chúng tôi có câu thành ngữ
này. Mà bây giờ thì cả nước
đều “bần cùng” nên bất cứ
việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”.
Họ không ăn cắp nữa mà là ăn
cướp. Đã tới mức ăn cướp
thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão
Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ
chỉ mất cái cùm thôi!”
Cả hai
cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ
sông Saigon lúc nào cũng tụ tập
đông người. Thấy khách ngoại quốc,
bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ
lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại
vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm,
nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng
Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi
đám bán hàng rong xúm xít như ruồi
bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi
thì bị mắng trả tục tĩu. Còn
cô khách Mỹ cứ cười cười lấy
làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một
gói đậu phụng rang cho mình, một
gói cho Tân và mỗi người một chai
côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại
thứ nước ngọt của “đế quốc
Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế.
Mười mấy năm trời khi ở trong tù
và cả lúc về ngoài đời anh
chưa một lần được uống lại. Tiền
ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống
côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất
vọng. Nó đã bị hư từ lâu,
nhưng người ta vẫn đem bán. Cô
khách nói:
“Nếu ở
bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc
gạch đấy!”
Vứt hai
gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai
người ngồi nhìn trời đất. Một
lúc lâu cô khách chợt hỏi:
“Trong khi ở
Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ
nào không?”
“Có chứ!
Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng
thân thiết thì chỉ một hai người.”
“Anh còn
nhớ tên?”
“Nhớ chứ.
Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên
là Edward Carter. Không biết anh chàng này
có họ hàng gì với lão Tổng Thống
Jimmy Carter không!”
Cô khách
Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai
tên không? Anh ta người ra sao?”
Tân vỗ vỗ
trán như gọi những hình bóng cũ trở
về:
“Anh ta cao lớn
hơn tôi một chút và cũng tuổi
tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi.
Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu
cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một
chút, và nước da trắng thì
đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.
Cô khách
Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt
Tân như quan sát, như dò xét. Rồi
cô không giấu được một cái thở
dài. Tân ngạc nhiên hỏi:
“Sao, nếu
tôi đoán không lầm thì có thể
cô quen biết hoặc có họ hàng với
anh chàng Edward Carter này.
"Cô
khách không trả lời. Cô lơ đãng
nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng
cô lầm bầm mấy tiếng gì đó,
Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy
gói thuốc rê vấn hút.
“Anh hút
thuốc gì mà có mùi khét thế?”
Cô khách Mỹ hỏi.
“Đây
là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất
của người Việt Nam. Lúc ở trong tù,
đối với chúng tôi thuốc này
là loại quý đấy cô ạ! Chúng
tôi còn hút cả lá chuối khô
và rễ cây nữa kìa!”
“Khổ cực
vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu
đựng được để còn giữ
được mạng sống trở về đời,
tài thật!”
“Không ai,
kể cả chúng tôi cũng không tin là
mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với
cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu
đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn
trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống
trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng.
Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết
ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả
nước chịu ảnh tù đầy đói
rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ
của cô thì ít ra cũng chết nửa
nước.”
“Sao anh
không lái máy bay chạy ra ngoại quốc
như một số người đã làm?”
“Tôi
còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định
không chịu rời bỏ quê hương. Biết
rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh
tù đầy và có thể bị giết chết
nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ.
Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”
“Bây giờ
chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ
anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về?
Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời
ca ngợi người đàn bà
Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn
tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết,
còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng
nuôi con.
"Tân lắc
đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống
đất: “Tôi không có cái diễm phúc
ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để
lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng
khác.”
“Ồ,
tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại
sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi
tò mò, thế anh có oán hận người
vợ không?”
“Cô ấy
còn trẻ nên phải lấy chồng khác,
đó là sự thường, có gì
mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn
là cô ấy lấy kẻ thù của
chúng tôi.
"Đôi mắt
xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp.
Cô có vẻ xúc động về chuyện
riêng tư của Tân.
“Còn cha
mẹ anh?”
Tới lượt
Tân thở dài nuốt nước bọt như cố
nén nỗi đau buồn xuống đáy
lòng:
“Cha mẹ
tôi đều mất khi tôi còn ở trong
tù!”
Cô khách
Mỹ kêu lên: “Thế còn đứa nhỏ?”
"May mắn
cho nó được ông bà ngoại
thương xót đem về nuôi, mặc dù
ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra
thì cũng còn có những đốm lửa
trong đêm tối phải không?" .
Và lần
này chính Tân ngạc nhiên trố mắt
nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy
chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô
đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước
mắt nhìn Tân nói:
“Tôi
tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”
“Tôi
là Tân, Đỗ Tân, cựu đại
úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất
hân hạnh được quen biết cô.”
Sau một
lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:
“Anh có
thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ
may ra tìm được mấy người bạn cũ
của anh. Biết đâu họ chẳng hết
lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”
“Cám
ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà .... Hẻm ...
Đường .... Thành phố Saigon.”
Họ còn ngồi
nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline
có ý mời Tân đi dùng bữa trưa,
nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang
đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ
giấy một trăm đô đưa Tân,
nói:
“Anh cầm lấy
để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể
giúp anh hơn.
Tân từ chối
ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc
không thể nhận số tiền này. Tôi
không muốn nhận một sự thương hại,
hay một sự bố thí.”
"Không,
đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận
lấy ở đây một tấm lòng." Dứt
lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một
trăm đô vào tay Tân và bước
nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất
hẳn, cô quay lại nói với Tân:
“Tạm biệt
Tân, người bạn mời quý mến của
tôi.”
Tân nhìn
tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong
tay sững sờ. Một số tiền quá lớn
và quá bất ngờ đối với anh. Chừng
như định thần lại được, Tân
phóng mình bước nhanh như chạy vào
khách sạn, miệng gọi lớn: “Jacqueline! Jacqueline!
Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền
này. Tôi xin trả lại cô!”
Nhưng Jacqueline
đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn
thấy gã xích lô chạy xồng xộc
vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ
liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng
hách dịch:
"Anh kia! Ra khỏi
đây lập tức!”
Tân giơ tờ
giấy một trăm đô nói:
“Tôi
đưa tiền trả cô khách Mỹ!”
“Cái
gì? Cô ta đánh rơi tiền à?”
“Không,
cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một
trăm đô, trong khi giá chỉ có năm
đô.”
Anh bảo vệ
ngẩn người ra nói:
“Lạ nhỉ?
Đi cuốc xe có năm đô mà trả một
trăm đô? Có khi là đô giả đấy!
Đưa đây tôi coi nào!”
Nhưng Tân
không đưa làm anh bảo vệ khách sạn
nổi giận:
“Thôi,
cút cha anh đi. Một trăm đô mà
chê à? Anh đạp xe cả năm liệu
có kiếm được nổi số tiền
này không? Gặp con mụ Mỹ điên
khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau
đi, không nó đổi ý ra đòi lại,
thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn
ạ!”
Tân cầm tờ
giấy bạc một trăm đô chậm rãi
bước ra khỏi khách sạn. Một trăm
đô, đúng là số tiền không nhỏ,
nhưng công sức của anh bỏ ra đâu
có xứng đáng để nhận sồ tiền
này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy.
Cả đêm đó Tân không ngủ
được. Anh cứ trằn trọc
“đánh vật” mãi với tờ giấy
bạc một trăm đô. Tại sao lại có
thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe đáng
giá năm đô, cô ta trả một trăm
đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh
chàng bảo vệ khách sạn nói? Không!
Nhất định không phải rồi! Cần
gì cô ta phải làm cái việc
lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô
ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương
hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù
có là gì đi chăng nữa thì
sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền
cho cô ấy.
Tân thở
dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve
ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm
đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như
sáng rực trong đêm. Một trăm đô
đâu có nhỏ. Có khác gì tiền
từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất
định ngày mai phải trả lại cô ta,
cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng
tấm lòng của cô nhưng tôi không thể
nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới
có hai ngày quen biết, đâu đã
có ân tình nghĩa trọng gì. Cám
ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người
đàn bà ở phương trời xa đến.
Nghĩ tới những người cùng chung nòi
giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy
đau đớn tủi nhục.
Hôm sau mới
tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới
chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một
người khách Tây phương đang vẫy
tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột
chờ, đốt hết điếu thuốc này
đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng
thọc tay vào túi quần để yên
trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn
còn nằm trong đó. Chín giờ đã
tới. Rồi chín giờ mười phút.
Chín giờ mười lăm phút. Không thấy
bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ
hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ
khách sạn hôm qua bước lại phía anh.
Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ
gây sự để đoạt tờ giấy một
trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ
mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo
vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại
và hỏi vẫn giọng hách dịch:
“Có phải
anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”
Tân gật.
Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:
"Này cầm
lấy! Thư của cô ta đấy!" Dứt lời
anh ta bước về khách sạn.
Thư là một
mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề
khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:
“Tân mến!
Hôm nay tôi có việc bất thần phải
đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe.
Hẹn gặp lại.”
Cô ký
tên một chữ tắt “J”.
2
Những
ngày và cả những tháng sau đó
Tân vẫn thường đậu xe góc đường
Lê Lợi - Tự Do có ý chờ người
đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh
biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ
đợi. Rồi Tân tự an ủi đó
là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp
có thật và sẽ không bao giờ hiện ra
lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của
nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe
trong trại tù: “Đời
rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn
kết thảm vô cùng.” Đời
mình chưa đến đoạn kết, nhưng
đến nước này thì đúng là
“thảm vô cùng” rồi, còn chờ
còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”.
Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ
“Hồn Bướm Mơ Tiên” - tên một
cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn
Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng
tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng
đất Thiên đường của Hạ giới,
còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn
địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy
gần mười hai giờ đêm Tân mới về
tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy
được ba “cuốc” xe ngắn, vừa
đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước
cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng
ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân
hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng
năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa
có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta
đợi mình về để đòi
đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã
tiêu hết, “tiền vào nhà khó
như gió vào nhà trống”. Tân định
cất tiếng xin khất ít ngày thì chị
chủ nhà đã tươi cười
đưa anh một tờ giấy, nói:
“Chú
Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:
“Tin vui? Tôi
làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị
Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng
mấy ngày nữa nghe!”
Chị chủ
nhà vẫn cười cười nói:
“Tôi
nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên
Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi.”
Tân sửng sốt:
“Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ
ngày ra tù về Tân chưa hề nhận
được một lá thư nào từ ngoại
quốc gửi về, nói chi đến việc nhận
quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên
Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu
trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì
anh chưa liên lạc được với họ. Tân
khấp khởi mừng thầm yên trí đây
là quà của “các bạn ta” gửi.
Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào
nhà đến bên ngọn đèn điện
vàng vọt yếu ớt. Chị chủ nhà
bước theo sau luôn miệng hỏi:
“Sao? Quà
của ai gửi vậy?”
Bỗng Tân
đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh
đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy
báo tin lần nữa. Thật bất ngờ ngoài
cả sức tưởng tượng của Tân. Người
gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới
hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy
vạy mới mượn được đủ tiền
dự phỏng để đóng thuế. Tất
nhiên trong số tiền này có cả tiền
của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng
lẩm bẩm:
“Trời
đâu có phụ kẻ hiền lành.”
3
Washington DC. ngày... tháng...
năm....
Tân thân mến,
Khi nhận được thư
này tôi hy vọng Tân đã nhận
được gói quà tôi gửi. Chắc
Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật
dụng, radio, cassette không phải của mình
tôi đâu mà còn là của một số
bạn bè phi công cùng khóa với Tân
gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước,
tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn
Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được
một số địa chỉ các bạn đồng
khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm.
Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ
buồn rầu khổ sở và tức tốc hè
nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng
như vật dụng quần áo. Về tiền
được hơn một ngàn đô. Tôi
đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay
anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ
hài lòng về số quà tặng
“đó là những tấm lòng của bạn
bè” chứ không phải “sự
thương hại hay bố thí” như một lần
anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng
tôi gửi tiền và mua những món đồ
cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ
dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt
Nam đang bán được giá cao. Bây giờ
tôi xin nói một chút về tôi chắc
anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam
không phải để du lịch. Tôi đến Việt
Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm
tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính
là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực
Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học
cùng khóa và là bạn thân của
anh.”
Coi tới đây Tân ngừng
lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại
người bạn phi công cùng khóa Edward
Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân
có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ
được hai năm sau đó mất liên lạc.
Anh nhớ mang máng là Edward Carter được
thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội
ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ,
Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất
là những buổi cuối tuần được nghỉ
đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày
phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở
dài. Mới đó đã mười mấy
năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:
“Trong một phi vụ oanh tạc
vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị
bắn hạ. Anh được báo cáo mất
tích.” Tân lại ngưng coi và đặt
lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ
kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống
tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward
bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt
sống thì nhất định Jacqueline đã biết
tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị
nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà
Nội. Tân cầm thư coi tiếp:
“Tôi không tin thông
báo của chính phủ. Bản danh sách
quân nhân Mỹ mất tích còn quá
dài. Tôi phải tự đi tìm chồng
tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết.
Chúng tôi mới lập gia đình có một
đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích
nó được hai tuổi.
Tôi đến Việt Nam lần
vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước
tôi đến Hà Nội và đi nhiều
nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một
tháng chẳng kiếm được tin tức
gì. Một người bạn viết thư cho
tôi biết ở Saigon có một
“tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất
tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng
cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã
book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị
lừa nhưng được gặp anh. Đúng
như người bạn Mỹ của anh nhận
xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút,
dài thêm một chút, và nước da trắng
thì anh đúng là bản sao của chồng
tôi. Sao lại có thể có hai người giống
nhau như thế và sao lại có sự tình
cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế
nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc
xích lô của anh, tôi ngoái lại
nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt.
Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng.
Anh có biết không, trong lúc liên lạc với
Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết
thêm anh là người đạt số điểm
cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy
trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già
đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh
và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh
niên thông minh giầu nghị lực, một phi
công đầy triển vọng tài ba. Nói
để anh mừng nhé. Các bạn người
Mỹ của anh đang vận động với
chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định
cư đấy. Công việc này tất nhiên
rất khó khăn và nhiều trở ngại,
nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng
nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ
liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ.
Anh cần những gì có thể cho tôi biết
để tôi và các bạn anh cố gắng
giúp. Dưới đây là một số địa
chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ
viết thư cho họ nhé. Có mấy người
mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ
sẽ có thư cho anh, nếu không có gì
trở ngại về phía anh.
Chúc anh vui khỏe.
J.
Ít ngày sau, đúng
như thư Jacqueline viết, có một người lạ
đem đến cho Tân hơn một ngàn
đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn
ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không
nén được xúc động, tay cầm
cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận
tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay
cay ... Anh đã không cầm được nước
mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy
mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới
một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng
xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần
ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi
Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy
như mùi nước hoa, mùi da thịt của
nàng còn phảng phất đâu đây.
4
Tân đi tù khoảng
hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng
khác, một cán bộ ngoài Bắc vào.
Chính chị đã dẫn người này
lên tận trại tù ép buộc Tân
ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp
cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự
hứa hẹn này nhưng với một người
vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy,
anh không còn gì để lưu luyến cầm
giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới
ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết
con mình được ông bà ngoại đem về
nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng
cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà
ông bà già vợ. Con gái anh đã
hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh.
Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa.
Tân định ở nhờ ông bà già vợ
ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp
mà lại chứa những năm người: ông
bà già vợ, vợ chồng người em vợ
và con gái Tân nên không còn chỗ
cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có
rau muống muối mè (để đãi mừng
chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm
cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông
bà già vợ cố giữ lại “ăn hết
nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm
đó, đêm đầu tiên được sống
tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm
ngủ trong mái hiên của một ngôi
chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen
chúc với đám ăn mày, xì ke ma
túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ
Tân mang từ trại tù về cũng bị
“chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một
người bạn tù về trước anh và
được người này giới thiệu việc
làm: rửa chén đĩa một tiệm phở.
Làm được mấy ngày chưa kịp
lãnh lương tuần Tân bị thôi việc.
Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá
nhiều chén đĩa trong khi rửa.
Mãi Tân mới kiếm
được một việc tương đối
“độc lập tự do” và hợp với
“khả năng” của đa số tù cải
tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động”
vất vả cực nhọc lại không ”vinh
quang” chút nào Tân cũng kiếm được
đủ ngày hai bữa ăn và thuê một
cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để
đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy
được khá tiền một chút, anh mời
cả gia đình bố mẹ vợ và cô con
gái đi làm một chầu phở bình
dân. Cuộc sống khó khăn chật vật
nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng
vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần
trong trại tù cải tạo, có làm
không có ăn. Tân cho rằng khi con người
đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo
của cộng sản rồi thì tất cả mọi
sự trên cõi đời này đều ... nhẹ
như lông hồng!
Có được số tiền
“ngoại viện” Tân đem một nửa
“phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn
bè và cả chị chủ nhà. Riêng
cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy
bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp
để đi học. Tân viết thư gửi
Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với
các bạn bè người Mỹ cũng vậy.
Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận
được một lá thư của Jaqueline
cùng một số tiền hoặc hàng hóa,
có lần có cả đồ hộp thức
ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực
nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc
xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe
ra phố, không phải để chở khách
như trước mà là phương tiện
để anh đi đó đây thăm bạn
bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới
góc phố Lê Lợi - Tự Do tưởng nhớ
tới Jacqueline và những ngày đầu gặp
gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái
tóc vàng óng ả chẩy dài xuống
lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng
hiển hiện trước mắt Tân. Có lý
nào cô nàng yêu mình? Tân băn
khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với
câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy
nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô
nàng thương hại mình thôi. Trong những
lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng
gió viết về tình cảm của mình
đối với nàng, nhưng có lẽ nàng
không hiểu sự tế nhị này của
người Á Đông. Trong thư hồi âm,
Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở
Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử,
phong tục, tập quán, phong cảnh và những
món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi
Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ
và nếu được sang Mỹ định cư
thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận
được thư Jacqueline là buổi tối
hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống
trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy
bay, có lúc thì đi hộp đêm với
bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu
nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn
là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết
đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng
xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ
miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy
tiếc và muốn giấc mơ cứ thế
kéo dài mãi.
Buổi sáng hôm đó
Tân sửa soạn đạp xích lô đi
“tiếu ngạo giang hồ” có một anh
công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc
nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp
lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi
đi hỏi lại mãi có đúng tên
là Đỗ Tân không rồi mới cho biết
lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp.
Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ
muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy
của Tân cho biết đây là một tin
lành. Tân đạp xích lô theo anh công
an đến khách sạn Đại Lục nơi
trước đây Jacqueline ở. Mọi người
làm trong khách sạn đều nhìn Tân với
cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì
ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học
cùng khóa với Tân. Máy bay của ông
bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc
và bị nhốt “khách sạn Hilton ”
hơn năm năm thì được thả. Về
Mỹ ông ứng cử và đắc cử
dân biểu. Jacqueline đã gặp ông
trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ
ông can thiệp với chính phủ cộng sản
Việt Nam. Ông sang đây với một phái
đoàn bàn thảo chương trình viện
trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó
có “chút việc riêng tư” là
can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước
khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp
Tân để “nhận diện” người bạn
đồng khóa năm xưa.
5
Anh Hoàng thân quý,
Sau khi chia tay anh ở phi trường
Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà
đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ
hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt
chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều
anh cũng thừa biết là tôi bận lắm.
Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng
thời cũng là để gột sạch “bụi
bặm xã hội chủ nghĩa” (còn
bám chút đỉnh nơi thân thể),
tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới.
Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức
tường đá đen ghi tên các chiến sĩ
Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam. Chúng
tôi dành ít phút cúi đầu tưởng
niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter. Sau
đó chúng tôi đi hưởng tuần
trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi
đi thăm chỗ tôi học lái máy bay
năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn
phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi
công đương kim dân biểu đã giới
thiệu cho tôi một job hợp với khả
năng: lái máy bay cho một đồn điền.
Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y
tá bệnh viện. Con gái tôi được
Jacqueline và con gái cô quý mến lắm.
Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn
quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh
biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo
chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với
một giá mắc người chủ mới chịu
bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày
nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở
Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng
vòng trên các đường nhỏ trong thành
phố. Đây là một chiếc xe độc
đáo duy nhất có ở thành phố
này, nên đạp tới đâu cũng
được người Mỹ vui vẻ ngắm
nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có
nhiều người bắt tôi xuống xe để
cho họ đạp thử và suýt nữa
thì làm lật cả xe. Lâu dần người
Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của
tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích
lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi
và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên
chúng tôi vô cùng quý và trân trọng
giữ gìn nó.
Hiện tại
chúng tôi đang sống tràn trề hạnh
phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy
đến muộn nhưng chúng tôi bằng
lòng lắm với những gì mình đang
có, đang sống. Thiên đường có thật
anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm
trong suối nguồn tươi mát của Thiên
Đường.
Xin chúc anh và gia
đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh
thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho
tôi nhé.
Quý mến,
Đỗ Tân.
THANH
THƯƠNG HOÀNG
(Huon
Doan sưu tầm và chuyển)