Quyển ngoại sử viết về
chiến tranh Việt Nam
(Nguyễn Đạt Thịnh)
Tôi biết, có 4
độc giả Việt Nam không coi trung úy Bernard de Lattre de
Tassigny, con trai duy nhất của thống chế Jean de
Lattre de Tassigny, là một quân nhân anh hùng, trong lúc cả thế
giới ngưỡng mộ cái chết của anh trong cuộc
giao tranh tại Ninh B́nh, giữa năm 1951. Bernard, một
quân nhân COCC (con ông cháu cha) chính thống, có thừa điều
kiện ngồi mát tại Hà Nội mà vẫn thăng cấp
nhanh hơn những bạn đồng đội khác lặn
lội, sống chết trên chiến trường.
Bốn độc
giả đó là cô Quỳnh Như, và các cậu Khôi, Tuấn,
Lân, là những người con anh Quang được đặc
quyền đọc chiến sử Việt Nam qua một
tác phẩm ngoại sử, viết với góc nh́n vô cùng gần
với họ, quyển ngoại sử mà họ yêu
thương hơn cả chính sử, quyển sách dầy
và cao như núi xương, ghi chép cuộc nội chiến
Việt Nam dài 7,300 ngày, ngày nào cũng đầy những
con số khô khan, những giao tranh đẫm máu, và làng nào,
quận nào, tỉnh nào cũng chỉ trắng xóa mầu
khăn tang.
Tôi muốn giới
thiệu với bạn đọc quyển "TỪ SÔNG
NHUỆ TỚI BỜ MISSISSIPPI", tác phẩm mà anh Vũ
Quang bảo riêng tôi, "sách không bán, tôi viết
để lại cho các cháu biết bố chúng nó suốt
đời làm ǵ," nói cách khác, nội dung
sách mô tả cuộc chiến tranh nhỏ của một con
người Việt Nam, bên trong cuộc chiến tranh lớn
của cả một dân tộc.
Các cháu Quỳnh
Như, Khôi, Tuấn, và Lân chỉ cần biết bố
chúng, thiếu úy Vũ Quang, đă phục vụ trong một
đơn vị tác chiến mà Bernard đă tử trận,
và chính bố chúng đă cất giữ những kỷ vật
của người tiền nhiệm, những thứ
"vật bất ly thân" như khẩu súng cá nhân, vài tấm
ảnh, lá cờ đại đội, quyển "nhật
kư hành quân" của đơn vị, mà sau này mẹ của
Bernard, bà góa phụ Simonne de Lattre de Tassigny, t́m kỷ vật
của con để cất giữ những h́nh ảnh cuối
cùng, xin anh Quang trao lại qua Bộ Tư Lệnh Đệ
Tam Quân Khu (trước 1954).
Tôi thích thú đọc
ké tác phẩm Vũ Quang chỉ viết riêng cho các con, và rất
xúc động trong những đoạn anh kể lại một
vài t́nh cảm đặc sản Việt Nam, không thể t́m
được trong xă hội Mỹ.
Một thí dụ:
anh viết, "Mười tháng sống
trong quân trường với bao kỷ niệm rồi cũng
qua mau. Tháng tháng chúng tôi được lănh khoảng trên ngàn
bạc. Tôi gửi về nhà một nửa, nửa kia cúng
câu lạc bộ của ông Già Gân. Tốt nghiệp (giữa
năm 1952) tôi chọn ngành Giang Thuyền."
Tôi không tin có anh
sinh viên West Point nào gửi nửa lương về nhà biếu
cha mẹ, dù anh đó gốc Việt.
Chọn ngành Giang
Thuyền, nhưng cuối cùng Vũ Quang vẫn trở về
ngành Bộ Binh trong phương vị một sĩ quan tác
chiến, v́ 2 năm trước Điện Biên Phủ, chiến
trường Bắc Việt chuyển động mạnh,
tổn thất của cả đôi bên đều nặng
nề, nhu cầu sĩ quan bộ binh rất cao. Anh đặc
cách lên trung úy tại mặt trận và chỉ huy một
đại đội tác chiến của tiểu đoàn 56
bộ binh.
Tiểu đoàn cấp
cho anh trên chục lao công chiến trường, những
nghi phạm cộng tác với địch, để anh sử
dụng trong việc tải đạn; trong số lao công
có một ông cụ trên dưới 60, Quang thương hại
nh́n cụ c̣ng lưng vác đạn súng cối, trong lúc ống
chân gầy ngập dưới 3 tấc nước; anh cho
ông cụ về làm việc nhẹ: phục vụ những
nhu cầu riêng của anh, nấu nướng, dọn dẹp,
để tránh công tác tải đạn nặng nhọc.
Nhưng rồi, thấy
ông cụ vẫn c̣n khổ sở, thương vợ, nhớ
con, trong kiếp tù lỏng, anh quyết định trả
tự do cho ông ta, việc làm vượt trên quyền của
anh.
Vũ Quang viết,
"Tôi
rút trong túi ra một ít tiền, dúi vào tay ông, cảm ơn
ông đă chăm sóc tôi trong thời gian qua, và chúc ông sớm
được đoàn tụ với gia đ́nh. Tôi tưởng
ông cụ sẽ vui mừng ra đi, nhưng cụ lắc
đầu bảo tôi, 'tôi đi, ai lo cho trung úy?'"
Tôi chắc Quỳnh
Như, cô con gái duy nhất của anh Quang, thích đoạn
này lắm: bố cô vẫn đầy t́nh người, dù mỗi
ngày mỗi phải giết địch để không bị
địch giết.
Nhưng đoạn
mà những độc giả con anh Quang phải vừa khóc
vừa đọc là đoạn chót cuộc chiến Việt
Nam của riêng đại tá Vũ Quang.
Anh viết, "Tới
bến Khánh Hội, xe ghé vào cổng số 5, bấm c̣i hiệu:
cổng được hé mở, chỉ đủ cho chiếc
xe lách vào rồi lại khép kín. Mọi người ngơ
ngác, tài xế hất tay làm hiệu chỉ chiếc phà
đậu sát bờ. Chúng tôi mạnh ai nấy chạy; các
con ông Trạc, đang tuổi tráng niên mạnh khỏe, cơng
hộ 3 cháu nhỏ, tôi đi sau với nhà tôi và ông bà ngoại.
Nhà tôi nóng ruột kêu
lên, 'sao anh không chạy theo các con.' Như người chợt
tỉnh, tôi chạy ra bến, nhẩy lên đúng lúc chiếc
phà từ từ rời bến.
Nhà tôi và ông bà ngoại
c̣n kẹt lại trên bờ. Thấy chiếc phà thứ
hai, không người, c̣n đậu tại bến, nhà tôi
định leo lên; có thể nhà tôi nghĩ bề nào phà này cũng
theo phà kia ra biển để rồi cùng cặp vào một bến nào
đó. Tuy nhiên, nh́n ra th́ thấy khó ḷng leo lên nổi, v́ phà
không cặp
ngang bến, mà chĩa mũi vào bờ; muốn lên phà phải
leo qua một lỗ hổng tṛn, vừa đủ một
người chui lọt. Thất vọng nhà tôi quay trở lại
chỗ cũ th́ gặp gia đ́nh anh bác sĩ Nguyễn Tấn
Hồng (đang ở Canada), cũng cùng hoàn cảnh và
đang ngồi bên đống va li, vẻ mặt buồn rầu.
Nhà tôi than, "Anh
ơi, anh Quang và các con tôi đang ở cái phà kia, anh bảo
tôi làm sao bây giờ?" Anh Hồng an ủi một câu rất
"huề vốn": "thôi, chẳng qua số anh chị nó như vậy. Tôi
không thể đi kiểu này. Chúng tôi sẽ đi về
đây."
Nhà tôi không bỏ cuộc;
nh́n bờ sông phía trước có một băi trống, nhà tôi
bèn kéo 2 cụ chạy ra phía đó, với ư định, nếu không lên được
phà th́ thuê thuyền nào gần đó đi theo. Phần tôi,
sau khi lách qua rừng người, tôi mới trèo lên
được chỗ cao làm hiệu cho vợ tôi ráng chạy
theo, đồng thời lên pḥng lái, năn nỉ anh tài công
người Phi cho tầu tắp trở vào bờ. Anh ta lắc
đầu.
Đứng trên mũi
tầu nh́n vợ tôi, người đă bé nhỏ, lại vừa
chạy vừa kéo bố mẹ, tôi chỉ c̣n có cách trở
lại năn nỉ anh tài công. Có lẽ thấy có khoảng
trống trước mặt có thể ghé vào được,
hay cũng có thể v́ thấy chỉ có 3 người
đơn độc, anh ta bẻ lái vào bờ.
Cũng vừa chạy
tới, nhà tôi nhẩy xuống trước, hai cụ theo
sau. Phà lại rời bến trước khi hàng trăm
người ùa tới."
Tôi nghĩ không bao
nhiêu người trẻ của thế hệ tị nạn
thứ nh́ biết rơ cái giá mà bố mẹ chúng phải trả
để chúng đang có cuộc sống hoàn toàn tự do,
mà đa số thành công trên mức trung b́nh của xă hội
Hoa Kỳ, như các con anh Quang.
Dù không có cuồn
phim giúp chúng nh́n lại cảnh chị Quang dắt ông, bà ngoại
chạy đua với xà lan, cảnh anh Quang năn nỉ
người tài công ngoại quốc, nhưng đoạn viết
của anh cũng đủ làm chúng khóc thương bố,
mẹ, và cả ông bà ngoại nữa.
Anh Quang vô cùng thành
công với 4 độc giả mà anh nhắm vào khi viết
lại binh nghiệp chỉ dài 23 năm, nhưng vẫn chiếm
trọn cuộc đời anh. Các con anh biết bố
thương yêu gia đ́nh bên nội đến mức chia
đôi số lương lính bé nhỏ để gửi về;
chúng cũng biết bố thường xuyên đồng hành
với tử thần trong suốt những năm chinh chiến,
khi đọc chuyện một người bạn đồng
khóa - thiếu úy Phan Trọng Thiện, anh ruột trung
tướng Phan Trọng Chinh - mà Việt Cộng bỏ lại
chiến trường, nơi chỉ cách đồn của
bố chưa đầy 2 cây số, v́ tưởng Thiện
chết thật, trong lúc anh chỉ bị trọng
thương mà bố không thể đến tiếp cứu.
Tôi chỉ đề
cập đến góc cạnh "kư thác để lại
cho con" của tác phẩm anh Quang viết, trong lúc quyển
sách 236 trang c̣n rất giá trị đối với quân sử,
chiến sử, v́ anh Quang quen biết và đề cập
đến nhiều nhân vật có trách nhiệm trong cuộc
chiến Việt Nam.
Chỉ riêng giá trị
"kư thác" tôi cũng đă thấy vài trăm ngàn cựu
quân nhân chúng ta "thiếu nợ" các con một cuộc
tường thuật đầy đủ về cuộc
chiến tranh Việt Nam riêng của bố chúng, mẹ
chúng; trong số những con nợ này, có tôi.
Độc giả
của Vũ Quang không giới hạn vào 4 đứa con
như anh tưởng: người độc giả thứ
5 của quyển ngoại sử, nguyên là một tiên nữ
trên tiên cảnh Đà Lạt Hoa Đào, gọi điện
thoại bảo tôi bà không tin là đă xuống trần gian
làm bạn với anh Quang đến gần 60 năm; thời
gian bà thấy chưa đủ dài để hai người
viết chung một chữ YÊU. Bà bảo, bà đă hẹn
Quang gặp nhau thêm một kiếp nữa.
Và bài báo ngắn
này xin chấm dứt bằng lời mời vô duyên của
người viết: xin mời độc giả t́m đọc
quyển sách quư vị không thể nào t́m ra trong mọi nhà
sách.
Nguyễn Đạt Thịnh
(Bùi Mạnh Hùng sưu tầm và chuyển)