Ý nghĩa tục Lì Xì
ngày Tết
Quanh chuyện
"lì xì" ngày Tết bằng tiền
và bằng ... chữ! Nghe hai tiếng "lì
xì" người ta liền tưởng tới bao
giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần
tư trang giấy học trò, bên trong có xếp
mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng
"lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc
của nó thế nào? Chúng tôi lân la
"tầm nguyên" qua các nhà nghiên cứu,
hỏi trực tiếp bằng miệng có, giở
sách vở các vị có, thấy giải
thích hai chữ "lì xì" tựu trung
là "tiền mừng tuổi".
Cuốn từ
điển thời nay do Viện Ngôn ngữ học,
Trung tâm Từ điển học chẳng hạn, mục
từ lì xì giải thích: "Lì xì
là mừng tuổi (bằng tiền). Tiền lì
xì cho các cháu ngày mùng một Tết".
"Lì xì" bằng tiền không chỉ giới
hạn trong mùng một Tết, mà "liền
tù tì" suốt ba ngày đầu năm, thậm
chí kéo dài tận những ngày
"mùng" cuối cùng của Tết như mùng
9, mùng 10. Theo một số người thì tục
mừng tuổi vẫn cứ nên giữ. Nhà
nghiên cứu Thông Hội bảo: "Đó
là một phần đậm đà của phong vị
Tết Việt Nam, đặc biệt đối với trẻ
con, khiến trẻ nhớ tới Tết như một thời
điểm mở đầu năm mới, đẹp
như cổ tích". Với nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tý, tác giả Dư âm, cứ nên
lì xì "miễn là đừng lì
xì tiền đô cho trẻ, không đúng
chỗ, mà tập hư cho chúng ăn
xài". Nhà nghiên cứu Cao Sơn giải
thích: - Lì xì tiếng chữ là lợi
thị, đọc theo âm Quảng Đông, Triều
Châu thành "Lê - i - xị", chỉ số
tiền được cho, tặng trong các dịp
đầu năm, khai trương và cả trong lễ
thành hôn nữa, chứ không bó hẹp
trong dịp Tết Nguyên đán.
Lì xì nhằm
cầu chúc người nhận gặp may mắn,
phát đạt. Thường người Tàu bỏ
tiền vào bao giấy màu đỏ. Người
Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến
ở miền Nam ngày Tết. Ở miền Trung
thì ông bà cha mẹ, người tôn
trưởng cho con cháu tiền mới vào dịp
Tết gọi là "tiền mừng tuổi".
Không chỉ người lớn mừng tuổi con
cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng
tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới
sáng sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới
nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng
ông bà, cha mẹ. Không chỉ lạy suông,
cũng không thể muốn lạy mấy lạy
thì lạy, mà theo nhà văn Toan Ánh, chỉ
lạy ... hai lạy rưỡi. Lạy xong con cháu phải
biết "thơm thảo" với đấng sinh
thành bằng cách cung kính dâng lên những
thứ bánh trái tươi ngon và một phong
giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm
này có đặt một món tiền, để
lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các
cụ nhận cho, đó là "tiền mở
hàng". Tiền này không nhằm để cất
cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu
chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn.
Tục mừng tuổi nay còn đó. Ông
bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ
lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân
quyến tới nhà ai chúc Tết lì xì
trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ
nhà đón khách tới chúc Tết
lì xì trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa
chính không nằm ở "tiền" mà ở
"tình", tức ở lòng mong ước cầu
chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui
chơi, học hành tấn tới, còn phong
bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không
phải là điều đáng để tâm lắm.
Thậm chí không có một cắc bạc
mà chỉ có ... chữ. Chữ viết rõ to,
đậm nét để "làm quà" mừng
tuổi như chuyện dưới đây.
Xưa,
có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba
đứa con trai. Tết đến người cha
không có tiền để lì xì. Chiều
ba mươi, ông nghĩ ra một cách, lấy giấy
đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài
trông thẳng thớm tươi tắn đỏ thắm
như các phong lì xì khác. Nhưng bên
trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3 miếng
giấy được ông viết 3 chữ nắn
nót: Phước - Lộc - Thọ. Qua sáng
mùng một, người cha gọi 3 đứa con trai
đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng,
tươi cười mừng tuổi chúng bằng 3
cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải
thích Phước là gì, Lộc là
gì, Thọ là gì ... Qua Tết, bước
vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông
phát tài, tiền vô như triều cường.
Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp.
Ý chừng nhớ lại Tết xưa nghèo thiếu,
đạm bạc, ông định bụng sẽ
tái diễn cách "lì xì" bằng chữ
để ba đứa "Phước Lộc Thọ"
đừng bao giờ quên rằng, chúng
đã được ăn no mặc ấm từ một
quá khứ đói rách gần đây. Ai
đời, khi nhận phong bì xong, ba đứa con
bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn
chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến
đâu mất. Người cha cũng ngạc nhiên
không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng
một người từ đâu đến bảo:
"Ta là phúc thần của đất này.
Chữ Phước đó do ta ban cho. Chỉ cần
có nó cũng gồm đủ cả ba: phước,
lộc, thọ, vì có phước mới hưởng
được lộc, mới thọ lâu. Vì thế
chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ phước để mừng tuổi đầu năm là đủ".
Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong
lì xì, cả bốn cha con sửng sốt một
lần nữa vì chữ phước cũng biến mất
luôn, trên mặt giấy trống trơn, trắng
toát.
Bấy giờ vị
thần thứ hai hiện ra kể cho bốn cha con nghe một
chuyện mừng tuổi xa xưa. Đó là
câu chuyện nổi tiếng khắp châu Á,
loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp
Sơn, đến cả lưu vực sông Hoàng
Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập
vào Việt Nam từ lâu đời, về một
người cầu phước được phước,
trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt.
Ông ta quên những điều tốt đẹp,
những ban phát ngọt ngào, rộng lượng
mà mình đã làm ở tiền kiếp,
vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc
về riêng mình, trong kiếp này, bỏ
vào chiếc hũ, đem chôn ở một vị
trí bí mật trong nhà không cho ai hay. Ngay cả
con trai của ông cũng không được biết
nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh.
Khi chết, linh hồn ông bị hũ vàng ám
ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm
cách chui vào xác chết cứng lạnh của
mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một
con chó gần nhà có linh tính đã
nhường thể xác hèn mọn của
mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi
bay lên không trung thoáng đãng. Còn
ông nhà giàu thay thế làm chủ thể
xác của con vật bốn chân, thỏa mãn
được "sống" lại, dầu với tấm
thân thuộc hàng súc sinh như chó. Con
chó đó lạ thay suốt ngày không
đi đâu cả, cứ nằm lì trước
hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất
định sát cửa ra vào. Hễ người
con (bây giờ đã là chủ nhà) đuổi
đi, một lát không lâu nó lại quay về
chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy là
nó rời sự sống của nó vậy.
Các phước quả mà nó hưởng
là hũ vàng ngọc, giờ đây trở
thành điều vô phước cột chặt
nó vào tham si. Ngày nọ, một đại
sư ngang qua, nói với đứa con: "Này
anh kia, anh có biết con chó đó là ai
không?". "Dạ thưa không". "Ta
nói cho biết, nó chính là cha của
ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt
ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa
đó? Ấy là vì nó luyến tiếc của
cải chôn dưới đất. Hãy đào
lên". Người con lấy làm lạ, cho
đào thử chỗ con chó thường nằm,
thì quả nhiên thấy hũ vàng bên
dưới. Bị rúng động vì việc
này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở
hữu số vàng, rời nhà theo vị đại
sư lên núi, về sau trở thành một
trong những vị tổ đầu tiên của lịch
sử Thiền tông. Vị này tỉnh ngộ rằng:
nếu làm phước, được phước
mà thiếu huệ tức trí huệ sẽ trở
nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ, thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể
xong, vị thần bảo: "Đó là lý
do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước
trong bao lì xì mừng tuổi của các
ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt
đẹp nếu sinh đôi cùng huệ, bằng
không chỉ là động lực cho những cuộc
thăng trầm bất tận. Giờ đây
ngươi hãy nhìn xem".
Bốn cha con thấy
trên bao lì xì hiện lên hai chữ Phước
Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi
tâm hồn đã đi qua mùa đông
để mở đầu một năm mới thăng
hoa.
Sưu tầm
(Khai Nguyên chuyển)