Hoàng
Cầm - Lá Diêu Bông
(Công
Tử Hà Ðông, Viết
ở Rừng Phong)
Qua cầu bà Sấm, bến cô
Mưa
(Hoàng Cầm)
Những người yêu Thơ
Hoàng Cầm đều biết những bài
thơ tình hay nhất của ông: Lá Diêu
Bông, Qua Vườn Ổi, Cây Tam Cúc, Nếu
Anh còn trẻ ... Nhiều người thắc mắc
không biết ở đồng làng Ðình Bảng
- Váy Ðình Bảng buông chùng cửa
võng .. nên nghĩ là hai Chị Em buổi chiều
đông xưa đó theo nhau đi ở cánh
đồng làng Ðình Bảng - có cái
lá gọi là lá Diêu Bông thật
không, đi tìm lá Diêu Bông để
làm gì? Trong đời Thi sĩ có một người
chị như ông thường nhắc đến trong
thơ thật hay không?
Thi sĩ Hoàng Cầm trả lời
người yêu thơ ông những câu hỏi ấy
trong bài “Tám Nhịp Tuần Du”, viết
năm 1992. Tôi trích một đoạn trong
bài ấy.
Tám Nhịp Tuần Du. Văn
xuôi Hoàng Cầm. Nhà Xuất Bản Văn Học,
phát hành Tháng 12 năm 1999. Trích:
"... Nói chung hầu hết
những bài thơ của tôi được độc
giả ưa thích trong nhiều năm, bao giờ cũng
bắt đầu một cách vi diệu là “từ
ngoài tôi”, vẳng lên đôi ba câu
nghe rất rành rẽ, giọng phụ nữ lảnh
lót mà rất xa, như hát mà như
đọc. Như một tia nước trong vắt phun
lên từ ruột đất khi chúng ta thăm
dò mạch nước ngầm để
đào giếng, khi đã có đôi ba
câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy
ngay và từ đó là tình cảm, suy
tư cuồn cuộn trong người, tôi thường
tiếp được mạch ban đầu ấy
và nối luôn các đợt sóng tuôn
trào cho đến khi trong người thấy yên ắng,
nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất.
Ví dụ như bài thơ dài Bên Kia
Sông Ðuống (tôi đã viết rất tỉ
mỉ, thuật lại những trạng thái của
tâm tư mình trước lúc bật ra thơ
.) tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn,
thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo
cáo về quê hương mình bị giặc
xâm lược kéo lên tàn phá, giết
chóc, tôi chưa định viết gì,
lúc quá nửa đêm vẳng lặng, bỗng
văng vẳng bên tai ba câu:
Em
ơi buồn làm chi
Anh
đưa em về sông Ðuống
Ngày
xưa ... cát trắng phẳng lì
Tôi bèn chộp lấy, ghi
ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một
mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp
những âm thanh, làn điệu đang cuồn cuộn
dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần
sáng thì xong bài thơ, một trong những
bài được các bạn già, trẻ,
nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế
kỷ. Những bài thơ như vậy, thường
là không theo một ý nghĩ nào định
trước, tác giả giống như một cậu
học trò viết chính tả, lúc đầu
là có tiếng đọc rành rọt bên
tai, sau là viết theo tiếng đọc âm thầm
từ trong tâm can mình, ở những trường
hợp ấy tôi không hề cấu tứ, nghĩ
ngợi gì về câu, chữ, không theo một
luật nào của thi pháp về thanh điệu,
ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ
tuân theo nhịp rung động của toàn
thân, cả tâm hồn và thể chất,
khí chất.
Ðặc biệt, riêng,
riêng có bài thơ Lá Diêu Bông, duy
nhất một bài này là những lời vẳng
bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa
đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ,
trong ánh sáng lờ mờ của ngọn
đèn ngủ 6 "oát", bên cạnh
người vợ đang ngủ ngon và các con những
giường bên cũng đang ngủ say, tôi
không gây một tiếng động khả dĩ
làm mất giấc ngủ của những người
thân. Ðêm nào, khi lên giường nằm,
tôi cũng để sẵn một tập giấy trắng
và cái bút chì. Nếu ngủ được
thì càng tốt, nhưng thường về
đêm, tôi cứ hay bị thao thức, trằn trọc
vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo
nghĩ, chẳng có ý định gì trong
đầu mà sao về quá nửa đêm một
mùa rét ấy tôi vẫn không ngủ
được. Bốn bề yên tĩnh.
Nhà tôi ở vào một
phố nhỏ, lại lùi tít vào phía
trong, nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài
đường cũng không lọt vào tai. Im lặng.
Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất
nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm
rãi, có tiết điệu, nghe như thời
nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ
tiền kiếp vọng về. Váy Ðình Bảng buông chùng cửa
võng ...
Tôi xoay người trong
chăn về phía bên trái và ghi ngay. Giọng
nữ vẫn đọc, không vội vàng mà
cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa
trong bóng tối mờ. Ðến lúc giọng nữ
im hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng hẳn, một
lát sau tôi ngủ thiếp đi. Sớn hôm sau
nhìn lại thì có chỗ rõ, đọc
được, nhiều chỗ dòng nọ đè
lên dòng kia, chữ nọ như xóa mất chữ
khác. Phải mất gần nửa tiếng đồng
hồ tôi mới tách được ra theo thứ
tự đúng như những lời người nữ
kì diệu nào đó đã đọc
cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Bài
Lá Diêu Bông ra đời như vậy,
nói có người
không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa
tâm thần học, vô thức luận, tâm linh
học có thể lí giải được hiện
tượng đó một cách rất khoa học.
Vậy nên, cái Lá
diêu bông là cái lá gì, ở
đâu, nào
tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông,
tôi chép diêu bông, thế thôi.
Nhưng nó có nguồn gốc của nó đấy.
Năm 12 tuổi, tôi say mê
một người con gái láng giềng hơn
tôi những 8 tuổi. Chuyện từ năm lên
tám, tôi đi trọ học trên thị
xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bẩy,
mươi phút xe lửa lại đưa tôi về
nhà, ở cái phó ga xép Như Thiết,
tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết,
thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc
huyện Việt Yên. Phó ga ấy cách Hà
Nội 44 km. Còn 6 km thì qua cầu sông
Thương (con sông
Thương nước chẩy đôi dòng), tới
ga Phủ Lạng Thương. Ðường số 1 chạy
qua trước cửa nhà, sau lưng là đường
hỏa-xa Hà Nội-Lạng Sơn. Nhà tôi
có tủ thuốc bắc của ông bố,
có đôi bồ hàng xén của bà mẹ.
Một chiều thứ bẩy, khoảng hơn 4 giờ,
tôi về nhà thấy một cô gái
đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng
đầu lên, nhìn ra đường thì cậu
bé lên tám choáng người, như sau
này người ta thường gọi là "coup
de foudre". Người con gái đẹp đến
mê hồn. Rồi thứ bẩy sau về nhà,
tôi trao bức thư tỏ tình đầu
tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy
kẻ học sinh trên có vẽ hoa bướm, một
vài ngọn núi, một dòng sông với chữ
viết bằng mực tím, nắn nót: “Em gửi
Chị Vinh của Em”.
Ấy, sở dĩ mới bé
tí đã làm được một trang
thơ lục bát vì ở trên nhà trọ
chỗ thân tình với bố tôi, chủ
nhà chính là cái ông xếp cái ga
xép Núi Tiết ấy, gia đình ông
trên tỉnh đông con, làm nghề hàng
xay, hàng xáo, đêm nào cũng xay
lúa, giã gạo rồi quạt xẩy đến
khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn
ngủ, các anh, các chị cứ bắt xuống
nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng
phải đọc đủ
thứ chuyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ
từ 2 xu đến 1
hào, đủ các loại truyện, thể
thơ lục bát, từ Trê Cóc đến
Truyện Kiều, từ Nhị Ðộ Mai đến
Hoa Tiên, rồi Lục
Vân Tiên, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm
Công-Cúc Hoa, Tống Trân-Cúc Hoa ...Vì thực
ra, ngay từ bé, tôi sớm có giọng
hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người
nghe lắm. Ðọc hết lượt, phải đọc
lại. Thể thơ lục bát thấm vào
người từ nhỏ, mình lại bẩm sinh
yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức
thư tình gửi người gái Kinh Bắc,
người Chị làm Em say mê ngơ ngẩn suốt
năm năm ấy, mà thư tình lại viết
bằng thơ lục bát thì hẳn không phải
là điều gì đáng ngạc nhiên phải
không, thưa các bạn?
Tôi mê say Chị, Chị
đi đâu Em theo đấy, chỉ còn biết
gọi Chị ơi chứ còn biết nói
gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy
con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ
con, mẹ góa con côi, đèo bòng nhau
lên cái phố xép này mở ngôi
hàng bán kẹo bánh, nước chè
tươi, nước vối, cả bánh đa,
bánh đúc, bánh mật, bánh khoai. Chị
Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ,
người quê gốc cũng Tiên Du, nên
hát quan họ thì làm mê người ta
ngang với nhan sắc của chị. Chị cũng thừa
biết thằng bé con này, (tên khai sinh là
Bùi Tằng Việt, chỉ đơn giản là
tôi ra đời ở thôn Phúc Tằng, huyện
Việt Yên, Bắc Giang, nơi bố tôi ở nhờ
để gõ đầu trẻ) biết thằng
bé con này nó mê đắm mình,
nên chị cứ hay trêu đùa, lắm
lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều
giờ phút tôi có một niềm hạnh
phúc không có gì so sánh nổi là
được chị Vinh cho ngồi sát bên Chị,
chầu rìa những cuộc chơi tam cúc
ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị
thường nhờ những đêm trăng sáng
vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những
đám thanh niên tụ tập ở cái
bãi sau nhà ga, hát ví, hát trống
quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn
đáp, đặc biệt về môn quan họ
thì Chị là bà chúa của dân ca! Giọng
ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen buồn
thăm thẳm với hàng mi cong và dài,
má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn
luôn đã hồng lại còn cắn chỉ
quết trầu, răng đen cũng rưng rức hạt
na. Chị Vinh ơi, viết đến đây, em vẫn
bồi hồi nhớ từng sợi tóc chị
dán trên vừng trán, từng con mắt chị
lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng
lời nói, từng nụ cười, em còn ngửi
thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng
mùi hương nhu mới gội buổi chiều,
mà nếu Chị buông tóc dài quá
đầu gối để hong khô thì cả suối
tóc ấy làm thành thế giới mê say của
riêng em từ độ ấy đến ngày nay,
dẫu tóc em đã trắng hết, em vẫn
có thể vẽ đúng chân dung Chị tuyệt
vời nếu có người chỉ dẫn cho em
đôi điều cơ bản về hội họa. Ảnh
Chị in mầu trong hồn em, không một nhà
khoa học nào có thể làm ra cho em được
những tấm ảnh như em đang có, vẫn
còn đầy đủ và tươi tắn,
nguyên vẹn từ hơn sáu chục năm rồi
đấy, Chị ơi!
Tình cảm Em với người
Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ
viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi
ký sau này, để một số bạn ở xa
quê hương hiểu kĩ về thơ tôi
hơn, tránh được những điều
bình luận sai lạc. Trong tập Về Kinh Bắc
thì hai nhân vật Chị và Em ấy
đã xuyên qua năm tháng và không
gian, qua gió mưa và nắng đẹp, qua biết
bao biểu hiện của tâm tư, của số phận,
mà trội lên vẫn là cái sầu
đơn phương, cứ vương vấn mãi,
cho tôi nhớ mãi một kiếp này, biết
đâu còn xót xa yêu thương vào tận
kiếp sau ... Kiếp sau nữa. Vậy thì chỉ mới
sau vụ Nhân Văn-Giai Phẩm có một thời
gian ngắn, thơ tôi đã lùi về
quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ,
ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều
là qua
48 bài tôi không một phút nào nghĩ
đến thời cuộc chính trị và xã
hội trước mắt. Tôi chìm về một
quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh,
là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi
đâu đây, cứ chập chờn
năm tháng và bảng lảng trời mây,
xanh mơ mong manh mầu kỷ niệm pha chút tím
của tiếc hận, chút hồng của tuổi
thơ, chút biêng biếc thắm của say mê,
não nùng, của thương cảm không
có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy
con mắt của thời gian không hề suy suyển
đến một sợi mi cong ... Như gần
đây tôi đã phải thốt ra: “Mắt thời gian càng
miên man xanh ..”
Rồi Chị Em đi Về Kinh Bắc,
lúc thì đố lá Diêu Bông, lúc
vào Vườn ổi, lúc Ðánh tam cúc,
lúc lên Ngọn Sông Thương, lên
tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Ðếm sao, Ðếm
nắng, Ðếm giờ, Em cứ Theo Ðuổi Chị
qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ
của cảnh vật và lòng người, cho
đến mùa rét năm 1934. Cái Lá
Diêu Bông bắt nguồn từ buổi chiều
năm ấy, hình như vào dịp nghỉ lễ
Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm
ngày liền tôi về nhà, nghĩa là cứ
nghỉ học là tôi về ngay nhà với niềm
say mê đơn phương, một chuyện tình
có Chị, có Em mà tôi vẫn chỉ
là một khối cô đơn lẽo đẽo
bụi hồng. Tôi đã 12 tuổi và chị
Vinh đã 20. Và chiều mùa đông ấy,
nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn
sương cực mỏng không một gợn mây.
Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiểu
Ðình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà
đã cũ, có mảnh vá trên vai,
ngoài bó chẽn lưng ong bằng cái
gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm mầu
cánh sen nhạt, dây thắt lưng hoa đào,
chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng,
ngày ấy lúa đã gặt hết. Cả
cánh đồng rộng đầu cái phố ga
xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ
tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu
bé em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng
trông ngóng, ngó nhìn, chờ Chị, thấy
Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng
khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi
xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi
thấy Chị bước nhanh ra cánh đồng,
đương nhiên là cậu em theo ngay, và bất
kì đi theo Chị ở đâu, đến
đâu cũng chỉ cách sau lưng Chị
có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng,
cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc
từng đám cây hoang dại trên mấy
cái gò nhỏ giữa đồng và cắm
cúi tìm ... Tìm ... Em chả biết Chị
tìm gì vậy. Em cứ theo sau, không hỏi,
không nói, trống ngực cứ thì thùng
từng phút giây theo đuổi, miệt mài
lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng chị đứng
thẳng người quay mặt nhìn Em, rồi
nói, như một lời trách, như một lời
quở mắng, lại như một lời mình
nói với chính mình ( gần 60 năm rồi
hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời
trong bộ não đã hơi suy, trong tấm
lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi): “Ơ hay! Sao mày cứ
theo tao lẵng nhẵng mãi thế thế nhỉ?”
Máu Em dồn lên nóng ran khắp người,
hẳn là cậu Em đang đỏ mặt, môi
Em run run không nói lại với Chị được
nửa lời. Hình như Em thoáng thấy Chị
mỉm cười, rồi Chị lại bước qua bờ
ruộng khác, vẫn tìm, tìm mãi. Nắng
đã sẫm dần. Mãi sau, Em mới bạo dạn
hỏi:
- Chị Vinh ơi! Chị tìm
cái gì thế?
Chị Vinh quay phắt lại,
hình như má Chị hồng hơn lúc nẫy.
Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt
Em và hơn 60 năm rồi tôi vẫn còn nhớ
cái miệng như vẽ rất tươi của Chị
đậm nét một nụ cười trêu cợt
rất kiêu sa. Chị nói, cũng một giọng
bỡn cợt như thách đố, như
đùa vui trên ghẹo:
— Ừ, chị (các bạn
chú ý giùm tôi cách thay đổi chủ
từ trong câu nói của Chị) Chị đi
tìm cái lá ... ấy đấy, đứa
nào tìm được cái lá ... ấy
(Chị càng cười càng tỏ vẻ trêu
cợt) ta gọi là chồng!
Các bạn ơi, nghe vậy,
tim tôi như lặng đi, ngừng lại vài
giây rồi đập rất mạnh, người
tôi nóng ran lên trong lúc xế chiều
càng lạnh. Lúc đó, Chị nói
tên một cái lá có lẽ có thật,
chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng,
thôi thì hôm nay tôi cứ gọi cho nó
có tên như chị đã gọi tên,
Lá Thanh Thảo hay Ðài Bi chẳng hạn hoặc
gọi “lá tai voi”, “lá mắt
nai” gì đó, xin thú thật với
các bạn là ít lâu sau buổi chiều
mùa rét ấy, tôi không nhớ nữa.
Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng
toàn thân ấm áp vào tận đáy
thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi
cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy
rất hiếm, ở những vùng nào nhiều
đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm
được, mà tìm lá ấy chắc
là để chữa khỏi một cái bệnh
gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại
lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy
nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ
tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn
là khó tìm lắm lắm, chả thế
mà Chị đi hết bờ này, bãi nọ,
gần cả một buổi chiều, có thấy
được đâu! Cái lá oái oăm
thế! Chị mới trêu đùa thằng bé
mà Chị biết là nó đang say mê
mình, nó “phải lòng” mình từ
năm năm nay rồi ... còn gì! “Ðứa nào tìm được ... ta
gọi là chồng!” Chị Vinh ơi, bây
giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống,
chị cũng đã gần tám mươi đấy
chứ, sao hôm nay Em đã ngoài bẩy
mươi, lúc Em viết những trang nhớ lại
này, Em hoàn toàn vẫn là đứa Em 12
tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi
hai mươi, ngoài cánh đồng làng
Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu
kỳ, Chị ơi! (...)
Trở lại mùa rét
năm 1959, nghĩa là đúng một phần
tư thế kỷ đã qua, sau cái chiều
mùa đông có Chị có Em trên
cánh đồng quê. Chị tìm lá rồi
... Chị đố lá ...”Ðứa
nào tìm được ... ta gọi là chồng
..” Và bài thơ duy nhất trong đời
làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ
cao đọc từ đầu đến cuối cho
tôi chép như viết chính tả. Còn một
số bài khác như Cây Tam Cúc, Qua Vườn
Ổi, Cỏ Bồng Thi, Bên Kia Sông Ðuống,
Chùa Hương, Về với ta. Những bài
thơ cũng được nhiều bạn đọc
ưa thích trong nhiều năm thì bao giờ cũng
ra đời trong đêm và vài ba câu đầu
bao giờ cũng không phải là của tôi
nghĩ ra, mà đúng thật là những lời
văng vẳng bên tai như có một giọng nữ
đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu,
có tiết tấu mà tôi cứ xin gọi
là lời của thần linh đọc cho mình
chép lại được. Nếu chợt nghe mà
lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng
để sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì
chỉ một vài phút sau muốn nhớ lại, không
tài nào nhớ nổi một chữ, đừng
nói là cả ba bốn dòng ... Trong đời
làm thơ của tôi, thời trai trẻ, tôi
đã mất khá nhiều những câu thơ
“xuất thần” bất chợt trong đêm
khuya, lúc chưa ngủ được nên từ hồi
đầu kháng chiến chống Pháp, tôi
đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ
(thường là gần nửa đêm), lên
giường ngủ, bao giờ tôi cũng để
phía tay trái mình một tập giấy trắng
và tay phải cầm sẵn cái bút chì học
sinh. Hễ không ngủ được, tâm tư
lan man đâu đâu, gì gì đó,
mà bỗng nghe vẳng một câu, dẫu chỉ
là một câu bâng quơ, tôi phải ghi
ngay lập tức. Lười một tí thôi
là mất đứt. Mà thường lại
là những câu thơ rất có sức gợi
cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt,
mà còn gợi cảm thì cảm xúc bật
trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm
xúc của mình. Y như đã có tia
nước phun lên thì phải tiếp tục
đào đất, chắc chắn sẽ có
cái giếng đầy nước. Lúc
đó thì cả ba loại thơ (Như các
nhà phê bình văn học Trung Quốc
đã đúc kết thành lý luận về
Thơ) là ngôn
thi, tâm thi và thần thi
đều có thể xuất hiện trên trang viết.
Và cùng lúc đó thì có ba
cái “thức” cùng phải hoạt động,
phải làm việc cho thơ. Ðó là ý thức, tiềm thức
và vô thức. Cũng đủ cả
một cặp: trí thức và tâm thức nữa.
Ở trong tôi thì luôn luôn cái tâm thức
làm việc nhiều hơn trí thức, nhất
là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi
đã huy động tất cả các lực
lượng của mình. Cả thể lực,
trí lực, tâm lực và đương
nhiên ở tôi, thần
lực thường tự động làm bật
ra rất nhiều những lời thơ, lắm khi tưởng
như vô nghĩa, mà ngay chính bản thân
tôi cũng không hiểu những từ ngữ
mình viết ra mang ý nghĩa cụ thể
gì. Ai hỏi tôi Lá Diêu-bông, Cỏ Bồng-thi
là lá gì, cỏ gì, ở đâu ?
Tôi chịu không giải thích được.
Ngay cả nhiều sinh viên khoa Văn ở Hà Nội
cũng đã hỏi tôi: “Miếu Hai
Cô” là ở đâu ? Hai cô nào ? Tại
sao lại thờ? Hoặc Cầu Bà Sấm là
trên con sông nào, Bến Cô Mưa là ở
khúc nào của con sông nào, tôi cũng
chịu không có lời giải đáp.
Tôi nghĩ rằng trong lĩnh
vực thơ ca, những khúc hát hay, những
bài thơ, những câu thơ hay thường rất
khó giảng được hết cái hay của
nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của
từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc
điệu, mà theo tôi nhận xét, nhạc
điệu và âm ngữ trong một bài
thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn
của bài thơ đi để nhập, để
hòa với hồn người đọc. Và
người xưa cũng đã nói từ
lâu đến “Thi tại ngôn ngoại”.
Thơ đã có ý là dễ hiểu.
Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ
ở đâu ra? Từ chữ, từ âm vận, rồi
âm điệu. Cái tứ của thơ phải
đọc được ở ngoài lời. Có
nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất
khó giảng, khó bình, mà người đọc dẫu yêu
thích bài thơ đến mấy, cũng chỉ
cảm thấy mà thôi.
Tôi chỉ hy vọng, rất
chân thành, được gặp những tâm hồn bầu
bạn, có độ lượng để bao dung,
có tấm lòng nhân ái để thông
cảm, có trí thức đủ để hiểu
thấu đáo tác phẩm và
tác giả, hiểu cả điểm mạnh và
điểm yếu của một người suốt một
đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm
mục đích, làm lẽ sống, chứ
không bao giờ lấy Thơ làm phương tiện
để cho mình đạt tới những gì
gì đó, ví dụ như danh và lợi,
sự bon chen, sự cầu cạnh, sự thù hận
vv... là những cái rất xa lạ với
tôi, có lẽ xa lạ cả Thơ đích thực
nữa.
Tôi đã trở về với
tâm tư riêng, thế giới riêng của
mình như đã nói ở trên, về với
quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xưa
mà vẫn gần gũi, về với những người
đã khuất bóng ở nhân gian nhưng
mãi mãi hiện diện trongtâm hồn tôi.
Và tập Về Kinh Bắc đã ra đời
như thế, để làm cột xương sống
cho toàn bộ thi phẩm của tôi kề từ
những năm 40 của thế kỷ này.
Hà Nội những ngày cuối
năm Nhâm Thân 1992
Hoàng Cầm.
***
Như vậy là có một
người chị thật trong đời Hoàng Cầm,
Thi sĩ cho ta biết người chị ấy có
nhan sắc tuyệt đẹp, và thi sĩ yêu
người chị ấy ngay năm ông mới
tám tuổi đời. Và chuyện chị đi
tìm đồng chiều cuống rạ, chị hứa:
“Ðứa nào
tìm được lá diêu bông .. chị gọi
là chồng ..” là chuyện có thật.
Chuyện xẩy ra năm 1934, khi thi sĩ mới 12 tuổi,
những hình ảnh nằm mãi trong ký ức
thi sĩ, 25 năm sau - năm 1959 - những hình ảnh
ấy, những tình ý ấy, những tâm
tư ấy mới chuyển thành bài thơ
Lá Diêu Bông.
Tôi biết Thơ Hoàng Cầm
năm 1946, khi tôi mới mười ba, mười bốn
tuổi. Nhờ ông anh tôi thích Thơ, sưu tập
Thơ, thấy ai có Thơ là mượn về
chép lại, chữ anh tôi thật đẹp,
tôi được đọc nhiều Thơ, trong số
có Kịch Kiều Loan, tức Người Ðiên
của Hoàng Cầm. Như nhiều người
cùng tuổi mấy câu trong Kiều Loan vào tim
tôi năm tôi mười mấy tuổi, theo
tôi đi kháng chiến, theo tôi trở về
Hà Nội, theo tôi vào Nam, theo tôi sống
những ngày thật đẹp ở Sàigòn,
theo tôi vào nhà tù xã hội chủ
nghĩa, theo tôi sang Mỹ, ở với tôi đến
tận bây giờ:
Tôi
nhớ chàng, đôi mắt trong như ngọc.
Ðã chìm sâu bùn lạnh đất Kinh
Ðô. Ðộ ấy mùa xuân ghen mái
tóc. Chồng tôi say đổ nắng trai tơ.
Mái tranh nghiêng rót tình phong nhụy. Hoa
khép hương vàng, gọi chẳng thưa.
Tôi được sinh ra để
viết tiểu thuyết, để ca tụng Tình
Yêu, và để phóng tác. Sáu
câu thơ Kiều Loan khi vào trái tim tôi trở
thành:
Tôi nhớ Nàng, đôi mắt trong như ngọc
Không mờ phai sương khói những thu xưa
Ðộ ấy mùa xuân ghen
mái tóc
Tôi về say đổ nắng
trai tơ
Mái tranh nghiêng rót tình phong nhụy
Hoa khép sầu miên, gọi chẳng thưa.
Năm 1950, sau bốn năm đi
kháng chiến ở vùng quê hương Kinh Bắc,
trở về Hà Nội tôi được đọc
Kịch Cô Gái Nước Tần của Hoàng
Cầm trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy
bộ mới. Kịch
Thơ một màn: cuộc tình Quận Chúa Tần
Huyền Cơ - Ðại Tướng Quân Tần Vũ.
Chuyện xẩy ra ở nước Tần thời
Ðông Chu Liệt Quốc. Kịch một màn, chỉ
có ba vai: Tần Vũ, Ðại Tướng
Nguyên Soái quân Tần, Tần Huyền Cơ,
Quận Chúa, Thái Bá, thầy học và
quân sư của Tần Vũ. Cốt truyện ngắn
thôi: Ngày xưa quân Sở vào Vân
Các. Màn mở: Tướng Quân Tần Vũ,
trẻ tuổi, đẹp trai, uy vũ, ngồi một
mình, buồn nhớ người yêu. Quân Sở
vừa kéo vào kinh đô Tần quốc - Thời
Ðông Chu chỉ có quân Tần tiến
vào kinh đô lục quốc, không một lần
quân nước nào vào được kinh
đô Tần, mãi đến đời Hán
Lưu Bang nước Tầu mới có Vân
Các - Tần Vũ vừa chỉ huy quân Tần
đánh đuổi quân Sở ra khỏi kinh
đô. Thái Bá vào, báo cho Tần Vũ
biết quân Tần bắt
được Quận Chúa Tần Huyền Cơ,
người đẹp này can tội “phản quốc,
làm gián điệp cho quân Sở!”
Nàng là người yêu của Tần Vũ.
Thái Bá sợ Tần Vũ vì yêu Huyền
Cơ mà tha tội cho nàng nên nói mấy
lời khuyên Tần Vũ phải bỏ tình
riêng để làm việc công: “ Mà
Công tử thì hãy còn trẻ tuổi.
Lão chỉ e rồi bể tình đắm đuối”,
Huyền Cơ được đưa vào gặp Tần
Vũ, cuối cùng Tần Vũ cũng ra lệnh giết
Huyền Cơ. Chỉ được đọc vở kịch
có một lần tôi còn nhớ lõm
bõm mấy câu:
Ngày
xưa quân Sở vào Vân Các
Em rạt
về đâu, mấy nhớ thương ..!
...
Nhưng
người yêu xông pha trên chiến địa
Có
bao giờ nhớ tới Huyền Cơ đâu!
Dây
oan khiên giờ đã thắt ngang đầu
Người
bạc mệnh có bao giờ hối hận ...
Thời gian vỗ cánh bay
như quạ .. Những ngày như lá, tháng
như mây ... Một tối tháng Sáu, hay
tháng Bẩy, tháng Tám năm 1975 tôi gặp
Lưu Kiếm trên vỉa hè trước chợ
Tân Ðịnh - Lưu Kiếm đã qua đời
ở Sàigòn năm 1985 - anh nói:
- Tao gặp mấy thằng văn
nghệ ở Hà Nội vào. Chúng nó
đọc mấy bài thơ của Hoàng Cầm
cho tao nghe.
Lưu Kiếm không nhớ lời
thơ, anh chỉ nhớ ý thơ, anh kể lại hai
bài thơ Lá Diêu Bông và Qua Vườn
Ổi của Hoàng Cầm. Ðây là lần thứ
nhất tôi nghe nói đến Lá Diêu Bông
và Qua Vườn Ổi. Chỉ mới được
nghe ý thơ thôi, cảm giác lạ kỳ
đến với tôi, hai đầu gối tôi bỗng
dưng nhũn ra, tôi muốn ngồi sụp xuống vỉa
hè. Như người hết hơi tôi thều
thào nói:
- Thơ như thế mới
là thơ.
Lá
Diêu Bông
Váy
Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Chị
thẩn thơ đi tìm
Ðồng
chiều
Cuống
rạ.
Chị
bảo
- Ðứa
nào tìm được lá Diêu Bông
Từ
nay ta gọi là chồng.
Hai
ngày sau Em tìm thấy lá
Chị
chau mày:
-
Ðâu phải lá Diêu Bông
Mùa
đông sau Em tìm thấy lá
Chị
lắc đầu
Trông
nắng vãn bên sông
Ngày
cưới chị
Em tìm
thấy lá
Chị
cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị
ba con
Em
tìm thấy lá
Xòe
tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ
thưở ấy
Em cầm
chiếc lá
Ði
đầu non, cuối bể
Gió
quê vi vút gọi
Diêu
Bông hời ..!
Ới
Diêu Bông
( 1959)
Tối xưa ấy - buổi tối
25 năm xưa - trên vỉa hè Tân Ðịnh,
chỉ nghe Lưu Kiếm kể ý thơ thôi,
tôi nghĩ ngay đến chuyện người chị
trong thơ là Ðảng, người em trong thơ
là người văn nghệ sĩ. Ðảng muốn
người văn nghệ sĩ cung cấp những
tác phẩm tốt, người văn nghệ sĩ
đáp ứng lời kêu gọi của Ðảng,
rất muốn làm đẹp lòng Ðảng,
nhưng tác phẩm nào của anh cũng bị
Ðảng chê là không đúng với
cái Ðảng muốn. Khi người văn nghệ
sĩ sáng tác được tác phẩm
đúng, Ðảng vẫn không dùng vì thời
điểm để cho tác phẩm đó ra
đời đã qua rồi. Người văn nghệ
sĩ thất vọng đi vào lòng dân tộc,
nghe tiếng gió quê vi vút gọi tên
tác phẩm của mình.
Và
đây là bài “Qua
vườn ổi”
Em
mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu
bà Sấm, bến cô Mưa
Ði
...
ngày
tháng lụi
tìm
không thấy
Giải
yếm lòng trai mải phất cờ
Cách
nhau ba bước vào vườn ổi
Chị
xoạc cành ngang
Em gốc
cây
- Xin
chị một quả chín!
- Quả
chín ..
quá
tầm tay
- Xin
chị một quả ương
- Quả
ương
chim
khoét thủng
Lẽo
đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi
nhặt chiều mưa dăm quả rụng.
Cũng trong buổi tối 25 năm
xưa ấy, trên vỉa hè Tân Ðịnh, khi
nghe bạn kể sơ sơ ý thơ Qua Vườn Ổi,
tôi nghĩ ngay đến chuyện người chị
trong thơ là Ðảng, người em trong thơ
là người văn nghệ sĩ. Người
văn nghệ sĩ trong chế độ xã hội
chủ nghĩa xin Ðảng cho mình được
hưởng vài lạc thú. Trong thơ trái ổi
tượng trưng cho lạc thú. Trái ổi
ương bị chim khoét thủng là những lạc
thú tiểu tư sản. Ðảng thấy người
văn nghệ sĩ không nên hưởng những
thú vui đã ô nhiễm ấy, quả
chín là những thú vui cộng sản
nhưng ở trên cao ngoài tầm tay với của
Ðảng, chưa đến thời kỳ Ðảng
có thể cung cấp những lạc thú cộng
sản ấy cho nhân dân. Thành ra nhân
dân trong chế độ XHCN suốt đời chẳng
được hưởng một lạc thú nào
cả.
Năm 1982, sau lần bị tù
hai năm lần thứ nhất trở về, một
sáng tôi đến ăn bánh cuốn ở tiệm
bà Mỹ Phụng gần cầu Công Lý.
Bà cho biết Thi sĩ Hoàng Cầm vào
Sàigòn mấy năm trước, có gặp
bà và viết tặng bà mấy bài
thơ. Nghe nói Thơ Hoàng Cầm, mắt tôi
có sáng lên hay không tôi không biết
vì tôi không nhìn thấy mắt tôi,
tôi chỉ biết là tim tôi rung động,
tôi nói bà cho tôi mượn xem mấy
bài thơ, được không ạ? Rất dễ
dàng bà đáp ứng tôi ngay. Hoàng Cầm
viết thơ lên tờ giấy bản khổ to, mầu
vàng, chữ mực Tầu đen, nét chữ
đẹp, hào hoa, bay bướm. Nhìn chữ
Hoàng Cầm, tôi nhớ chữ Ðinh Hùng.
Trong mấy bài thơ Hoàng Cầm viết tặng
bà Mỹ Phụng có bài Cây Tam Cúc,
tôi chưa có bài này. Tôi xin
bà Mỹ Phụng cho
tôi chép bài thơ ngay tại chỗ, bà bằng
lòng.
Cây
Tam Cúc
Cỗ
bài tam cúc mép cong cong
Rút
trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị
gọi đôi cây!
Trầu
cay má đỏ
Kết
xe hồng đưa Chị đến quê Em
Nghé
cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng
lớn nữa Chị đừng đi
Tướng
sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ
rơm thơm đọng tuổi đương thì
Ðứa
được
chinh
truyền xủng xoẻng
Ðứa
thua
Ðáo
gỡ ngoài thềm
Em
đi đêm tướng điều, sĩ đỏ
Ðổi
xe hồng đưa Chị đến quê Em
Năm
sau giặc giã
Quan
Ðốc đồng áo đen, nẹp đỏ
Thả
tịnh vàng cưới Chị
võng
mây trôi
Em
đứng nhìn theo, Em gọi đôi.
Không biết tại sao vừa
đọc bài Cây Tam Cúc tôi nghĩ ngay
đến chuyện tác giả muốn nói đến
thân phận người văn nghệ sĩ trong chế
độ XHCN - có thể nói trong mọi chế
độ, trong tất cả các thời, ở tất
cả các nước sau chiến tranh. Quan Ðốc
đồng Tam Cúc là kẻ có súng, kẻ
có súng nói chiến thắng là do
công của tao, tao có công tao chiếm hết,
chúng mày không được hưởng
cái gì cả.
Năm 1982, 1983 tôi viết một
số bài văn-chính luận gửi ra nước
ngoài, trong số có hai bài “Hiện tượng
Hoàng Cầm” và “Hiện tượng
Dương Quỳnh Hoa”. Trong bài viết về
Thơ Hoàng Cầm, tôi suy diễn ba bài
thơ Lá Diêu Bông, Qua Vườn Ổi,
Cây Tam Cúc theo cảm nghĩ của tôi, những
cảm nghĩ tôi vừa trình bày. Năm 1983
tôi nghe nói Hoàng Cầm bị bắt ở
Hà Nội, tháng 4, 1984 tôi nghe Ðài
Phát Thanh Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh trong một
bài bình luận, nói đến Hoàng Cầm,
Nguyễn chí Thiện và tôi là những
văn nghệ sĩ có thơ văn chống Cộng.
Tháng 5, 1984 tôi bị bắt lần thứ hai.
Năm 1988 tôi ra tòa án Thành phố Hồ
chí Minh, trong cáo trạng về tôi Tòa VC
có nói đến hai bài “Hiện tượng
Hoàng Cầm, Hiện tượng Dương Quỳnh
Hoa”.
Năm 1992 tôi nghe kể anh
công an thẩm vấn Hoàng Cầm, nói:
- Thơ anh mấy bài Lá
Diêu Bông, Qua Vườn Ổi .. có thằng
nó suy diễn như thế này, nó viết
bài nó đăng ở nước ngoài, anh
nghĩ sao ?
Hoàng Cầm trả lời:
- Nếu thơ tôi làm cho
có người nghĩ như thế thì tôi
có tội.
Chuyện trên đây tôi
nghe một anh bạn tôi ở Hà Nội kể lại,
tôi không đoan chắc là chuyện có thật.
Mời bạn đọc lại mấy
câu tâm sự của Hoàng Cầm:
... Vậy thì chỉ mới sau
vụ Nhân Văn-Giai Phẩm một thời gian ngắn,
thơ tôi đã lùi về quá khứ, chẳng
biết có phải ẩn dụ, ẩn diếc
gì chăng, chỉ có điều là qua 48
bài tôi không một phút nào nghĩ
đến thời cuộc chính trị và xã
hội trước mắt. Tôi chìm về một
quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh
... (...)
...Tôi sẽ viết tỉ mỉ
hơn trong tập hồi ký sau này, để một
số bạn ở xa quê hương hiểu kĩ về
thơ tôi hơn, tránh được những
điều bình luận sai lạc.
Như vậy là những
bài thơ Lá Diêu Bông, Qua Vườn Ổi,
Cây Tam Cúc không có, không mang những
ý nghĩa như tôi tưởng, những ý
nghĩa đó là do tôi nghĩ ra khi đọc
thơ, không phải ý của tác giả. Tôi đã hiểu sai,
đã bình luận sai lạc vể những
bài thơ đó. Nếu những cảm nghĩ của tôi
có làm cho Thi sĩ gặp một vài khó
khăn, phiền toái, tôi trang trọng xin lỗi ông.
Tôi thấy từ ngữ Thi
Văn có sự huyền diệu là khi nó
đánh vào trái tim người thưởng
ngoạn, nó gây ra những hồi ứng khác
nhau tùy theo tâm trạng mỗi người.
Không phải ai đọc, cảm động, thấy
hay, những bài Lá Diêu Bông, Qua Vườn
Ổi .. đều có cảm nghĩ như tôi.
Tôi khiêm tốn hỏi Thi sĩ, và bạn
đọc, cảm nghĩ của tôi về những
bài thơ vừa kể nghe có được
không, có lý không? Hay tôi cố
tình xuyên tạc, trơ tráo gán cho lời
thơ những ý nghĩa mà nó không
có, tôi bình luận láo lếu, vô
lý? Nếu tôi đọc những bài thơ ấy
trước ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc chắn
tôi không có những cảm nghĩ như thế.
Sáng tác là quyền của thi sĩ tác
giả, nghĩ gì về tác phẩm, có những
ý nghĩ gì sau khi đọc tác phẩm
là quyền của người đọc.
Trong một thư gửi cho ông
bạn ở Hà Nội, viết vào lúc 5 giờ
sáng ngày 22/ 9/ 1976, Hoàng Cầm kể:
Trích “Hoàng Cầm
Văn Xuôi,” trg. 289:
... Hôm mới vào
Sàigòn gặp một anh bạn đưa ngay
đến nhà một thầy tử vi, thầy chỉ
cần hai phút là gọi hết các sao biến
hiện, xuất nhập của lá số tôi, thầy
nói (ông thầy mù hoàn toàn)
“Ngài là một người thông minh,
tài giỏi, nhưng cả cuộc đời chỉ
là hai chữ “dở dang.” Công danh, sự
nghiệp dở dang, gia đình, tình yêu dở
dang. Dở dang hết, không một cung nào trọn
vẹn, trừ cung Phúc Ðức, có những sao
đắc cách đã cứu Ngài.” Thầy
còn nói nhiều, (rất đúng) nhưng
tôi khoái câu mở đầu ấycủa thầy
lắm - Mà quả thế, ông Phấn ạ “Ðời
ông chỉ là hai chữ dở dang.”
Ngưng trích.
Khi đọc những bài
Lá Diêu Bông, Qua Vườn Ổi, Cây Tam
Cúc và có những ý nghĩ như
tôi đã kể, tôi vẫn mong, vẫn định
ngày nào được gặp Thi sĩ tôi sẽ
hỏi ông có phải khi làm những bài
thơ đó ông có ý nói lên bằng
ẩn dụ những ý nghĩa như tôi nghĩ
không? Cho đến nay tôi chưa có duyên
được gặp Thi sĩ lần nào. Tôi mong
ông có dịp đọc những bài viết
này của tôi, tôi tin sẽ có ngày
tôi được gặp ông. Tôi đã viết
về ông, Thơ ông, từ hai mươi năm
xưa khi tôi ở Sàigòn, hôm nay xa
cách nhau một đại dương, tôi viết
về ông với lòng cảm mến và
thương xót. Tôi vừa đọc GHI của
Trần Dần, HỎA LÒ của Nguyễn Chí Thiện;
hình ảnh Thi sĩ Hoàng Cầm, một số việc
ông làm, được hai ông Trần Dần,
Nguyễn Chí Thiện kể làm tôi đau
lòng. Tôi sẽ viết về chuyện ấy trong
bài tới.
Ðể kết bài này,
tôi muốn nối thêm lời ông thầy
bói mù Sàigòn 1976 nói về cuộc
đời Thi sĩ Hoàng Cầm:
- Ðời ông có một
cung không dở dang, một cung trọn vẹn, thật
đẹp. Ðó là cung Thi Sĩ. Ông
được sinh ra để làm thơ, để
làm thi sĩ. Ông đã là thi sĩ rồi,
ông còn đòi hỏi gì thêm nữa ?
Ông còn cần gì nữa để phải
đòi hỏi ? Nếu đời ông có chuyện
gì để người đời đàm tiếu
thì số ông cũng giống như số cô
chị Lá Diêu Bông đồng chiều, cuống
rạ, môi trầu cắn chỉ, ổ rơm thơm
đọng của ông, cô Thúy Kiều: Rằng tài nên trọng mà tình nên thương!.
CÔNG
TỬ HÀ ĐÔNG
(NNS
sưu tầm, DP-CANADA chuyển)