HIỂU BIẾT KHOA HỌC MỚI NHẤT
VỀ TÂM
TĨNH LẶNG
(BÁC SĨ THÁI MINH TRUNG)
Kỳ
này, mời quí độc giả đọc một
bài viết rất hay của Bác sĩ Thái
Minh Trung, chuyên khoa Tâm Thần, và cũng
là một triết gia Phật giáo.
(Bác
sĩ Nguyễn Văn Đức)
Những nghiên
cứu gần đây cho thấy rằng mặc
dù con người sống trong xã hội tân
tiến nhưng càng về sau này sự thỏa
mãn trong cuộc sống giảm dần và mức
độ căng thẳng (stress) càng lên cao.
Tài chánh và thời gian rảnh rỗi
hình như không có đi đôi với
nhau. Muốn có tiền nhiều thì phải
làm việc nhiều. Hơn nữa xã hội
liên tục tạo ra những sản phẩm mới
để dụ dỗ người tiêu thụ. Đến
một mức độ nào đó, sự
chênh lệch giữa cái cần và cái muốn
càng ngày càng xa. Sự chênh lệch
đó tạo ra căng thẳng. Có lẽ vì
thế mà một thăm dò gần đây cho
thấy rằng số lượng người thỏa
mãn với nghề nghiệp của mình càng
ngày càng giảm. Ở lứa tuổi 35- 44, sự
thỏa mãn với nghề nghiệp tụt từ 61%
xuống 49%.
Nhìn về
phương diện đáp ứng cuộc sống,
ngay từ nhỏ, con người có thói quen bắt
chước. Bắt chước là một phản xạ
tự nhiên để bảo tồn sự sống
còn. Con khỉ con phải bắt chước khỉ mẹ
để tránh những nguy hiểm, loại bỏ những
thức ăn có độc tố trong đó,
và tập nhận ra những con thú dữ. Khi ta
nghe một tiếng nổ và thấy đám
đông chạy về một hướng nào
đó thì ta không cần suy nghĩ mà chạy
theo, ta không cần biết hướng đó
đúng hay sai. Dân gian qua sự quan sát nhiều
thế hệ có câu tục ngữ nói về
bắt chước là: gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng. Tuy nhiên, trong
hoàn cảnh xã hội tân tiến hiện
đại, xã hội rất loạn động
và khi ta (bắt chước) theo sự loạn động
đó thì tâm ta bị loạn động
theo. Loạn động tạo rất nhiều căng thẳng
tinh thần.
Hệ thống thần
kinh loài người khác với loài thú.
Ở loài người, vỏ não (cortex) phát
triển rất nhiều. Vỏ não giúp cho ta suy
nghĩ, phán xét và quyết định một
cách khôn ngoan (executive function). Tuy nhiên cái
tiêu cực của sự phát triển vỏ
não là sự lo âu. Sợ hãi khác lo
âu ở chỗ sợ hãi là một chuỗi
phản ứng sinh lý giúp cơ thể chiến
đấu hay bỏ chạy trước một hiểm
nguy. Khi hoàn cảnh nguy hiểm qua rồi thì
cơ thể dần dần trở lại sự bình
thường. Hơi thở chậm lại, nhịp tim chậm
lại và những bắp thịt thư giãn ra.
Khi vỏ não phát triển thì con người
bắt đầu biết suy nghĩ đến hoàn cảnh
sợ hãi trong lúc không có hiểm nguy. Hệ
thống thần kinh của chúng ta không phân biệt
được sự nguy hiểm do hoàn cảnh
và sự nguy hiểm do ta suy nghĩ. Khi ta suy nghĩ về
hoàn cảnh nguy hiểm thì tự nhiên tim ta sẽ
đập nhanh hơn, ta có cảm giác hồi hộp
như đang đối diện với sự nguy hiểm
thật sự vậy.
Suy nghĩ thường
dựng ra hai thái cực (splitting): không tốt
thì phải xấu. Suy nghĩ ít chịu dừng ở
chỗ có thể xấu và cũng có thể
tốt hay không tốt cũng không xấu. Khi chia
thái cực rồi thì não bộ ta mất khả
năng nhìn sự thật. Nói một cách
khác suy nghĩ tạo một ảo giác trong
não bộ mà não bộ cho rằng cái ảo
giác đó là sự thật. Nói một
cách cho dễ hiểu là thí dụ ta đi
trên con đường A và bị tai nạn
nơi đó. Ta tin rằng con đường
đó rất nguy hiểm và tìm đủ mọi
cách tránh con đường đó.
Đó là cái thực tế của suy nghĩ
lo âu chia ra thái cực xấu và tốt.
Như thế suy nghĩ có khuynh hướng thấy
phiến diện (reductionistic view) và khó có
được sự cảm nhận toàn diện.
Khi ta có suy nghĩ
đó rồi thì những mạch thần kinh
(neural circuits) liên kết con đường A với
nguy hiểm được củng cố. Khi đó
thì ta mất đi cái nhận thức rằng sự
nguy hiểm đó không phải lúc nào cũng
xảy ra. Ta quả quyết tin rằng con đường
đó thật sự nguy hiểm. Nếu có
người nào đi trên con đường
đó mà không có gì xảy ra, họ
nói với ta rằng con đường A không nguy
hiểm, ta sẽ không tin họ và cho rằng họ
là người nói láo hay có ý xấu
muốn ám hại ta, xúi ta đi trên con
đường nguy hiểm. Như thế do suy nghĩ gắn
liền con đường A với sự nguy hiểm, ta dần
dần mất đi khả năng nhận thức
cái thực tế con đường A không nguy hiểm
đối với người khác. Suy nghĩ có
thể ngụy tạo cái mà nó cho là
“thực tế”. Ở thí dụ trên, suy
nghĩ ngụy tạo cái “thực tế”
là người khuyên ta đi trở lại con
đường A có ý xấu muốn ám hại
ta. Nói tóm lại, ta
chỉ thấy những
gì ta muốn thấy và cho rằng
đó là sự thật. Đa số mọi người
không nhận thức được điều
này vì thế mới xảy ra mâu thuẫn
và chiến tranh.
Những nghiên
cứu thần kinh học và phân tâm học
cho ta thấy rằng chức năng của vỏ não
bộ (cortex) càng phát triển thì căng thẳng
xảy ra càng nhiều. Căng thẳng xảy ra do sự
xung đột của cái “thực tế” vỏ
não bộ cảm nhận và cái “thực
tế” thứ nhì của hệ thống limbic.
Đây là vùng não bộ liên quan đến
bản năng và tình cảm. Khi suy nghĩ
càng nhiều thì sự liên kết đối
thoại giữa hai vùng não bộ này
càng khó khăn. Hiện tượng này
phân tâm học gọi là cơ chế
kháng cự (defense mechanism). Thí dụ như biện
hộ hay đổ thừa là một trong những
cơ chế kháng cự. Khi ta biện hộ hay đổ
thừa thì ta mất khả năng thấy được
cái hiện trạng của tình cảm ta. Như
thế trong não bộ ta không có sự
liên kết giữa hai vùng vỏ não (lý
trí) và vùng limbic (tình cảm). Hai
vùng não này của ta hoạt động song
song và tạo dựng hai “thực tế”
riêng rẽ.
Một thí dụ
cho dễ hiểu, ông B là người dễ giận
sau khi bị tai nạn xe cộ nhưng ông ta không
nhìn nhận cơn phẫn nộ của mình.
Ông ta hay suy nghĩ (chức năng của vỏ
não) để tìm những điểm xấu của
những người lái xe cẩu thả làm
ông ta giận. Ông ta lập bè đảng
và cho rằng những người làm nghịch
ý ông là “kẻ thù” vì họ
có nhiều hành vi và suy nghĩ không
đúng. Đó là cái “thực tế”
do võ não suy nghĩ vẽ ra. Vì thế khi
lòng sân càng cao thì cái ảo tưởng
(delusion) “đe dọa” của “kẻ
thù” càng mạnh. Cái ảo tưởng
“đe dọa” này nuôi dưỡng lại
(feedback) lòng sân hận. Đó là cái
vòng lẩn quẩn (vicious cycle) thật khó
mà thoát ra. Càng suy nghĩ nhiều thì
ông B lại càng tự khóa mình trong ảo
tưởng của giận và hận thù.
Càng suy nghĩ nhiều thì ông ta càng mất
đi cái khả năng nhận ra sự thật
khách quan. Ông ta quả quyết rằng cái cảm
nhận chủ quan là sự thật. Cũng như
người bị cận thị chưa có mang kiến
cận thì quả quyết tin rằng cái thế
giới mờ mờ là sự thật.
Vì không
có sự liên kết hài hòa giữa hai
vùng não kể trên nên hệ thống thần
kinh ta bị mất rất nhiều năng lượng.
Có thể ví như ta ngồi trên xe ngựa
có hai con ngựa kéo, mỗi con đi một
hướng khác nhau. Sức hai con ngựa kéo
thì nhiều nhưng xe ngựa thì không đi
đâu xa được. Đó là trạng
thái của lo âu. Khi để những suy nghĩ
lo âu làm chủ tâm hồn ta thì lúc
đó ta không phải có hai con ngựa mà
hàng trăm, hàng ngàn con kéo ta đi
vô số chiều hướng khác nhau. Quý
độc giả chắc ai cũng có, không
ít thì nhiều, cái kinh nghiệm của lo
âu làm ta căng thẳng, mất ngủ, mệt mỏi
và hậu quả của lo âu làm ta mất sự
chú tâm (concentration) và làm công việc
ta mất hiệu quả rất nhiều. Trong lúc lo
âu, ta có thể đọc một trang sách,
đọc tới đọc lui hoài mà không
hiểu bao nhiêu. Nếu ta đang lo âu mà
lái xe thì dễ vượt đèn đỏ
hay đi lạc đường. Điều này muốn
nói lên rằng trong lúc suy nghĩ lo âu, hệ
thống thần kinh ta mất sự liên kết
hài hòa, phải dùng năng lượng rất
nhiều (ta có cảm giác mệt mỏi) mà
hiệu quả (sự chú tâm) thì rất thấp.
Để tâm tĩnh
lặng là một cách phối
hợp vùng vỏ não và vùng limbic
giúp cho hai vùng này làm việc chung với
nhau một cách hài hòa (synchronization). Khi
hai vùng này bị phân cách thì con
người dễ sống ở thái cực hoặc
là thích suy nghĩ trừu tượng (extreme
rational) hay là thích những phép lạ mầu
nhiệm (extreme irrational). Sản phẩm của sự
phân cách này trên phương diện
tôn giáo là cá nhân áp dụng những
giáo điều một cách cứng rắn hay tự
bắt buộc mình phải có lòng tin tuyệt
đối, dễ đưa đến cuồng tín.
Những phản ứng này sẽ tạo ra nhiều
căng thẳng hơn vì nó dùng năng
lượng thần kinh một cách không hiệu
quả, dẫn đến sự rối rắm (confusion).
Khi để tâm tĩnh lặng thì vùng vỏ
não và vùng limbic sẽ liên kết với
nhau dễ dàng hơn và lúc đó
cái cảm nhận sự thật sẽ hiện ra
khác. Cái cảm nhận thực tại được
các giáo chủ tôn giáo gọi là
chân lý, có nghĩa là sự thật
lúc nào cũng đúng.
Tại sao để
tâm tĩnh lặng thì giúp hai vùng não
bộ hòa hợp với nhau? Khi suy nghĩ nhiều ta
vẽ ra những cái mà ta cho là thực tế.
Con người có vô số suy nghĩ khác nhau
vì vậy mà có vô số thực tế
khác nhau. Kiến thức - sản phẩm của vỏ
não - là một khu rừng rậm với vô số
loài thảo mộc khác nhau. Càng đi
sâu vào đó thì tâm ta càng dễ
loạn động, thật khó mà phân biệt
kiến thức nào là đúng hay sai.
Càng suy nghĩ nhiều để hiểu thì ta
càng bị rối trí, như đi lạc
vào rừng mà không có địa bàn
chỉ hướng đi. Rồi có một số
người mong tìm được sự vững chắc,
bám vào (cố chấp) một triết lý hay
trường phái suy nghĩ hay tôn giáo
nào đó và đả phá những
người suy nghĩ khác mình. Khi tham được
đúng, sân khi bị người khác
không chấp nhận mình thì hệ thống
limbic (tình cảm) bị khơi động. Khi hận
thù kết hợp với những mê lầm của
suy nghĩ biện hộ thì con người càng bị
lún sâu vào cái thế giới ảo
tưởng (delusion) của tự kỷ ám thị
(self fulfilling prophecy). Danh từ Phật giáo gọi
là vô minh (mất ánh sáng tỉnh thức).
Những kiến
thức là hình bóng của sự thật
đã qua. Thí dụ: “Con đường A thật
nguy hiểm.” Kiến thức và sự thật chỉ
đúng (có nghĩa là hòa hợp/synchronize)
ở một thời điểm nào đó.
Nhưng nếu ta giữ cái hình bóng suy nghĩ
quá khứ đó và phóng vào hiện
tại và tương lai thì sự hòa hợp
sẽ bị mất đi và kiến thức lúc
này sẽ trở thành ảo tưởng
(delusion). Khi ta lập đi lập lại cái ảo
tưởng lo âu trong tâm, ta củng cố những
mạch thần kinh liên quan đến sự sợ
hãi trong quá khứ và mất đi khả
năng tạo những mạch thần kinh hòa hợp
với hiện tại. Lúc bấy giờ ta khởi
động nỗi lo sợ ở hệ thống limbic
và nó lan tràn rồi lấn áp cái thực
tại. Ta có thể nằm trong phòng với bốn
bức tường thật an toàn nhưng lăn lộn
ngủ không được vì những suy nghĩ
lo âu đem những cảnh tượng kinh hãi của
quá khứ vào phòng ngủ của ta. Stress xảy
ra khi tâm và thân mất sự hòa hợp với
hoàn cảnh hiện tại (căn phòng ngủ ấm
cúng). Những căn bịnh tâm thần có thể
xảy ra khi ta không làm chủ được
dòng suy nghĩ lo âu.
Khi để
tâm tĩnh lặng ta không khơi động những
suy nghĩ lo âu. Ta nhìn ra cái giá trị thật
của chúng là ảo tưởng. Vì thế
suy nghĩ hiện ra rồi biến mất. Lúc
đó là lúc ta từ chối không cho
tư tưởng của quá khứ liên kết với
những mạch thần kinh của sợ hãi. Hệ
thống limbic không bị khởi động, ta cảm
thấy những bắp thịt thư giãn. Ta
không lo âu nên sự chú tâm nhận ra hiện
thực càng ngày càng mạnh (trí tuệ).
Hệ thống vỏ não không tạo ra những ảo
tưởng hay thành kiến nữa nên có thể
lắng nghe (hay điều hòa) với hệ thống
limbic. Sự điều hòa càng nhiều thì
năng lượng thần kinh được dùng
càng ít đi. Một sự nhẹ nhàng thật
khó tả trải rộng ra trong tâm hồn.
Đó là cảm giác khi ta tập tâm tĩnh
lặng. Khi đi sâu vào tâm tĩnh lặng,
khi hòa hợp nhiều hơn với hệ thống
limbic (thế giới của tình cảm và giấc
mơ) thì ta sẽ có cảm nhận hòa hợp
với nhân loại và vũ trụ. Lúc
đó ta mới thấu hiểu được
cái nghịch lý của: “trong một có tất
cả”. Tâm tĩnh lặng có thể nói
là chìa khóa mở cửa vào thế giới
của sự hài hòa, vui vẻ và hạnh
phúc vững bền.
BS THÁI MINH TRUNG
(BS Nguyễn Văn Đức giới thiệu,
Nguyên Khai sưu tầm và chuyển)