Đêm
nghe đọc truyện
(Hà Thúc Sinh)
Thế hệ những
người Việt Nam ngày nay ở tuổi 60, 60+ thủa
thiếu thời không có nhiều trò chơi
giải trí, đặc biệt với những người
sinh ra ở vùng sớm “được giải
phóng” như liên khu tư chẳng hạn. Tất
cả những trò chơi gần như đám trẻ
đều tự chế lấy với nhau mà chơi.
Năm sáu tuổi mà được mẹ mua cho
vài con giống nặn bằng bột chua lòm
được sơn phẩm xanh đỏ đã
là thích lắm. Con cù, con khăng, cánh diều
… gần như là những thú chơi quen thuộc
của tuổi lên bảy lên tám. Lâu
lâu có “ông xi-nê hộp” ghé
vào một góc phố, trả hào bạc
và được ép hai con mắt vào
cái lỗ nhòm để coi những mẩu phim
không đầu không đuôi do bác “chủ
rạp” quay bằng tay thì thật là sướng
cả ngày. Thời ấy cũng là thờ i…
quốc cấm. Cái gì cũng quốc cấm.
Sáng chủ nhật đi lễ, đám cán bộ
VM đứng canh ngay đầu ngõ nhà thờ,
thoảng tóc cô nào thơm thơm, họ nghi
có tí nước hoa, họ lôi đến hạch
sách. Và, “ngoan cố hả, chống đối
hả?” Thế là có màn bắt gội
đầu bằng nước vo gạo cho biết
cái thân! Phấn son kiểu tạch tạch
sè (tiểu tư sản) đều là thứ quốc
cấm mà lại. Nói gì sách báo.
Có sách báo trong nhà mang họa như
chơi. Cán bộ VM thì i tờ, thành ra
cái gì họ cũng nghi. Vô phúc họ thấy
trong nhà mình có nhiều sách báo, họ
nghi và họ khám, rồi họ diễn dịch
theo sự … thông thái cách mạng của
họ thì đi Ðầm Ðùn, đi Lý
Bá Sơ chẳng khó chút nào. Vì
lý do đó, các bậc cha anh ớn việc
lưu giữ sách báo trong nhà như ớn
lưỡi kiếm Damocles. Thế nên dẹp được
là dẹp. Vì vậy, trẻ em thời
đó lên tám, lên chín nhiều đứa
chưa từng được cầm một quyển
sách truyện trên tay, dù là truyện Tấm
Cám, truyện Phạm Công Cúc Hoa …
Cái thú của tuổi trẻ sớm “mê
văn chương” chỉ được thoả
mãn bằng cách được mẹ hay chị
đêm đêm khẽ kể cho nghe. Mà đứa
nào không có chị lại mồ côi mẹ
sớm là kể như bù. Gia đình
nào may mắn sớm thoát ra được khỏi
vùng giải phóng, rồi lên Hà Nội chẳng
hạn, tuổi trẻ mới bắt đầu biết
tí trò chơi chế bằng nhựa, bằng kim
loại, biết xi nê, và biết cái thú
đọc sách hay nghe đọc truyện qua radio.
Vâng, có lẽ nghe radio thời thập niên 50
là cái thú lạ thường của tuổi
thơ, đặc biệt tuổi thơ chạy từ những
vùng đồng chua nước mặn, hay ở những
tỉnh nhỏ và ra tới được thủ
đô. Radio như tiếng con người với đủ
hỉ nộ ái ố hết sức lôi cuốn từ
một cõi huyền bí nào đó thả
ra cuộc đời. Nó là tiếng hát tiếng
hò, tiếng cười tiếng khóc, chuyện
vui chuyện buồn … nói tóm, nó thả
ra cho người nghe những âm thanh tinh chất của
cuộc đời. Nói là tinh chất vì
nó chọn lọc. Làm gì có những tiếng
vỗ đồm độp, rồi tiếng chửi rủa
tục tằn của mấy bà mấy cô từ
bé mình từng nghe thấy ở trong khu; ngay những
tiếng nói bày tỏ sự giận dữ của
cánh đàn ông nghe ra cũng văn vẻ gạn
lọc lắm khi phát qua làn sóng điện.
Còn âm nhạc thì khỏi nói rồi. Những
điệu nhạc hay lời nhạc đầu tiên
người ta nghe, thuộc, và xem chừng gây ấn
tượng suốt đời cho thế hệ 60, 60+
ngày nay phần lớn đều “bắt”
được từ làn sóng radio; nhất
là khi đã vào trong Nam, một miền Nam tự
do và từ từ ổn định. Phần lớn,
nói không sợ quá lời, các bạn
đồng thế hệ đều một thời mê
mệt theo dõi những chương trình văn học
nghệ thuật được phát qua các
làn sóng phát thanh ở Sài Gòn.
Và những giờ đọc truyện là một.
Có điều
người Anh người Mỹ hay dùng chữ
story-teller để chỉ nhà văn. “He [or she] is
a great story-teller” có nghĩa rằng “Ông
(hay bà) ấy là một người kể chuyện
(thường là truyện ngắn) tài
tình.” Nhưng mỗi khi đọc lời ca ngợi
một nhà văn bằng câu này, người
viết không sao tránh khỏi ý nghĩ rằng
nếu câu đó được dùng để
chỉ người đọc
truyện qua
các làn sóng phát thanh - một bộ
môn người viết mê từ thiếu thời
- thì chỉnh hơn và công bằng hơn. Họ
mới chính là người kể chuyện,
là một story-teller. Họ tốn nhiều thì giờ
để sửa soạn và dùng nhiều kỹ
thuật diễn tả qua giọng đọc nhằm truyền
đi một câu chuyện họ cho là
đáng hoặc nên gửi đến tai người
nghe và gửi như thế nào để sau
đó người kể lẫn người nghe
đâm ra đồng điệu, đồng cảm với
nhau về chính nội dung câu chuyện
đó. Nhà văn viết văn có lẽ …
thoải mái hơn nhiều. Ðộng lực phần
lớn do sự bốc hứng. Và thành quả
có được phần lớn lại cũng …
nhờ trời. Người đọc truyện hay kể
chuyện thì khác. Hứng khởi dù có
nhưng là việc nhỏ; họ còn có nhiều
cân nhắc của ý thức và chọn lựa
của cảm thông khi quyết định thực hiện
đọc một hay nhiều câu chuyện của một
tác giả mà họ muốn chia sẻ với
thính giả của họ. (Ở đây chỉ
nói người thực hiện có trình độ
thưởng thức và lòng yêu nghệ thuật
ở một mức độ cao, không nói tới
sự tính toán làm ăn của quý vị
chỉ thuần túy vì thương mại). Nếu
đưa ví dụ, nhà văn có thể
ví như người bố, còn người diễn
đọc câu chuyện ấy ví như người
mẹ. Ông bố cao hứng “đúc” xong
đứa con là … xong; trong khi ấy việc của
bà mẹ (hoặc dưỡng mẫu) nhiêu
khê hơn nhiều, lý do bà đã có
chủ đích muốn giúp đứa con (của
ổng) nom sao cho nó ngon lành hơn, không bổ
chiều ngang cũng bổ chiều dọc cho tâm hồn
đại chúng.
Vì thế,
vào Nam thời thiếu niên, đem theo cái thiếu
thốn ở quê Thanh vốn đã được
“giải phóng,” và cái không
khí chộn rộn, hưởng mùi văn minh
tí đỉnh với … radio nhưng thực
thì chả đâu vào đâu của một
Hà Nội sửa soạn tiếp thu, người viết
đã mê tơi với những quyển truyện
mà vài quyển còn nhớ là Phạm
Công Cúc Hoa, Tề Thiên Ðại Thánh,
Tâm Hồn Cao Thượng và mấy quyển truyện
tranh Tintin et Milou … được ông anh lớn mua
cho nơi một kiosque nằm ở góc đường
Mayer và Charles de Gaul, sau này là đường
Hiền Vương và Công Lý; hơn thế,
được hưởng cái thú nghe radio thả
cửa với đủ thứ mục mà mục
đọc truyện là ưng hơn cả. Ðến
nay qua bao nhiêu tháng năm, lẽ tất nhiên
làm sao còn nhớ nổi đã có bao
nhiêu chương trình đọc truyện
trên các hệ thống phát thanh Sài
Gòn, và những giọng đọc nào từng
được mến mộ thời đó. Có nhớ
là nhớ mỗi khi nghe được một câu
chuyện hay, được diễn đọc bằng một
giọng đọc như rót mật vào tai, nhất
là lúc ấy bên ngoài trời Sài
Gòn lại có chút mưa đêm tí
tách, nằm chùm chăn, ăn lạc rang
nóng nữa, thì nghe rồi ba ngày sau vẫn
chưa hiểu ra tại sao mình lại có
cái sướng lạ thường dường ấy.
Năm ấy có lẽ là năm 1963 hay 1964 gì
đó, người viết vẫn còn nhớ
như in cái đêm được nghe một giọng
nam trầm ấm, khoan thai, rõ từng chữ, đọc
một cái truyện của nhà văn Hồ Hữu
Tường. Truyện ấy không hay vì văn
chương nhưng hay vì ý nghĩa. Nó
làm cho một thanh niên chưa từng đọc một
quyển sách nhà Phật thế mà thấm
thía ngay cái nghĩa của chữ nghiệp, chữ
nhân quả, và hiểu thế nào là bỏ
dao thành Phật và cũng có thể suy diễn
thêm thế nào là vừa rơi y bát
đã có thể trở thành quỉ sứ
yêu tinh. Ðó là truyện ngắn “Con Thằn
Lằn Chọn Nghiệp.” Nhớ mãi cái giọng
đọc của người diễn đọc
đêm ấy khi anh đổi giọng sắc,
khô, phát một chữ “đét” để
tả cảnh nhà sư nổi giận quất
cái chầy (?) làm con thằn lằn chết ngay
trong đĩa dầu. Chỉ một chữ với một
âm sắc thay đổi thế nào đó
đã khiến được người nghe
lúc ấy tự nhiên thấy đau thắt,
và thốt ngay một tiếng than thầm đầy
hối tiếc giùm cho nhà sư: “Ôi
thôi, tiêu một kiếp tu!” Cụ Tường
mà còn tại thế, đọc đoạn
này, cụ khó mà không tìm cách
cám ơn người đọc truyện cụ
đã làm cho một kẻ như người viết
đã một lần xém tí nữa là chạm
được vào cái bờ giác ngộ.
Những ngày
còn sống trong thế giới báo chí ở
Nam California mà vì nhu cầu, radio trong các tòa
soạn thường có người mở liên tục
suốt ngày hết đài này sang
đài khác. Nhiều phen có nghe anh chị em
đem truyện của mình đọc trên
đài này đài nọ nhưng quả
tình chưa bao giờ người viết chú
ý lắng nghe cho hết một đoạn. Lòng dửng
dưng thế nào ấy. Không thể tìm lại
được cái thú lắng nghe trịnh trọng,
say mê như thủa Sài Gòn. Tại sao?
Cuối tuần
qua coi như đánh dấu một năm đến
Úc rồi lại xa Úc, bất ngờ người
viết nhận được một điện thư
ngắn gọn của người có giọng đọc
truyện nhà nghề của đài phát thanh
VNRA (sau làm xướng ngôn và biên tập
viên cho chương trình Việt ngữ của
đài SBS liên bang Úc): Chị Tuyết Lê.
Tuyết Lê thì người viết đã
có dịp gặp ở nhà anh chị Hồ
Ông, học và chơi với em người viết,
nhưng thôi ở đây cứ gọi cô bằng
chị cho cô thích. Nội dung điện thư viết
rằng “… Như đã dự trù thực
hiện những audio truyện của anh, TL và
nhóm thân hữu HTS hôm nay gửi anh hai đoạn
diễn đọc hai truyện ‘Ðêm
Hè’ và ‘Thằng Bé Câm’. . . .
Truyện ‘Hương Xưa’ sau lễ Phục
Sinh mới hoàn tất được. Anh nghe thử
và xin cho biết ý kiến.”
Chỉ 3 phút
5 giây một đoạn Ðêm Hè, quý vị
ấy đã hành tội người viết
quá lắm. Quý vị khi không kéo trả
chúng tôi về với cái đêm hè
miền tây năm 65 không sai một mảy may, từ
quang cảnh đến tâm tình, từ tiếng
động của đêm thâu đến tiếng
cười của ân ái, từ những khoảng
khắc thời gian xưa và sau dây dính
vào nhau trong nhịp điệu hồi tưởng của
một đời người … Giọng Bắc nữ
chính nhập vai điềm đạm, dẫn câu
chuyện đi bằng những nhịp độ đổi
thay, lôi cuốn. Nhưng phải nói cái giọng
nữ phụ, giọng cô gái miền Nam (sau mới
biết đó cũng là giọng Tuyết Lê)
mới là nổi da gà. Sao mà nó lẳng
và sống đến như thế. Xin kéo cờ
trắng thôi. Và với 3 phút 25 giây của
một đoạn Thằng Bé Câm thì quý
vị ấy lại bắt chúng tôi một lần
nữa nghiêng ngả như kẻ say sóng rồi
say đất, say cả nỗi muộn phiền của thời
vượt biển mà đến nay, sau một phần
tư thế kỷ, mấy hôm nay tự nhiên hay thức
giấc nửa đêm và cứ thoáng
đâu đó như có dồn tiếng
sóng, và thấy môi mình như có vị
mặn mà trong cơn váng vất không làm
sao phân định được nó là mặn
muối biển hay mặn nước mắt. Tiếng
khóc của anh chủ đài VNRA sao âm hao giống
quá cái tiếng khóc của những người
sống sót giạt vào Bidong năm nào. Lại
xin kéo cờ trắng nữa thôi!
Và nhạc chọn
nữa chứ. Khéo quá. “The Summer Knows” của
phim “Mùa Hè 42” đi với
“Ðêm Hè,” và Exodus của phim
“Di Dân” đi với “Thằng Bé
Câm” thì thiết tưởng không
khác nào nhạc đã được viết
ra từ nhiều chục năm trước chỉ để
chờ đi với truyện được diễn đọc
ở nhiều chục năm sau.
Ðêm nghe
đi nghe lại mấy mẩu truyện đọc
mà cứ như được sống lại với
cái thời thiếu niên, thời nằm nghe những
câu chuyện kể phát ra từ chiếc radio
Phillip bên trong còn đỏ những ngọn
đèn giữa khi trời đêm Sài Gòn
buông xuống những hạt mưa thơm. Ra là
thế. Tự nhiên người viết hiểu
vì đâu lòng mình dửng dưng những
ngày nghe đọc truyện dưới miền Nam California.
Mà nói cho cùng chia sẻ thế nào
được những câu truyện đọc
phát ra từ giữa một tòa soạn kẹt
khách hay giữa những siêu lộ kẹt xe!
Tự nhiên
người viết nhớ lại một câu nói
tinh tế của người tây phương: miếng ngon chưa
ngon nếu không có chỗ ăn ngon; có chỗ
ăn ngon chưa ngon nếu không có người
cùng ăn ngon. Họ nói đúng
quá. Và liệu ta có sai nếu nói thế
này: truyện hay chưa hay nếu không có chỗ
nghe hay; có chỗ nghe hay chưa hay nếu không
có người kể hay?
Hà Thúc Sinh
20-4-06
(Đỗ Thị Minh Giang
sưu tầm và chuyển)