* SÔNG
CHẨY
ĐÔI DÒNG *
(Trần Mộng Tú)
Sunday, April 10, 2011
Cả dòng sông dài
thương nhớ
Nửa tay cầu vai nghiêng
(Trần Dạ Từ)
Nước Việt Nam của
tôi có trên hai ngàn con sông và
kênh. Tổng cộng chiều dài của sông,
nếu đem nối vào nhau thì được gần
bốn mươi hai ngàn cây số, nhưng mới
khai thác khoảng hơn tám ngàn cây số.(*)
Sông chẩy ngang, chẩy dọc từ Nam Quan đến
Cà Mâu. Có sông thì phải có cầu,
đã biết bao nhiêu cây cầu được
bắc qua những dòng sông đó. Có những
cây cầu làm nên thương nhớ, có
những cây cầu chỉ là duyên cớ cho một
nỗi bâng khuâng. Có những cây cầu chở
những mồ hôi nước mắt và nhọc
nhằn của người dân lam lũ, ngày hai
lượt đi về kiếm sống cho gia
đình. Có những cây cầu được
sơn bằng máu và rửa bằng nước mắt
của người dân vô tội, chết tan
xác vì một trái bom gài dưới
chân cầu, hay chết giữa lằn đạn của
hai phía đầu cầu bắn đến. Nước
ở dòng sông mầu xanh hay sắc đỏ,
còn tùy khúc sông chẩy qua đó
có bao nhiêu xác trôi qua, có bao nhiêu
giấc mơ thả xuống.
Trong hai chục năm “Nội
chiến từng ngày” những thân cầu
đã nát tan vì nhận biết bao nhiêu mảnh
đạn, vỏ bom của Trung Cộng, của Nga của
Mỹ và đã ôm ấp bao nhiêu xác
của dân lành. Nước của mỗi con
sông lớn nhỏ đã hòa bao nhiêu
máu lệ oan khiên. Nhưng trong dòng oan
khiên đó những cây cầu ở quê
tôi vẫn mang đến cho tuổi thanh xuân của
chúng tôi bao nhiêu điều thơ mộng.
Bây giờ là
tháng sáu
Quê hương
đang mùa mưa
Mưa trên cây
cầu cũ
Mưa trên
dòng sông xưa
Cây cầu thời
thơ dại
Dòng sông thời
mộng mơ
Cô nữ sinh trung
học
Thả bao nhiêu
bài thơ (1)
Mỗi dòng sông lớn, mỗi
con kênh nhỏ; từ chiếc cầu xây bê
tông cốt sắt, cốt thép cho đến
cây cầu khỉ bằng những thân tre gầy
guộc, đều chứng kiến không ít
thì nhiều vào vận nước đổi thay
Những cây cầu chính của
cả ba miền, khi nói đến tên thì ai cũng
biết, vì nó đánh dấu một đoạn
thời gian khói lửa, nó có tên trong những
trang sử của quê hương.
Cầu chữ
Y,
cách chợ Bến Thành hai cây số, ở miền
Nam là chiếc cầu có hai chân xoạc ra
hình chữ Y bắc giữa hai con kênh Bến
Nghé và kênh Tẻ. Chân cầu này
đã có lúc là nơi trú ẩn của
những người ăn mày, của các đứa
trẻ đánh giầy, của những người
phiêu bạt ngã vào nhau làm thành một
cái gia đình không nhà không cửa,
đến dăng lên cái bạt hay dựng
máy tấm bìa xé ra ở một cái
thùng giấy làm mái che. Có những đứa
bé oe oe khóc tiếng chào đời ngay dưới
chân cầu này. Ngược dòng lịch sử,
chiếc cầu này đã hứng bao nhiêu mảnh
đạn trên thân thể từ thời Bình
Xuyên Bẩy Viễn và chính phủ Ngô Đình
Diệm (1955). Nó đã ôm bao nhiêu xác
dân, xác lính (cả hai miền Nam Bắc) trong
trận Mậu Thân (1968).
Cầu
Tràng Tiền bắc trên sông
Hương sáu vày, mười hai nhịp đi
vào văn học, vào trái tim của nam thanh nữ
tú, của hẹn hò, của hình ảnh, với
những bài thơ tình rất Huế, đã
làm cho người miền Bắc, người miền
Nam ngẩn ngơ mong ước được đi
trên cây cầu đó ít nhất một lần
trong đời. Cầu Tràng Tiền là linh hồn
của thành phố Huế, hay nói đơn giản,
là Huế.
Áo trắng hỡi
thuở tìm em không thấy
Nắng mênh mang mấy
nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế
nhưng đời không phải thế
Mặt trời
lên từ phía nón em nghiêng (2)
Để rồi trong trận Mậu
Thân, súng đạn và tội ác cũng
làm nhịp cầu gẫy gập.“Cầu thân
ái đêm nay gẫy một nhịp rồi/Nón
lá buồn khóc điệu Nam Ai tiếc
thương lời vắn dài …” Không phải
chỉ đơn giản như vậy, mà sau nhịp
cầu gẫy đó là hàng hàng, lớp
lớp, những nấm mồ chôn tập thể, cả
thành phố Huế quấn khăn tang, và nỗi
oan khiên đó người miền Trung và
người miền Nam không bao giờ quên
được. Cầu Tràng Tiền ôm mặt
khóc. “Vì sao không thương mến nhau
còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu”(3)
Cầu Long
Biên bắc qua sông Hồng ở miền Bắc
trong trận chiến Bắc Nam đã hứng mười
bốn lần bom Mỹ dội xuống, làm gẫy bẩy
nhịp và bốn trụ chân (1965-1972) Đây
cũng là giai đoạn người dân miền
Bắc phải đi sơ tán. Con sông Hồng
nước có đỏ thêm không, khi mỗi lần
bom trút xuống? Một ngôi chợ Long Biên
không cách xa cầu bao nhiêu là ngôi chợ
lớn thứ hai của Hà Nội, sau chợ Đồng
Xuân, ngày nay là nơi hàng nhập cảng
của Trung Quốc nhiều hơn hàng trong nước.
Từ quần áo, máy móc cho đến
trái cây, rau cỏ. Chân cầu Long Biên cũng
là nơi những người nghèo khổ
dùng làm chỗ nương thân. Cũng
có những mái lều bằng lá, bằng bạt
đắp điếm lên nhau để được
gọi là “Cái nhà” và những
đứa bé sơ sinh (không có giấy khai sinh)
cũng được lớn lên từ đó.
Nhưng chiếc cầu ghi dấu
đậm nhất trong lịch sử Việt Nam là cầu Hiền Lương
trên sông Bến Hải. Đối với
người Việt của cả hai miền Nam Bắc, cầu
Hiền Lương là một chứng tích đau
thương nhất của cuộc chiến huynh đệ
tương tàn. Nó làm cho người dân
Việt nhớ đến bài học lịch sử của
thời Trịnh Nguyễn phân tranh; “Ôi Việt Nam
cùng Việt Nam gây hấn/Muôn ngàn xưa
để hận cho dòng sông…/Ôi Việt
Nam nơi nồi da xáo thịt/Nơi con Hồng
tàn phá giống Lạc Hồng …”
Ranh giới chia cắt hai miền
Nam Bắc là huyện Gio Linh, và huyện Vĩnh Linh tỉnh
Quảng Trị. Cả
cây cầu và dòng sông cùng trải ra
như một tấm da người nhận kín những
vết chàm xăm lịch sử.
Ta hãy cúi nhìn xuống
vết chàm xăm đó: Sông Bến Hải
dài một trăm cây số (100km), bề ngang, chỗ
rộng nhất là hai trăm thước (200m), chỗ
hẹp khoảng hai mươi đến ba mươi
thước. Cây cầu Hiền Lương nguyên
thủy có từ 1928. Sau bao lần mục nát,
được Pháp xây lại (khoảng1950-1952) bằng
những cột sắt có chữ Made in England và
ván thông sàn tầu có chữ Made in US , thợ
xây cầu là lính công binh viễn chinh
Pháp. Như vậy chiếc cầu chia cắt người Việt hai miền
được xây bằng
những bàn tay
ngoại nhân
và dùng vật liệu của
ngoại quốc. Cầu dài 178 thước,
có 7 nhịp, rộng 4 thước. Cầu chia ra
là hai phần, Miền Bắc có 450 tấm
ván, miềm Nam có 444 tấm. Ván cầu về
miền Bắc sơn đỏ, của miền Nam sơn
xanh. Giữa hai phần xanh đỏ đó là một
cái nẹp sắt phân chia bề ngang rộng
mười phân (10cm). Chao ôi, chỉ có mười
phân thôi mà hơn hai mươi năm
không với được nhau!
Trong một bài viết “Khi
Những Dòng Sông Chẩy Thành Âm Nhạc”
tác giả Phương An có cho chúng ta biết
ảnh hưởng của sông Bến Hải đi
vào âm nhạc như thế nào:
“Vĩnh Cát viết: Bạn
ơi hãy nghe bến Hải tâm tình:
"Dòng bến Hải nước xanh xanh mằn mặn.
Có từng đàn cá bạc nhảy tung
tăng. Dòng sông hẹp sóng êm êm phẳng
lặng. Có sẵn đò mà chẳng
được sang ngang ...". Trần Viết Bính
không nêu địa danh nhưng cũng tả
rõ về con sông giới tuyến ấy qua
"Nhà em ở phía bên sông, nhưng
dòng sông từ ngày có kẻ ngăn
đôi, cho tình ta bên này bên ấy rời
xa ..."
Tôi bỗng nhớ đến những
dòng nước không bao giờ hòa làm một
trong thiên nhiên như lằn ranh giữa nước
ngọt và nước mặn nơi cá hồi
(salmon) về nguồn, như dòng nước nóng
và lạnh của con sông Ohio (ở nước Mỹ)
người ta phải cho nước nóng vào
mùa đông và nước lạnh vào
mùa hạ cho cá sống. Những nguồn nước
này chẩy song song và không bị hòa tan
trong nhau nhưng không gây ra một thảm họa
nào cho con người, không chia cắt thịt
xương đồng chủng.
Đã bao nhiêu lần cả
hai bên cùng sơn đi sơn lại những tấm
ván bên phía của mình. Hai mươi
năm huynh đệ tương tàn. Người
được kẻ thua sau 35 năm vẫn ngun ngút hận
thù. Miếng nẹp ngăn đôi bây giờ,
chắc đã được tháo ra, những tấm
ván chắc đã được sơn chỉ một
mầu, nhưng nước sông Bến Hải
ngàn năm lững lờ chẩy một dòng
xuôi đó có mầu gì khi đã bao
nhiêu năm nó được nhuộm bằng
máu và nước mắt. Ta có thể
quên cây cầu đó đi, vì gỗ sẽ
mục nát với thời gian, nó được
thay thế bằng cây cầu đúc xi măng cốt
thép. Nhưng làm sao thay được nước
dòng sông Bến Hải. Dòng sông
đó trước đây đã nhận bao
nhiêu lá thư thả xuống của bờ
bên nọ nhớ bãi bên kia. Đã nhận
bao nhiêu tờ bươm bướm kêu gọi
lòng người thu về một mối. Nhưng cuối
cùng sông nước đó vẫn chia hai,
máu của những người dân, người
lính miền Bắc và máu của những
người dân, người lính miền Nam vẫn
chia làm hai dòng chẩy. Nó vẫn chẩy song
song nhưng không bao giờ hòa làm một. Phải
chăng, nước mắt bên này mặn hơn
nước mắt bên kia, hay máu bên này
đỏ hơn máu bên kia?
Bà mẹ Gio Linh thời
Pháp thuộc đã “Nghẹn
ngào không nói một câu/Mang khăn
gói đi lấy đầu/Đường về
thôn xóm buồn teo/Xa xa tiếng chuông chùa
reo …” (4)
Bà mẹ Vĩnh Linh bao
nhiêu lần chứng kiến tù binh Bắc Việt
được gửi trả về từ phía
bên kia dòng sông. Tấm hình có
dòng chữ “Anh về đất Bắc bình
an” dăng ngang ngay đầu cầu Hiền
Lương của huyện Gio Linh là một chứng
tích cho những ai muốn chối bỏ.
Bà mẹ Gio Linh, bà mẹ
Vĩnh Linh bây giờ cũng chỉ còn là những
tấm hình lung linh sau màn hương khói. Chỉ
còn là những cái tên người ta nhắc
đến những khi kể chuyện “Ngày
xưa”.
Với những người Việt
vào năm 1975 họ ở tuổi ba mươi, bốn
mươi khi cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt.
Bây giờ, sau ba mươi sáu năm, dù họ
chỉ là người dân chất phác hay những
người lãnh đạo quốc gia đương
thời, những quân tướng thất trận
lưu vong ở trong nước hay ở bất cứ
nơi nào trên thế giới thì họ cũng
đang bước từng bước vào chiếc cầu
cuối của đời người, chiếc cầu của
đôi bờ sinh tử. Có bao giờ họ quay
đầu nhìn lại những cây cầu, những
dòng sông họ đã được nhìn
thấy, được nghe nói hay đã
được đi qua trên chính quê
hương mình mà ngậm ngùi thương
xót, mà ước gì chưa bao giờ
có cuộc nội chiến Bắc Nam.
Trần Mộng
Tú
Viết cho 30/4/2011
(T.T.K.D. sưu
tầm và chuyển)