CẬU CHÓ
(TRÀM CÀ MAU)
(Có
một tiểu thuyết mang tên “Cậu Chó
” của tác giả Trần Đức Lai,
đăng hằng ngày trên nhật báo Trắng
Đen trước những năm 1975, mà tôi
chưa được thưởng thức, chỉ nghe
bàn tán xôn xao một thời. Câu chuyện
sau đây chẳng có liên
hệ chi với truyện dài đó .)
Không biết
vì lý do nào, nó bị chủ sa thải,
và rơi vào nhà tôi.
Nó là một
con chó loại nhỏ bằng bắp chân.
Hình dáng y hệt một con nai tý hon có
khuôn mặt con chồn. Hai mắt tròn, to, long lanh
sáng như hai viên bi chai ướt át. Hai tai vểnh
lên cao, chân dài, thân hình thon nhỏ
cân nặng chưa được ba ký lô.
Nói theo ông anh tôi, thì chưa đủ một
tô rựa mận.
Nó gia nhập
gia đình tôi một cách tình cờ,
vì thực sự tôi cũng chưa có ý
định nuôi chó, mà chồng tôi
thì có vẻ ớn và ngán loài
chó một cách rõ ràng.
Anh nại lý
do là cả đời chó không bao giờ
đánh răng, mà cứ thích liếm tay liếm
mặt người khác, bao nhiêu là vi khuẩn
vi trùng có dịp xâm nhập. Cứ thử
nghĩ, có một giai nhân lộng lẫy như
tiên mà cả tháng chưa đánh răng
thì có anh chàng điên nào đủ
can đảm dám ghé môi hôn chăng ?
Hơn nữa, loài chó thường làm trung
gian mang bọ chét, rận, chấy, dễ lây lan
qua cho người, rất khó tránh. Như thế
thì có thể vô tình đem bệnh hoạn
đến cho con người.
Nhưng lý do
chính, anh không nói ra, mà tôi biết
rõ, là anh kỳ thị và có định
kiến với loài chó.
Bởi vì, thời
anh mới chín mười tuổi, đã chứng
kiến cảnh cô bé bảy tuổi hàng
xóm lên cơn dại chó, gầm gừ
và chết thảm thiết. Cô bé nầy
thường hay ôm ấp vuốt ve con chó nhà
láng giềng. Một hôm chó phát bệnh
dại, thè lưỡi chạy chầm chậm
ngoài đường, táp hụt nhiều người
bộ hành. Lũ học trò nhỏ đi học
về sợ hãi, rú lên, xô nhau chạy
tán loạn. Bác cảnh sát phải nạp
đạn hai lần, đến gần con chó khoảng
một thước, bắn hơn cả hơn chục
phát đạn mới trúng một viên, con
chó quay mòng mòng và ngã lăn ra chết.
Cả phố cười vang vì phục cái
tài thiện xạ của bác cảnh sát. Mặt
bác cảnh sát đỏ gay vì xấu hổ
và leo lên xe đạp đi một nước, chẳng
nói năng gì.
Ngoài ra, chồng
tôi cũng bị chó cắn đôi lần khi
còn bé nên có thành kiến về
chó là phải.
Khi anh tôi
đem con chó về thì chồng tôi cũng
không phản đối mà cũng chẳng
tán thành. Lần
đầu tiên con chó gặp chồng tôi,
nó vẫy đuôi chào mừng, anh chỉ mỉm
cười nửa miệng rồi quay đi, không
thèm ban cho nó một cái vuốt ve, một tiếng
huýt sáo. Thế
mà sau một tuần, tôi thấy chồng tôi
lễ mễ ôm về một bao thức ăn cho
chó, loại ngon nhất đắt nhất và
kèm thêm thức ăn trong hộp.
Tôi không biết
làm sao mà con chó chinh phục được cảm
tình của chồng tôi mau lẹ thế. Bởi không ai hiểu chồng
bằng vợ, khi đã có thành kiến về
cái gì thì khó ai mà lay chuyển anh nổi.
Ban đầu, chồng
tôi gọi con chó là nó, rồi
gọi là em nó, sau nữa, gọi
là cậu
chó, thăng chức cho nó. Tôi và anh tôi thấy
cách xưng hô lạ, hay cũng kêu bằng
danh từ cậu chó. Từ không quen biết, cậu
chó đã chinh phục mau lẹ cảm tình của
cả ba người trong nhà.
Phải công nhận
cậu có tài vì ông anh tôi cũng
không phải là loại người yếu
lòng, dễ lung lạc, và thường không
ưa chăm sóc ai, cũng không ưa ai chăm
sóc mình. Thế
mà mỗi sáng mỗi chiều, ông cẩn thận
lấy mấy cục bò viên, gói vào giấy
ni lông, bỏ vào lò hâm cho ấm, để
lên cái dĩa sành nhỏ, lễ mễ
bưng ra cho cậu xơi.
Cậu chó nằm
dài trên tấm thảm chà chân mà
thong thả nhai và thưởng thức vị
béo, ngọt của thịt bò vò viên.
Đôi mắt cậu long lanh ướt át, đẹp
hơn cả mắt các cô thiếu nữ
đương thì. Những
khi anh tôi nằm trên ghế dài đọc
sách thì cậu phóng lên nằm kê
mõm trên chân anh.
Cả hai đều im lặng, anh tôi thì
chăm chú đọc, cậu thì lim dim mắt thỉnh
thoảng nhúc nhích vành tai như lắng nghe
tiếng huyền diệu xa xôi nào đó trong
không gian.
Thường
thường, khi thấy cảnh ấm cúng hạnh
phúc đó, chồng tôi cười mà
trêu anh tôi:
“Cậu
chó sướng quá nhỉ ! Có khối
cô mong được kê cái đầu lên
chân đó để lim dim mắt mà không
được. Phước phần nào tổ
tiên để lại cho cậu thế ?”Người
và chó, cả hai trông hạnh phúc
phát tiết ra ngoài mặt.
Có những
lúc cậu chó đang ăn, vội chổng tai
lên, rồi bỏ ăn mà chạy ra hướng
cửa. Tôi ngạc nhiên không biết tại
sao, thì chỉ liền mấy phút sau đó,
thấy xe anh tôi về đậu trước cổng. Thì ra cậu nhận
được tiếng máy xe từ rất xa,
cách đến mấy ngã tư đường,
biết anh tôi về, vội bỏ ăn, chạy ra
chào mừng. Cái
hành động nầy, được chồng
tôi khôi hài ví với chuyện các bậc minh quân bên Tàu
đời xưa, đang ăn mà nghe
có người hiền đến thì vội nhả thức ăn, chạy chân đất ra mà tiếp đón.
Mỗi ngày,
anh tôi ra vườn ngồi nhả khói thuốc
lên trời cao, cậu đến bên cạnh, cạ
mình vào anh tôi, đuôi ve vẩy, hình
như cả hai đang mơ mộng, đang vui với trời
đất, vui với một ngày bình an, thanh thản.
Cậu chó
thường ngủ trong một cái chuồng nhỏ,
đặt trong buồng anh tôi. Đã thành
thói quen, mỗi đêm, khi anh tôi mở cửa
buồng, thì cậu biết đã đến giờ
đi ngủ, phóng vội vào chuồng và nằm
yên lặng cho đến sáng. Khi anh tôi dậy,
mở cửa thì cậu vội vã phóng ra
vườn làm vệ sinh. Có khi đã
vào trong chuồng mà cậu chó kêu ư ử
nho nhỏ như muốn đòi hỏi chuyện
gì đó, anh tôi tằng hắng một tiếng,
cậu im rơ, nằm yên cho đến sáng .
Mỗi khi anh
tôi đi về khuya, thấy cậu chó cứ
giương mắt nhìn ra ngoài chờ đợi,
tôi nhốt vào chuồng cho cậu ngủ, cậu
chỉ nằm yên chừng năm phút, rồi
nhè nhẹ lén đi ra, ngồi trước cửa,
buồn rầu chờ đợi anh tôi. Cậu nhất
định không đi ngủ nếu anh tôi chưa
về. Anh tôi vốn là người rong chơi
ngày dài tháng rộng, lang bạt giang hồ,
đố ai biết anh đêm ngủ ở
đâu, ngày rong chơi miền thảo dã
nào, thế mà vì cái đợi chờ của
cậu chó, mỗi đêm phải ra về, về
sớm, không thì sợ cậu đợi chờ tội
nghiệp. Như là sợ con mọn lo, sợ người
vợ hiền mòn mỏi trông chồng, anh phải
về. Về cho cậu chó đi ngủ.
Anh tôi
thương mến cậu chó, như cha thương
con, chăm sóc từng bữa ăn giấc ngủ. Chồng tôi trêu rằng
anh tôi là nghiêm đường của cậu
chó. Cậu chó rất
lễ phép, khi nào cũng đi sau lưng anh,
không bao giờ cậu dám đi trước mặt
anh. Chồng tôi
nói rằng, cậu chó “vừa kính, vừa
thương” ông anh tôi.
Mỗi khi tôi
đi làm về, cậu chó chồm lên,
ôm lấy chân tôi, đuôi quẫy lia lịa
và kêu ư ử trong cổ họng. Không phải cậu nịnh
tôi để tôi cho ăn, cậu vui mừng tỏ
tình thương tỏ cái lòng chân thật,
cậu không cầu mong gì cả. Nếu tôi cúi xuống
vuốt lên lưng cậu thì cậu nằm
dài ra, chổng bốn chân lên, nhõng nhẽo,
nũng nịu.
Chồng tôi
thường hay cho cậu ăn chút chút, khi
thì cục xương gà khi thì tép
bò khô khi thì miếng thức ăn thừa
trong tủ lạnh. Bởi
vậy mỗi khi thấy chồng tôi, thì cậu
chó thè lưỡi ra, liếm láp quanh mồm
lia lịa, rồi nhảy cỡn lên như hân hoan
sung sướng lắm. Chồng
tôi nói rằng chắc cậu cũng chẳng
có tình nghĩa gì đâu, chỉ hy vọng
được ăn thôi, cứ nhìn cái
lưỡi cậu liếm láp lia lịa thì
rõ lòng dạ cậu.
Thỉnh thoảng, chồng tôi cũng bỏ
thì giờ ngồi vuốt ve cậu, nói chuyện
triết lý với cậu, như nói cho một
người hiểu biết nghe. Tôi rình nghe
mà cười.
Nhiều lần thấy
tôi tắm cho cậu chó, chồng tôi nói
lớn: “Thế mới
biết em thương anh không bằng thương cậu
chó. Lấy nhau mấy chục năm nay, mà
có khi nào em tắm cho anh đâu?”
Lần tôi
đem cậu chó đi chích ngừa bệnh, mua
thuốc cho cậu uống, anh tôi vuốt ve cậu
mà nói:
“Cậu mầy
hơn ta rồi đấy. Mấy chục năm nay, ta
đâu có chích choác gì, đâu
có thuốc phòng bệnh chống bệnh gì.
Cậu mầy ngon quá mà.”
Cả nhà
không ai nói ra, nhưng ai cũng dành cho cậu
một khoảng ấm áp trong tim. Ngay cả việc tình
duyên của cậu, cũng được lo lắng
lưu ý đặc biệt. Cậu được mai mối
cho một nàng chó của ông bà Mỹ
già ở thành phố kế cận. Nàng chó nầy, nhỏ
thon, lông trắng như bông, môi mũi hồng
hào, mắt tròn xoe, sáng đẹp đẽ. Nàng chó nầy xinh xắn
như cô tiên, được chủ cưng chiều
như một tiểu thư đài các. Về mặt ngoại
hình thì cậu chó nhà tôi so với
nàng chó nầy như đôi đũa lệch,
như thằng bán than mà đèo bồng
công chúa.
Ông bà
già Mỹ chưa thấy dung nhan cậu chó. Chồng tôi sợ cậu
bị nhà vợ chê nên đặt kế hoạch
làm đẹp cho cậu, mua thuốc nhuộm tóc
màu vàng và màu đen, định tô
cho đậm hẵn những vệt vàng và vệt
đen có sẵn trên thân cậu, xóa những
vệt lem luốc không rõ vàng, không
rõ đen. Nhưng
tôi và anh tôi phản đối. Tôi bảo
không muốn lừa dối ai bằng cách nhuộm
chó. Chồng tôi hỏi tại sao đàn bà
bôi xanh bôi đỏ được, nhuộm
tóc được, sửa mắt sửa mũi,
hút mỡ, độn ngực được mà cậu
chó nhà mình không có quyền trang
điểm một chút cho ra vẻ hào hoa hơn? Nếu nhà gái
chê, lỡ duyên của cậu thì ngàn
năm một thuở, cậu đành ngậm
ngùi làm kiếp trai già còn tân.
Còn anh tôi
thì vì “thương con mà thành
mù quáng”, anh thấy cậu chó đẹp
lắm, cho là một loài hiếm vì có
lông vằn từng vệt đen vàng xen kẽ
như bộ da ông cọp.
Bởi thế mà cậu chó còn có
bí danh là Tiger (ông Cọp).
Khi ông bà
Mỹ già nhắn đem cậu chó đến
làm rể thì chồng tôi tiếc cho cậu,
chưa được trau chuốt lại cái dung nhan
lem luốc cho đỡ mang vẻ bần hàn con
nhà ruộng, con nhà núi. Tôi chỉ vội vã
đem cậu đi tắm cho sạch sẽ để
đi cưới vợ, mà cậu sợ nước,
bỏ chạy trốn. Tắm xong, tôi xấy khô
lông và bôi chút nước hoa thoang thoảng
lên đầu cậu.
Chồng tôi nằm nhà thở dài chờ
tin buồn là cậu bị từ hôn.
Tôi và anh
tôi cắm hai đóa hoa hồng bên cửa xe,
dẫn cậu ra đi. Xem
bộ cậu hí hửng lắm. Không biết cậu
có linh tính chi không. Khi dẫn cậu vào
nhà, hai ông bà Mỹ cười và
vì lịch sự, nói rằng: “Không đến
nỗi tệ, không đến nỗi tệ.”(Not
bad!)
Vừa thấy cậu
thì nàng tiểu thư chó vẫy
đuôi, mắt sáng rạng rỡ nhìn cậu
đắm đuối và liếm mép. Cậu
thì tỉnh bơ như không thấy người
đẹp trước mắt, cứ nhìn dáo
dác và đứng khép nép bên
chân anh tôi. Cậu
ngượng chăng? Tưởng cậu e thẹn với
người lớn, anh tôi bèn giả vờ đi
ra ngoài cho đôi trẻ tự do làm ăn. Thấy
anh tôi bước ra, cậu vội vã cong
đuôi chạy theo.
Tôi ẵm cậu quay trở lại để gần
nàng tiểu thư chó đang làm điệu
bộ, muốn làm quen.
Tôi vuốt ve trên lưng cậu chó, cậu
lại nằm chổng cẳng ra nhõng nhẽo. Có ai đi hỏi vợ
mà như thế nầy bao giờ ?
Nàng chó
thích thú đến gần và hôn nhẹ
vào lưng cậu, rồi nàng liếm trên mặt
cậu. Một lúc
sau, hai bên làm quen, hôn hít nhau tự do
trước mặt hai họ.
Nàng chó nằm ép bụng xuống, hai
chân cào lia lịa trên mặt thảm, kêu
ư ử trong họng, thân mình uốn éo, mắt
nhìn cậu đắm đuối rồi đưa
mông về hướng cậu như thúc dục,
như gọi mời.
Anh tôi thấy
cậu tỉnh khô chẳng làm ăn gì, bực
mình mắng một câu: “Đúng là ngu
như chó. Không biết cái chó gì cả”.
Nhưng rồi cuối
cùng, mọi việc đều êm xuôi, cậu
ban cho nàng tiểu thư chó hai lần ơn
mưa móc. Nàng tiểu thư chó xoắn
xít lấy cậu.
Ông cụ Mỹ khen cậu là bé ngoan
(good boy).
Xong cuộc
tình, cậu đứng thở dốc. Anh tôi xót con, muốn
đem cậu về, sợ cậu ở đây
thì còn hao mòn thân xác hơn nữa.
Ông bà cụ Mỹ đề nghị cho cậu
chó ở rể một tuần, anh tôi không chịu. Tiểu thư chó đến
bên cậu thè lưỡi âu yếm chăm
sóc chồng, liếm lên mặt, lên vai. Cậu thừ người đứng
yên lặng nhìn anh tôi như dọ hỏi.
Khi anh tôi
bước ra cửa, cậu vùng chạy theo,
không thèm chia tay người đẹp
chó. Nàng chạy
theo chàng ra đến tận cửa xe, cậu nhảy
thốc lên ghế ngồi, không thèm ngó lại
nàng đang vẫy đuôi cuống quýt. Anh
tôi mắng: “Bạc tình đến thế kia
à ?”.
Sau đó,
ông bà già vợ của cậu còn nhắn
nhe nhiều lần nhưng anh tôi thương cậu,
sợ cậu mất sức, hẹn qua năm sau cho
chúng gặp lại.
Chồng tôi thì khuyên anh tôi cho cậu
đi ở rể vài tháng cho sướng
thân cậu, mấy khi cậu được cái hạnh
phúc yêu đương, đời mà không tình
yêu thì cũng xem như chết rồi mà chưa chôn vậy.
Về mặt
tình thì cậu chó nhà tôi quả thật
tệ, nhưng về phương diện thu phục
lòng người, thu phục tình thương
thì cậu là thượng thặng. Cậu
đã thu phục tình thương của ba anh em
chúng tôi cấp kỳ, dễ dàng, tài
tình.
Tôi nghiệm
ra: nếu mình chân thành thương yêu ai
thì tình thương được đáp lại
ngay. Trong tình
thương cũng phải bày tỏ ra bằng cử
chỉ hàng ngày chứ không phải thâm
trầm che dấu bên trong.
Che dấu tình thương, dễ bị hiểu lầm là lạnh nhạt. Những câu nói rất
thường của những kẻ mới yêu nhau
nhưng không bao giờ chán tai người nghe. Những
cử chỉ lặp đi lặp lại nhưng vẫn
làm người nhận vui thích và cảm thấy
lòng ấm áp.
Cậu chó
không bao giờ tranh đua với ai, không ganh tị,
không trách móc, không giận hờn ai trong
gia đình. Ngay cả
khi chồng tôi vô tình dẫm lên
đuôi cậu, cậu kêu la, bỏ chạy,
nhưng ngay tức thì sau đó, cậu vẫy
đuôi, quên giận hờn, quên đau. Thế thì ai mà
không thương cho được?
Ngày xưa,
khi các cụ đồ đi thi bị rớt quay về
nhà thì chỉ có con chó ra vẫy
đuôi chào mừng mà thôi. Cụ ông đem so
sánh, cụ bà bảo rằng: “Con chó
nó có thức khuya dậy sớm, tần tảo
nuôi ông ăn học đâu mà nó thấy
buồn”. À
thì ra loài chó còn là thứ quân
tử, không màng đến bả công danh.
Loài chó,
như mọi người biết, chủ có
nghèo khó đói khổ đến
đâu, cũng không bao giờ bỏ chủ. Trong lúc đó, con
người, ngay cả vợ chồng, khi sa cơ thất
thế còn có kẻ bỏ nhau, khi giàu sang
có thể thay chồng đổi vợ.
Cái tài
chinh phục lòng người của cậu chó
cho tôi bài học quý báu. Tôi bắt
chước cậu, bày tỏ tình thương với
chồng tôi. Thỉnh thoảng tôi dúi đầu
vào ngực chồng thật lâu, hít thở
cái mùi thân thiết, và đem hết
cái âu yếm tỏa ra trong mình, gắng truyền
qua tấm ngực ấm áp của chồng. Chồng
tôi vuốt ve trìu mến trên lưng, trên
tóc tôi. Tôi có cảm giác như thời
mới biết nhau, mới quen, mới thương nhau.
Sung sướng hạnh phúc tràn đầy.
Tôi cũng bắt chước cậu chó, cho
tình thương đi mà không đòi hỏi,
không trách móc, không giận hờn.
Tôi bỗng thấy nhận lại được
tình thương nhiều vô tận. Hạnh
phúc trong gia đình tràn đầy như
nước triều dâng. Chồng tôi cũng cảm
nhận được những thay đổi trong gia
đình, những vui sướng, những ấm
êm, những an bình. Tôi thầm cảm ơn cậu
chó đã cho tôi bài học vun xới
tình thương tuyệt vời mà sách vở
chỉ là thứ lý thuyết suông, như
nước chảy qua cầu, như ảnh hình
nhìn xuyên qua cửa sổ con tàu. Bài học của cậu
chó thực tiễn, tận mắt, đơn sơ,
nhưng hiệu quả vô cùng.
Bây giờ
tôi mới nghiệm ra tại sao những cao thủ
võ lâm thời xưa, nhìn động tác
chiến đấu của loài vật mà bắt
chước, sáng chế ra các chiêu thức
như hầu quyền, hổ quyền, xà quyền
v.v… Có lẽ
cái khôn ngoan và sinh hoạt của giống
thú cũng có rất
nhiều điều đáng cho con người học hỏi.
Cậu chó
nhà tôi, và cả họ hàng nhà
chó xa gần khắp nơi trên thế giới, chẳng
cần lao động mệt nhọc chi cả mà lại
có đời sống ấm no cơm bưng nước
rót, chẳng hề nghĩ đến sinh kế,
không sợ thị trường chứng khoán trồi
sụt, không cần biết đến chỉ số
Dow Jones, Nasdaq mỗi ngày, không cần biết
đến chu kỳ kinh tế thăng trầm, suy
thoái, cũng không cần lo, cần biết đến
những chính sách đối ngoại đối
nội của chính phủ, cứ phè cánh ra
mà được thương yêu, cưng chiều,
bảo bọc, an nhàn.
Có những
người giàu bạc tỉ, có kẻ quyền
uy ngất trời, danh vọng ngút ngàn, cũng
không mua không có được cái an
nhàn sung sướng hạnh phúc của cậu
trong lúc cậu không có một đồng xu lận
lưng, không có một trương mục
ngân hàng, không một tư hữu nào cả. Cậu vốn thất học,
mù chữ, chẳng hề biết đến một
trang sách học làm người, một chữ
trong sách thánh hiền mà cậu sành
tâm lý, biết cách lung lạc lòng người
hiệu quả. Toàn cả
gia đình tôi đem hết tình thương
ra mà hậu hĩ đãi cậu.
Ban đầu, chồng
tôi gọi cậu chó bằng nó với thái độ miệt
thị, xem thường. Nhưng khi bị cậu chinh phục,
bắt đầu thương yêu thì gọi
là em nó . Đến khi cảm cái tài,
cái đức của cậu thì gọi bằng cậu
chó . Sau đó, anh thấy học được
của cậu nhiều điều hay, lạ, bổ
ích, hiệu nghiệm, làm cho gia đình hạnh
phúc hơn, làm cho mọi người chung quanh
thương mến nhau hơn thì bèn tôn
sư, kêu cậu bằng thầy . Rồi
anh nghiệm ra, những điều học hỏi từ cậu
có thể còn đúng, còn có
giá trị muôn đời, thì anh nâng cậu
lên là “ông thầy”.
Một hôm
đi chợ về, tôi thấy sau vườn
khói um mù, chồng tôi vừa đi vừa nhảy
nhót quanh một cái thùng sắt lửa nghi
ngút như dáng múa của người da
đỏ đang hành lễ. Theo sau là cậu chó
vẫy đuôi chạy loăng quăng. Thỉnh thoảng anh quay lại
vái cậu chó mấy cái và gọi cậu
là ngài . Cậu thơ ngây vẫy
đuôi gục gặc đầu chí thú,
kêu ư ử trong cổ họng. Tôi nhìn vào
thùng xem chồng tôi đốt gì thì thấy
cả mấy chục cuốn sách triết lý
đang cháy. Nào
là Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang
Tử, Platon, Descarte, Hegel, Jean Paul Sartre … và cả
mấy chục cuốn sách thuộc loại nhức
đầu khác nữa.
Toàn là loại sách triết học
Đông Tây kim cổ mà thường ngày
anh quý như vàng ròng, trân trọng
gìn giữ.
Tôi vốn
không lạ gì với hành động
đôi khi gàn dở của chồng vì anh bị
nhiễm nặng các tư tưởng triết
lý, đạo giáo.
Nhưng hôm nay tôi ngạc nhiên, không
hiểu tại sao anh đem những cuốn sách
quý báu đó ra hỏa thiêu và
tôn cậu chó lên chức ngài .
Tôi hỏi
lý do.
Anh đáp rằng:
“Mấy chục
cuốn sách triết học đông tây kim cổ
nầy chẳng ích lợi thiết thực chi cho hạnh
phúc gia đình, cho cuộc sống nhân sinh bằng
cái triết lý tình thương chân thật
của ngài chó đây. Ngài là một
bực tuyệt khôn, đại trí. Loài
người thường kiêu hãnh tưởng
mình khôn ngoan nhất nhưng biết đâu
loài chó nó cười cho thối đầu.
Khôn hơn sao phải lao động cực khổ
để cung phụng, thương yêu, phục vụ
kẻ ăn rồi nằm không ? Loài chó chỉ ban cho loài người chút
tình thương thôi, rồi phè ra
mà sung sướng một đời. Thế
thì ai khôn hơn ai ?”
Chồng tôi
xá thêm cậu chó mấy cái cung kính
lắm. Bao nhiêu sách triết lý đều
thiêu thành tro bụi, tàn bay lả tả .
TRÀM CÀ MAU
(Tuyet Dung sưu tầm, Lữ Bố
chuyển)