PHO TƯỢNG
NGỌC
(Nguyên
tác: LÂM NGỮ
ĐƯỜNG,
Bản dịch:
ĐOÀN DỰ)
Cuôc hành trình ngược
dòng sông Dương Tử tuy vất vả
nhưng rồi cuối cùng tôi cũng tìm
được tới nhà vị quan hồi hưu gần
thành Trường Thủy. Vị đại thần
này là một nhà sưu tầm đồ cổ
nổi tiếng. Người ta kể rằng khi còn tại
chức, ngài thường dùng quyền lực
để chiếm đoạt các tác phẩm
có giá trị. Nếu ưng ý một
tác phẩm nào đó, ngài phải dùng mọi
cách có cho bằng được. Bởi vậy
kho tàng của ngài gồm nhiều thứ vô
giá hiếm thấy trên đời.
Do người bạn có uy
tín giới thiệu, lại kèm theo cả
thư gửi gấm nữa
nên tôi được chủ nhân vui lòng
tiếp tại căn phòng sang trọng của
dãy lâu đài phía tây. Trong khi
đàm đạo, qua khung cửa sổ nhìn ra
vườn, tôi loáng thoáng thấy có những
nụ đào đang chúm chím đơm
bông, và trong lồng kính hình dáng của
một chiếc bình cổ màu huyết bò
trông đẹp tuyệt hảo.
Tôi đề cập tới kho
tàng danh tiếng. Chủ nhân mỉm cười
nhã nhặn :
- Hôm nay nó nằm trong tay
người này, một trăm năm sau lại thuộc
về tay người khác, có ai làm chủ
được cả một kho tàng nghệ thuật
quá một trăm năm đâu. Thật ra, nếu
đúng là một bảo vật, mỗi tác
phẩm phải có đời sống riêng của
nó.
- Nghĩa là nó có sự
sống và có linh hồn?
- Đúng vậy. Bởi
vì người nghệ sĩ đã đổ
vào đấy biết bao nhiêu công phu, truyền
cho nó sự sống, giống như người mẹ
đã truyền những giọt máu và
hơi thở của mình cho cái bào thai
đang nằm trong bụng. Họ đem tâm hồn họ
vào trong tác phẩm, bởi vậy nên
tác phẩm của họ sống và có linh hồn.
Ngài dừng lại một
lát rồi tiếp:
- Thư
của người bạn giới thiệu ông
là người thích cổ vật. Lát
tôi sẽ cho ông coi pho tượng vị nữ thần
bằng ngọc quý nhất của tôi.
Người hầu bưng nước
lên. Sau tuần trà, vị quan hồi hưu đứng
dậy, dẫn tôi lên tầng cuối cùng của
ngôi đài cao chứa các báu vật.
Trong khi đi qua cầu thang lát đá hoa ở
các tầng dưới, tôi thấy không biết
bao nhiêu các bảo vật khác được
giữ gìn, chăm sóc trong các tủ
kính. Riêng pho tượng "có linh hồn
và có đời sống” thì một
mình nó chiếm một gian ở tầng trên
cùng, trong một lồng
kính gắn liền với chiếc bệ làm bằng
cẩm thạch. Cả lồng kính lẫn chiếc bệ
đều được bảo vệ kiên cố bằng
các song sắt mạ kền sáng loáng.
Tôi nghĩ, trộm đạo khó lên
được tới đây, mà dù có
vào được trong phòng thì cũng
khó xoay sở.
- Đó, pho tượng nữ
thần của tôi đó, ông ngắm kỹ đi
và nhớ nhìn vào đôi mắt.
Đó là một pho tượng
nho nhỏ cao khoảng năm mươi nhăm phân, ở
thế đứng, làm bằng loại ngọc
gì trắng muốt ẩn các vân màu xanh
nhạt theo từng nếp áo, mô tả một thiếu
phụ cực kỳ xinh đẹp với gương mặt
có vẻ bi thảm. Một cánh tay nàng
hơi giơ lên, chới với đưa ra đằng
trước như vẫy
gọi, như đau đớn, như từ biệt ; còn
cái đầu và cánh tay kia thì ngả
sang một bên, như sợ hãi, như trốn chạy.
Đặc biệt, cặp mắt nàng ảm đạm
dường như vương vấn một cái
gì đó cực kỳ đau khổ, nuối tiếc.
Tôi rùng mình. Hay đây là Phật
bà Quán Thế âm Bồ Tát giáng thế?
Tôi vừa nghĩ như thế thì bỗng
có cảm giác pho tượng mang sắc thái
của sự cao quý tuyệt đỉnh, ánh mắt
thiết tha chia sẻ những nỗi đau thương
đối với nhân loại. Nhưng khi tôi nghĩ
đó chỉ là một con người thật bằng
xương bằng thịt, gánh chịu những nỗi
đau khổ của trần gian thì tôi lại thấy
đôi mắt dường như xót xa, sâu lắng.
Lạ lùng, với một khối ngọc chỉ lớn
hơn năm tấc, người nghệ sĩ đã truyền vào
đấy cả một linh hồn.
- Tôi đã phải
đánh đổi bao nhiêu ruộng đất
phía tây cho chùa Kê Thanh (Cock-crow: Tiếng
gà gáy sáng) mới có được pho
tượng này!
- Tại sao chùa đó lại
có, thưa ngài?
- Nghe nói do một vị nữ
tu truyền lại từ nhiều đời trước.
- Lạ lùng, một pho tượng
ngọc vô cùng giá trị lại nằm trong
tay một vị nữ tu. Thú thật với
ngài, tiểu sinh kể ra cũng có chút
ít hiểu biết về các cổ vật,
nhưng chưa từng thấy một pho tượng
nào nghiêm túc như vậy.
- Ông dùng hai tiếng
nghiêm túc tôi rất hãnh diện. Từ
khi có pho tượng, tính nết tôi thay đổi,
không còn tham lam vơ vét như trước. Nhiều khi
tôi rất ân hận về những việc
mình đã làm. Còn riêng lý do tại
sao vị nữ tu đó có pho tượng
thì xin mời ông xuống phòng khách
xơi nước, tôi sẽ kể lại sự
tích cho ông nghe.
Chúng tôi đi xuống
bên dưới.
*
Cách đây đã
lâu, lâu lắm, hàng bao nhiêu năm
không ai biết rõ. Mỹ Lan (Mei-Lan) là một
vị tiểu cô nương cực kỳ xinh đẹp,
con gái quan khâm sai đại thần họ Trương
người phủ Khai Phong. Cơ ngơi riêng của
ngài ở đó.
Quan khâm sai lúc ấy giữ chức vụ
Đại pháp quan, thay mặt nhà vua trông coi
về hình pháp, pháp luật của tất cả
các tỉnh phía Bắc, trong đó có phủ
Khai Phong, quê hương của ngài.
Đại pháp quan là người
nghiêm khắc, khó tính về hình luật
nhưng lại rất yêu cô con gái cưng
và có lòng bao dung, che chở đối với
họ hàng. Một hôm, có một đứa
cháu họ ở xa do mẹ dẫn tới. Cậu ta
tên Phố, tức Trương Phố (Chang Po) vì
cùng họ Trương, vai anh của Trương Mỹ
Lan. Trương Phố mười sáu tuổi, hơn
Mỹ Lan hai tuổi, khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
trông rất xinh trai. Vì nhà quá nghèo
nên người mẹ đưa con tới nương
nhờ gia đình vị chú họ ở nơi
kinh thành, mong học được một nghề
nào đó, sau này có kế sinh nhai.
Cùng tuổi thiếu niên,
hai đứa trẻ làm quen với nhau dễ
dàng. Trương Phố thường kể cho cô
em họ khuê các nghe những chuyện nơi
thôn dã, đối với cô là rất lạ
nên cô rất thích. Trương Phố là
cháu nên phu nhân có lòng ưu ái,
đặt cậu lên địa vị tiểu quản
gia, phụ với vị quản gia đã lớn tuổi,
trông nom kẻ ăn người ở trong nhà.
Lúc đầu, phu nhân rất tin ở cậu. Sau,
bà thấy ngã lòng. Bởi vì với
địa vị như vậy
nhưng Trương Phố lại thường hay
quên hoặc không để ý tới trách
nhiệm. Cậu cũng chẳng biết la mắng
các gia nhân phạm lỗi nữa. Cuối
cùng, chán quá phu nhân bèn đổi cậu
ra trông nom những người đang làm
ngoài vườn cho xong chuyện.
Ấy vậy mà Trương Phố
lại có vẻ thích. Bản chất của cậu
là một nghệ sĩ, giàu óc sáng tạo,
có tâm hồn nhạy cảm. Suốt ngày cậu
lang thang ngắm cây cỏ, hoa lá, lắng nghe tiếng
chim hót véo von ở trên các ngọn
cây cao hay thong thả dạo chơi trên những lối
đi ngoắt ngoéo bên cạnh những dòng
suối giả, những hòn non bộ hay các hồ
nhân tạo. Cậu tự vẽ tranh các cảnh
đó không người chỉ dẫn. Những
lúc rảnh rỗi -
mà luôn luôn là rảnh rỗi - cậu vẽ
chán, lấy đất sét nặn các con vật
rất đẹp, giống y như thật. Thỉnh thoảng cậu
cũng làm những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp, kiểu
cách do cậu nghĩ ra, khác với những kiểu
đèn bán ở ngoài phố.
Đến năm Trương Phố
mười tám, Mỹ Lan mười sáu,
chàng vẫn sống nhàn hạ chưa tỏ ra
chú tâm về một nghề gì. Người
chàng cao lớn, tính nết hòa nhã,
ăn nói lại rất lễ độ nên mọi
người trong dinh đều rất quý mến. Quan
khâm sai tin rằng cậu có tài, còn
riêng Mỹ Lan thì một tình cảm nào
đó nẩy nở, quyến luyến không thể
rời xa. Gặp chàng, nàng sung sướng pha
chút e thẹn, song nếu vắng chàng nàng thấy
bâng khuâng mặc dầu nàng hiểu
Trương Phố là anh họ mình, giai cấp lại
quá chênh lệch, không thể tiến tới
hôn nhân.
Một hôm, Trương Phố thưa
với phu nhân rằng chàng đã xin
được một chân học nghề thợ ngọc
tại một cửa tiệm danh tiếng, lớn nhất
trong tỉnh. Chàng xin phép phu nhân cho chàng
tới học, cơm nước ăn tại tiệm, chỉ
buổi tối mới về nhà ngủ, sáng lại
đi, chàng rất thích nghề thợ ngọc.
- Được lắm, rất tốt,
ta có lời mừng cho con.
Phu nhân tự nghĩ
Trương Phố xinh xắn, khéo tay mà Mỹ
Lan lại con gái đã lớn, không nên
để chúng có dịp gặp gỡ nhau nhiều.
Mà đúng như vậy, Trương Phố mắc
đi học việc, Mỹ Lan ở nhà suốt
ngày rất buồn. Mỗi tối chàng về,
thường là rất muộn, nàng mừng ra mặt.
Cứ mỗi khi chàng về nàng luôn luôn
lấy cớ này cớ nọ xuống dãy
nhà sau của các gia nhân, gặp chàng, hỏi
han một vài câu chuyện.
Phu nhân thấy vậy một
hôm bèn gọi nàng vào trong phòng, nhỏ
nhẹ giải thích:
- Mỹ Lan, con nên nhớ rằng
con đã lớn. Mặc dầu anh Phố là anh họ
thật nhưng hai đứa nên giữ gìn, đứng
gặp gỡ, chuyện trò với nhau nhiều kẻo
kẻ ăn người ở hiểu lầm người
ta dị nghị, không tốt.
- Thưa mẹ vâng ạ.
Buổi tối hôm ấy Mỹ
Lan không dám xuống nhà dưới nữa
mà hẹn gặp người anh họ ở
ngoài vườn. Trời dần về khuya, hai người
ngồi với nhau trên chiếc ghế đá
dưới ánh trăng sáng hung linh. Nàng thong
thả kể cho anh nghe những lời mẹ dạy rồi
ngây thơ hỏi:
- Chúng ta là anh em họ, tại
sao mẹ lại cấm không cho gặp nhau, chuyện
trò với nhau ?
Người con trai lộ vẻ suy
nghĩ :
- Đúng đấy em ạ, bởi
vì cả anh lẫn em đều đã lớn,
không nên gặp gỡ.
Người con gái mở to
đôi mắt, nhìn chàng chăm chăm:
- Anh nói thế nghĩa là
sao, em không hiểu
- Nghĩa là ... nghĩa là
em càng ngày càng lớn càng xinh đẹp,
càng có một cái gì đó quyến
luyến, thu hút anh. Anh muốn nói là ... nghĩa
là có một cái gì đó làm
anh say mê em, thèm khát em. Nói chung, một
cái gì đó khiến anh sung sướng khi
được gần em và thẫn thờ đau khổ
khi không gặp em.
- Thế bây giờ, đang ngồi
với em, anh có sung sướng hay không?
- Có, rất sung sướng, hạnh
phúc!
- Tại sao vậy?
Người thanh niên không biết
trả lời thế nào. Chàng choàng tay
lên vai nàng, áp mặt vào mặt
nàng:
- Tại vì ... tại vì
anh hiểu rằng cả linh hồn lẫn tình cảm
chúng ta đã thuộc về nhau, không thể
tách rời ra được nữa Mỹ Lan ạ.
Người con gái ngồi
hơi xích ra, gỡ nhẹ tay chàng:
- Nhưng mình là anh em họ,
không thể lấy nhau …
- Đừng nói như vậy, đừng nghĩ
như vậy.
- Bắt buộc hai ta đều phải
hiểu như vậy.
Người con trai đâm liều,
chàng ôm ngang thân hình nàng, kéo
nàng ngồi lại gần mình:
- Thôi kệ, muốn đến
đâu thì đến, anh chẳng cần hiểu
làm gì cả. Chỉ biết rằng từ khi
khai thiên lập địa anh đã yêu em và em yêu anh.
Trái tim chúng ta đã thuộc về nhau, linh
hồn chúng ta thuộc về nhau, mãi mãi, trọn
đời ....
Vừa nói chàng vừa
áp môi vào mặt nàng, vào cổ
nàng rồi nâng mặt nàng lên, đắm
đuối hôn trên môi nàng. Người
con gái bàng hoàng, sửng sốt. Nàng
ú ớ cố gỡ nhưng một sức mạnh
nào đó lại làm cho nàng cũng
níu lấy chàng, hé môi chờ đợi.
Khi đã thoát ra được, nàng ù
té chạy vào trong nhà, lên phòng
mình, đóng ập cửa, chui vào trong mền,
trùm tới tận đầu kín mít như
người bị bệnh. Ngoài vườn, ánh
trăng vẫn sáng lung linh.
Sự bộc phát của
tình yêu trong tuổi trẻ là một cái
gì đó dữ dội. Nó ghê gớm,
nó cuốn lút, nó xoáy cuộn. Nhất
là khi nó bị một trở ngại nào
đó ngăn cấm, cản trở. Suốt
đêm hôm ấy Mỹ Lan nằm trong mền cứ
trằn trọc suy nghĩ. Nàng nhớ tới lời
dạy của mẹ nhưng cũng sung sướng nhớ
lại các cảm giác cuồng nhiệt khi hai
làn môi áp vào nhau, điên cuồng, khờ
dại. Và, cũng từ đêm ấy, con người
nàng dường như thay đổi hẳn.
Nàng tránh không dám gặp Trương
mà Trương cũng tránh không gặp
nàng.
Nhưng tình yêu càng cố
đè nén bao nhiêu lại càng bộc
phát bấy nhiêu. Được ba bữa, người
con gái chịu thua, nàng tìm xuống dãy
nhà ngang gặp chàng và trở thành một
con người khác: con người của tình cảm,
không phải của lý trí.
Theo phong tục Trung Quốc thời
cổ, cha mẹ có quyền gả con gái cho một
nhà trai nào đó mà họ cho là
môn đăng hộ đối, không cần phải
hỏi ý kiến người trong cuộc. Nhưng
riêng đối với quan khâm sai, phần vì
chỉ có một mình Mỹ Lan là con gái
duy nhất, ngài và phu nhân rất cưng chiều
; phần vì nàng nhất định từ chối,
lấy cớ còn nhỏ nên việc hôn
nhân cứ rùi rắng, nay lần mai lữa
nên ngày tháng cứ qua dần.
Về phần Trương Phố,
chàng tiếp tục học nghề thợ ngọc.
Như một nghệ sĩ
có tài, chỉ ba năm sau chàng đã
thông thạo và đã bắt đầu nổi
tiếng. Ông chủ tiệm ngọc rất quý trọng
chàng. Chính ông cũng phải khâm phục
về những món đồ do chàng làm ra,
nó rất đặc biệt, vượt xa mọi
người khác, không ai sánh bằng. Những
bậc quyền quý dần dần biết tiếng,
năng lui tới tiệm ông, họ mách bảo
nhau đặt hàng thì phải đòi cho bằng
được ông thợ Trương Phố làm.
Trong số các khách quen có cả phu nhân
quan khâm sai nữa. Một hôm, sắp tới kỳ
khánh thọ Hoàng Hậu trong triều, quan
khâm sai có ý tìm một vật thật
quý dâng lên Hoàng Hậu. Ngài suy nghĩ
kỹ và cho người lùng khắp mọi
nơi, kiếm mua được một khối ngọc cực
tốt. Với sự góp ý của phu nhân,
ngài đích thân tới tiệm xem xét
các món đồ do Trương Phố
đã thực hiện. Ngài rất hài
lòng và tin tưởng ở tài năng của
chàng.
- Này con, đây là một
dịp đặc biệt, ta hoàn toàn trông cậy
vào con. Bảo vật đó sẽ được
dâng lên Hoàng hậu. Quà mừng của
quan khâm sai dâng vào triều không phải
chuyện nhỏ. Nếu con làm tốt, được
Hoàng Hậu vừa ý, ngỏ lời khen, danh tiếng
con sẽ lừng lẫy, tiền bạc sẽ đến
với con không gì sánh nổi.
- Vâng ạ.
Quan khâm sai ra lệnh cho gia
nhân đem khối ngọc tới. Trương Phố
xem xét rồi thưa
rằng với khối ngọc tốt như vậy, chàng có thể
tạo một pho tượng Phật bà Quán Thế
Âm Bồ Tát khác hẳn với các pho
khác từ trước tới nay, chắc chắn
Hoàng Hậu sẽ hài lòng.
- Hay lắm, tượng đức
Nữ Bồ Tát giàu lòng quảng đại
sẽ rất hợp ý Hoàng Hậu.
- Nhưng khi con làm, xin thúc
phụ tin tưởng ở con, đừng cho người
khác đến quan sát, con làm không nổi.
- Được, ta chấp nhận.
Ông chủ tiệm chuẩn bị
cho chàng một căn phòng riêng, cấm
không cho ai được lui tới. Trương Phố
bắt đầu vào việc. Ba tháng sau,
chàng hoàn tất. Pho tượng có hình
dáng theo quy ước nhưng đẹp tuyệt trần
với khuôn mặt và thân hình nhang
nhác giống người chàng yêu quý.
Đặc biệt, hai chiếc khuyên đeo hai bên
nhánh tai pho tượng có thể xoay tròn
được, không có chỗ ráp nối.
Điều này cực kỳ công phu, tỉ mỉ.
Những đường nét thanh tú do
Trương Phố sáng tạo buộc mọi người
phải xuýt xoa khen ngợi. Riêng quan khâm sai
thì rất sung sướng, ngài nghĩ
đây là một tác phẩm không tiền
khoáng hậu, ngay trong cung từ trước đến
nay cũng không hề có. Ngài trả công
cho tiệm rất hậu và thưởng Trương
Phố một gói bạc thật lớn ngoài sức
tưởng tượng của chàng.
- Đẹp lắm, Trương Phố!
Danh tiếng con sẽ lừng lẫy. Khi ấy con sẽ
nghĩ rằng đây là dịp may ta đã
đem đến để con có dịp thi thố
tài năng của mình. Nhưng … sao ta thấy
dường như nét mặt pho tượng hơi giống
với con Mỹ Lan nhà ta?
Trương Phố trả lời một
cách hãnh diện :
- Thưa vâng, tại vì em Mỹ
Lan đẹp nên trông giống pho tượng.
Sau khi dâng lên Hoàng Hậu,
món quà được Hoàng Hậu hết lời
khen ngợi và truyền cho quan khâm sai chuyển phần
thưởng của Hoàng Hậu cho người thợ
ngọc. Danh tiếng Trương Phố nổi như cồn.
Nhưng tiếng tăm, tiền bạc
đối với chàng thảy đều vô nghĩa.
Cái mà chàng luôn luôn mơ ước không nằm
trong tầm tay. Chàng mất hứng thú làm việc.
Về phần Mỹ Lan, nàng bị
mọi người thì thầm rằng đã
hăm mốt tuổi mà chưa chịu lập gia
đình. Quan khâm sai và phu nhân quyết
định nhận lời một chỗ sang trọng, thế
lực không kém gia đình ngài. Mỹ Lan
không viện cớ gì trì hoãn được
nữa, lễ vấn danh cử hành trọng thể,
sau đó sẽ tới lễ cưới.
Quá thất vọng, người
con gái bàn với người con trai:
- Chúng ta phải trốn đi
thật xa anh ạ. Trốn tới nơi nào không
ai biết được gốc gác của mình.
Anh sẽ làm nghề thợ ngọc còn em
thì cũng có một số nữ trang, chúng
ta không thể đói được.
- Anh cũng nghĩ thế. Nếu
trốn ta phải trốn trước, đừng để
nước đến chân rồi mới nhảy e sẽ
không kịp.
Họ chuẩn bị, hẹn nhau nửa
đêm hôm sau sẽ gặp gỡ tại khu vườn
phía sau, leo qua bức tường để trốn.
Không may cho họ, một người đầy tớ
già vẫn giữ nhiệm vụ canh gác ban
đêm trông thấy. Ông ta rất kính trọng
Mỹ Lan và quý mến Trương Phố
nhưng có bổn phận phải bảo vệ danh dự
gia đình nhà chủ, bèn giữ lại:
- Thưa tiểu thư , xin tiểu
thư vui lòng để
tôi vào bẩm với phu nhân đã. Nếu
phu nhân cho phép, bấy giờ tôi sẽ mở
cổng mời tiểu thư
đi.
- Không, ta cần đi gấp,
không thể xin phép mẹ ta!
- Tôi là kẻ ăn người
làm, phải giữ thanh danh cho nhà chủ.
- Hãy để ta đi, ta
chính là chủ của ngươi.
- Vâng, tiểu thư là chủ
nhưng tôi phải mời tiểu thư cùng
vào để tôi bẩm với phu nhân
đã.
Hai bên giằng co nhưng
không dám lớn tiếng vì sợ làm kinh
động mọi người trong dinh. Trương Phố
cùng đường, đành đánh liều
ôm chặt lấy ông già, một tay bịt miệng
ông ta với ý định ngăn cản để
Mỹ Lan leo lên tường trước, nàng
thoát thân xong chàng sẽ leo sau. Không ngờ
ông già cũng là người khỏe, gỡ
tay chàng ra được, bèn quay lưng định
chạy để khua mõ báo động.
Trương Phố bắt buộc phải chạy theo, nắm
lấy ông ta không cho tri hô. Bất ngờ,
ông già mất đà, ngã đâm sấp
xuống đất đập đầu phải một cục
đá lớn. Một tiếng "hự"' vang
lên, thân hình ông ngã vật, chân
tay dãy dụa rồi nằm im bất động.
Trương Phố hoảng hốt
ngồi xuống xem xét vết thương. Một dòng máu nhỏ rỉ
ra dưới chân những sợi tóc bạc.
Ông ta ngã trúng chỗ phạm, đã chết.
Mặt Mỹ Lan tái ngắt:
- Làm thế nào bây giờ
hả anh?
Trương Phố cũng run lập
cập:
- Anh cũng không biết. Phải
trốn đi ngay lập tức kẻo rất nguy hiểm.
- Nhưng ... để xác
già Tài thế này hay sao?
- Cũng đành phải vậy.
Trốn mau thôi kẻo người khác biết
thì chết...
Người con gái vừa gạt
nước mắt vừa run rẩy nhặt chiếc
túi xách rớt trên mặt đất.
Trương Phố đỡ nàng lên đầu
tường rồi chàng leo sau. Thoát sang được
phía bên kia, họ bèn vội vàng trốn
đi. Gần trưa hôm sau người ta mới
phát hiện ra xác chết của ông già
giữ vườn, bèn tri hô lên và
vào bẩm với ông bà chủ. Đến
khi coi lại, cả Trương Phố lẫn Mỹ Lan
đều đã biến mất.
Quan khâm sai đau đớn ra lệnh
cho người quản gia:
- Cần giấu kín việc
này trước đã. Còn hai đứa khốn
nạn làm bại hoại gia phong...
Ngài giận tái mặt,
ánh mắt gần như
toé lửa:
- Ta sẽ ra lệnh đào bới
khắp mặt đất, phải bắt bằng
được cả hai đứa đó đem về
chặt đầu.
*
Về phần đôi thanh
niên nam nữ, sau khi đã trốn ra khỏi Khai
Phong họ cải trang thành hai người lái
buôn nghèo khổ rồi cứ đi, đi
mãi, tránh những nơi đông dân
cư. Họ tránh cả các bến sông lớn
vì sợ bị đón bắt. Cuối cùng,
đi không biết đã bao nhiêu đường
đất, họ tới bờ sông Dương Tử,
con sông ranh giới giữa miền Bắc và miền
Nam. Đến đây coi như đã thoát, họ mừng rỡ
nhưng vẫn thận trọng thuê thuyền ở một
bến vắng, qua sông rồi lại đi nữa,
hơi chếch sang phía tây.
Mấy tháng sau, thấy
đã xa lắm, Trương Phố bàn với vợ
:
- Nghe nói ở Giang Tây
có nhiều ngọc tốt. Hay hai vợ chồng mình
đến đó?
- Trời đất ơi,
chàng chưa sợ hay sao mà còn nói tới
ngọc? Không, phải đi xa nữa và đừng
nghĩ tới chuyện đó.
- Nhưng mình đã
bàn với nhau, em có nữ trang, anh làm nghề
ngọc để sống.
- Đấy là trong trường
hợp mình trốn đi bình thường. Đằng
này già Tài đã chết, mọi người
đều tin chắc mình giết ông ta, việc
truy lùng càng nghiêm ngặt hơn. Em nghĩ
mình phải đi thật xa xuống miền Nam, tới
một nơi nào đó hẻo lánh, anh sẽ
làm các thứ tầm thường như đèn lồng hay nặn
các con vật bằng đất sét để
bán thì không ai nhận ra được.
- Sao, anh mà làm đèn
lồng và nặn các con vật đất
sét?
- Đúng thế, em rất lo sợ.
Chúng ta mang án sát nhân không thể chối
cãi vào đâu được. Anh cần nghĩ
tới mạng sống của cả hai vợ chồng.
- Em hơi lo xa quá đấy.
Giang Tây cách miền Bắc tới hàng
ngàn dặm, họ nói tiếng Nam, chẳng ai
để ý tới hai vợ chồng một tên
thợ ngọc nghèo nàn. Mà họ cũng
không biết mình là người Bắc ...
Mỹ Lan thấy hợp lý,
nàng đấu dịu :
- Thôi được, anh
làm nghề ngọc cũng được nhưng ta cần
đi xa hơn nữa, và khi làm thì anh phải
hạ thấp mức độ, đừng tạc những
tượng đắt giá kẻo người ta biết.
Họ không dám sống ở
Nam Xương, thủ phủ của tỉnh Giang Tây
mà xuống Kế An, một thị trấn nhỏ nằm
hơi xích vê phía biển, gần giáp với
tỉnh Giang Tô.
Ở Giang Tây có một loại
đất sứ (porcelain) và loại đất
sét trắng (white kaolin) nổi tiếng. Kế An tuy hẻo lánh
nhưng vẫn thuộc địa phận tỉnh Giang
Tây, có thể mua được hai thứ đó một cách dễ
dàng.
Người vợ nhắc nhở
chồng:
- Anh nên đổi sang làm
đồ sứ. Cần lắm thì nặn những
tượng bằng đất sét trắng, bảo
đảm hơn nhiều.
- Đã lo thì ngay cả
làm đồ sứ hoặc đất sét trắng
họ vẫn nhận ra anh. Anh đã nói đến
đây là xa lắm rồi, chẳng ai biết hai
đứa chúng mình. Anh sẽ giấu kín
tên tuổi.
Với vốn liếng của vợ
và số tiền mình đã để
dành được khi còn làm trong tiệm ở
phủ Khai Phong, Trương Phố mua một căn
nnà nhỏ ở ngoài ngoại ô, sau
đó mua một số đá ngọc để mở một cửa
tiệm nho nhỏ, vừa làm vừa trưng bày
để bán.
Hàng ngày Mỹ Lan áy
náy không yên tâm vẫn thường quan
sát các phẩm vật do chồng làm ra,
và nàng cằn nhằn:
- Khổ, anh lại cứ quen tay
làm đẹp thế này là hết sức
nguy hiểm. Phải làm kém đi mới
được.
Trương Phố nghe lời vợ,
bèn làm những vật thông thường
như vòng cẩm thạch,
các xâu chuỗi và nhẫn các loại.
Nhưng ngọc là thứ đá quý thường
ở dạng khối, phải dựa theo kích thước
để tạc các vật lớn trước, sau
đó mới sử dụng mảnh vụn vào việc
làm các đồ vật lặt vặt. Mà,
muốn tạc vật lớn tức là đã
bước vào địa hạt nghệ thuật, phải
có năng khiếu và sự sáng tạo,
không thể làm kém đi được. Mỗi
nghệ sĩ có khả năng riêng của
mình, người không có tài muốn
có tài khó khăn thế nào thì
người có tài muốn hạ thấp cái
tài đó xuống cũng khó khăn
như thế.
Trương Phố đã lén vợ làm những
con khỉ ăn cắp trái đào hoặc bẻ
trộm ngô với nét mặt ranh mãnh, dễ
thương hoặc làm những con chó ngồi ngủ
gật nhắm mắt để đấy, những con mèo con
thè lưỡi nhớ mẹ.
Lúc
đầu Mỹ Lan có vẻ không bằng
lòng, rầy la luôn miệng. Sau, hàng bán
chạy quá nàng cũng lờ đi coi như
không biết.
- Ôi, anh yêu, anh lại bắt
dầu nổi tiếng rồi đấy, em rất lo ngại.
Tụi mình sắp có "tin mừng", anh
nên thận trọng.
Tin mừng ? - A, một đứa
con! Trương Phố chợt hiểu và chàng
sung sướng reo lên, ôm chầm lấy vợ giống
như một đêm nào đó dưới
ánh trăng sáng lung linh:
- Ô, một chú bé xinh xắn!
Bây giờ thì mình sắp có thêm một
"nhân khẩu” nữa, không còn cu ky hai đứa
như trước.
- Và tụi mình cũng
ăn nên làm ra nữa, hàng bán được
quá!
Đúng là họ ăn
nên làm ra thật. Chỉ mới hơn một
năm kể từ ngày tiệm Bảo Hồ
được thành lập, danh tiếng các đồ
ngọc của tiệm Bảo Hồ đã nhiều
người biết. Khách hàng từ những
nơi lân cận đến mua buôn phải tranh
nhau đặt tiền trước vì ông chủ
tiệm làm không kịp. Rồi các khách
du lịch từ Nam Kinh xuống hay Giang Tô lên,
đi qua Kế An thế nào cũng phải dừng lại,
ghé tiệm Bảo Hồ mua một vài vật
làm kỷ niệm. Chẳng bao lâu Kế An trở
thành một thị trấn nổi tiếng với ngọc
Bảo Hồ, ai cũng muốn tới. May mắn hơn nữa,
ít lâu sau Mỹ Lan sinh được một đứa
con trai xinh xắn. Vợ
chồng nàng trở thành khá giả,
đã có bát ăn bát để.
Một hôm, một người
đàn ông bước vào trong tiệm sau khi
đã quan sát các đồ ngọc bầy
trong tủ kính bên ngoài:
- Ông có phải là
ông Trương Phố, bà con với quan khâm
sai họ Trương ở phủ Khai Phong miền Bắc
không?
Trương Phố giật
mình ngửng lên, lắc đầu:
- Không, tôi không phải
người phủ Khai Phong.
- Nếu vậy tại sao ông
nói tiếng Bắc?
- Chẳng lẽ cứ người
Khai Phong mới nói tiếng Bắc? Còn thiếu
gì nơi khác nữa.
- Ông đã có vợ
con chưa?
Trương Phố rất run
nhưng vờ nổi giận:
- Có hay không là việc
của tôi, không liên quan gì tới ông,
tại sao ông lục vấn?
Người đàn ông xin lỗi
rồi rút lui.
Lúc ấy Mỹ Lan đang ở
trong nhà trong, nghe cách nói chuyện hơi lạ
bèn bế con nhìn qua khe cửa. Lúc người
đàn ông đã đi khỏi, nàng lo lắng
bảo chồng đó là tay lục sự
làm trong tòa án dưới quyền cha
nàng.
- Em lo lắm, chỉ sợ những
đồ bằng ngọc đã làm lộ
nhân tướng hai đứa mình.
- Đừng sợ, rồi anh sẽ
liệu. Bất quá ta lại chạy trốn lần nữa
là cùng chứ gì!
Hôm sau, người đàn
ông trở lại. Trương Phố làm bộ tức
giận:
- Tôi đã nói tôi
không biết Trương Phố nào đó của
ông, tại sao ông cứ quấy rầy tôi
mãi?
- Được lắm, nếu
ông không biết để tôi kể cho ông
nghe. Trương Phố là một tên sát
nhân đang bị truy lùng. Y là cháu gọi
quan khâm sai bằng chú họ, được
ngài nuôi trong nhà, giúp đỡ mọi mặt.
Nhưng y phụ ơn, quyến rũ vị tiểu
thư con gái của ngài, trốn đi với nhiều
nữ trang đắt giá. Người làm vườn
biết, giữ y lại, y giết ông ta. Tội của
y đáng chém đầu nhưng quan khâm sai thầy
tôi ra lệnh bắt sống nên tôi chưa tiện
ra tay. Tôi đã xem kỹ các đồ ngọc
của ông, ngoài Trương Phố ra không ai
làm nổi.
- Thiên hạ không có
người này thì có người khác,
đâu phải chỉ một mình Trương Phố
của ông mới là người giỏi?
Chán vạn người khác còn giỏi
hơn nhiều.
- Hay lắm, nếu vậy xin
ông cảm phiền nhờ phu nhân đem ra cho
tôi một tách nước. Tôi biết mặt
tiểu thư con gái
quan khâm sai. Nếu không đúng bấy giờ
tôi sẽ chịu lỗi với ông và xin
đi ngay lập tức.
Y đề nghị rất hợp
lý, Trương Phố không viện lý do
nào khác từ chối được nữa
nên bèn nói dối :
- Nhà tôi mắc dẫn mấy
đứa nhỏ sang bên quê ngoại ăn giỗ.
Cỡ ba hôm nữa nàng về xin mời ông tới.
- Được, tôi sẽ
đợi.
Người đàn ông
đi khỏi, vợ chồng Trương Phố bàn
tính với nhau, vội vàng thuê một con thuyền,
thu xếp các vật dụng, ngay đêm hôm ấy
bỏ nhà, xuống thuyền chạy trốn xuôi
theo dòng sông. Không hiểu do người hay do
lòng trời bày ra cớ sự, sau hơn một
tháng trốn chạy, bồng bềnh trên sông
nước, tới Cẩm Sơn thì thằng bé
bị bệnh, phải kêu nhà thuyền dừng lại
bốc thuốc. Tiền cạn, Trương Phố
đem đi bán một trong những bảo vật
chàng đã làm: một con chó con bằng
ngọc ngồi ngủ gật, một mắt nhắm, một
mắt mở, một tai cúp, một tai vảnh
trông rất tức cười.
Người mua là ông Vạn,
một lái buôn ngọc rất tử tế
và thạo nghề:
- Chà, ngọc Bảo Hồ ở
Kế An bên Giang Tây đây mà. Theo tôi
biết, chỉ có tiệm Bảo Hồ ở Kế
An mới làm được những thứ này.
Tôi đang muốn mua nhưng nghe nói họ
đã đóng cửa. Làm sao ông lại
có được mà đem bán?
Trương Phố trả lời một
cách hãnh diện:
- Ông tinh lắm. Đúng
là ngọc Bảo Hồ thật. Trước
đây tôi có người bạn đi Kế
An bèn nhờ anh ta mua gùm, bây giờ cần tiền
đem bán.
*
Cẩm Sơn hay còn gọi
là Cam Tuyền (Kanshien) là một thị trấn
khá sầm uất, phong cảnh một bên có
sông, một bên có núi rất đẹp.
Lúc ấy đã là mùa đông, đứa
trẻ đã bình phục, Trương Phố
không biết đi đâu bèn bàn với vợ
ở lại nơi này, thuê một ngôi
nhà thật xa và chàng đem bán một số
đồ ngọc.
- Ủa, nhà còn tiền,
chàng bán ngọc làm gì?
- Chúng ta lại mở một cửa
hàng như ở Kế An.
- Mở tiệm đồ sứ,
đồ đất sét trắng hay đồ ngọc?
- Đồ ngọc.
- Trời đất ơi,
chàng vẫn còn nghĩ đến ngọc. Lần
trước em đã khuyên can chàng không
nghe lời, suýt bị nguy hiểm. Đã
thoát đuợc rồi thì phải giữ
gìn, đừng nghĩ
tới ngọc nữa.
Rồi nàng nói thêm:
- Chẳng lẽ đối với
chàng ngọc còn giá trị hơn cả
tính mạng em và con? Hãy cứ từ từ,
chờ cha bớt giận bấy giờ chàng trở lại
nghề ngọc, em không dám giữ.
Trương Phố thấy vợ
nói có lý nên bèn nghe lời.
Chàng sắm các dụng cụ, lập lò nung
rồi mua một số đất sứ đất
sét loại tốt, đem về nặn hàng
trăm tượng Phật và các thứ
khác, phơi đầy trong sân, chờ đưa
vào lò. Nhưng những lúc rảnh, gặp
các lái buôn trên "con đường ngọc"
chạy dài từ các dãy núi lớn thuộc
địa phận tỉnh Giang Tây, băng ngang tỉnh
Quảng Đông, xuyên qua Kế An, Cẩm Sơn rồi
tới các đồng bằng phì nhiêu ở
phía đông nam, chàng rất thèm khát
được sờ tay vào thứ đá
quý đó.
Một lần, lang thang vào trong
thành phố, dán mắt trước các tủ
kính sang trọng người ta bầy bán những
vật bằng ngọc tầm thường, Trương
Phố thấy xót xa đau đớn. Về
nhà, ngó mấy đám tượng đất
sét chưa nung ướt rình trông mới
đáng chán làm sao! Chàng giận dữ
vung tay đập bẹp mấy pho tượng, nghiến
răng, hằn học :
- Đồ đất bùn! Tại
sao ta phải nặn mi trong khi ta đã từng tạc
được tượng ngọc trong cung đình?
Ta, Trương Phố, ta muốn tạo nên những
tác phẩm để đời, không cần
đến tính mạng của ta nữa.
Biết chồng đã
phát điên, Mỹ Lan ứa nước mắt
khe khẽ lắc đầu:
- Chàng yêu nghề ngọc hơn chính bản
thân mình, rồi những thứ đó sẽ
giết cả hai
chúng ta. Em biết nhưng không làm thế
nào được.
Một hôm, người lái
buôn tên Vạn hỏi thăm, tìm được
nhà của Trương Phố, bèn mời
chàng ra quán uống rượu với mục
đích nhờ chàng xem giúp một vài
món ngọc.
- Ông coi này, tôi mới
đi Kế An về…
Ông ta vừa nói vừa mở
một chiếc hộp gói ghém cẩn thận:
- Đúng là tiệm Bảo
Hồ đã đóng cửa thật nhưng
tôi mua được những thứ này ở một
tiệm khác, họ cam đoan là ngọc Bảo Hồ.
Nhờ ông coi giùm ...
Mấy thứ đó quá vặt
vãnh, Trương Phố làm bộ không biết
gì về ngọc. Nhưng khi ông ta đưa ra con
khỉ màu hồng ăn cắp trái đào
thì chàng nổi giận thực sự:
- Hừ, đồ giả mạo!
- Vâng, có lẽ họ giả
mạo thật. Tôi cũng hơi nghi vì thấy
nó không tinh tế, không có hồn nhưng
không có cách chi kiểm chứng được.
Có lẽ ông rất rành về ngọc?
- Vâng, tôi biết chút
ít.
- Tôi quên chưa nói với
ông, hồi nọ ông để cho con chó,
tôi bán giá một gấp đôi mà họ
vẫn tranh nhau mua. Nếu đem lên Nam Kinh chắc lại
càng lời hơn nữa. Ông còn thứ
nào đúng ngọc Bảo Hồ xin để cho
tôi. Bất cứ giá nào tôi cũng mua.
Đầu óc Trương Phố
đang bận rộn với con khỉ bị giả mạo
nên không để ý đến lời ông
Vạn nói. Chàng hậm hực:
- Tôi sẽ cho ông thấy một
con khỉ thứ thiệt của tiệm Bảo Hồ
thì phải như thế
nào!
Chàng dẫn ông Vạn về
nhà và đưa cho coi con khỉ bằng hồng
ngọc ăn cắp trái đào do chính
chàng làm hồi trước. Ông ta năn nỉ
đòi mua bằng được. Chàng nể lời
bèn bán.
Đem con khỉ lên Nam
Xương, ông Vạn hí hửng khoe với
các bạn cùng cánh nhà buôn. Họ rất
ngạc nhiên:
- Lạ nhỉ, một chủ
lò gốm tại sao lại có ngọc Bảo Hồ?
- Có lẽ ông ta còn nhiều,
tôi đã mua được hai con.
Từ đấy tiếng đồn
lan rộng trong cánh lái buôn vì họ
đều rất thèm khát loại ngọc Bảo
Hồ nay không còn nữa. Họ luôn luôn
lui tới, bàn tán với nhau. Sáu tháng
sau, người lục sự đi với ba người
lính, tìm tới tận nhà bắt
Trương Phố và Trương Mỹ Lan.
- Được, tôi sẵn
sàng đi với các ông về Khai Phong chịu
tội. Nhưng đường sá xa xôi, các
ông cho phép tôi thu xếp các món đồ
quý.
- Còn tôi thì cũng phải
đem theo đồ dùng cho con tôi. Mấy người
nên nhớ dù sao nó cũng là cháu ngoại
quan khâm sai. Nếu mấy người bức
bách, tôi không đem đủ, nó đau ốm
dọc đường mấy người chịu
trách nhiệm.
Viên lục sự đã
được quan khâm sai ra lệnh đối xử
tử tế nên cũng e dè không dám hối
thúc. Còn mấy người lính, thấy
“ông thầy” của mình như vậy họ chỉ canh
gác sơ sơ ở phía bên ngoài, mọi
việc đã có ông thầy quyết định.
Vợ chồng Trương Phố thu xếp ở
nhà trong. Chuẩn bị đâu đấy xong
xuôi, người vợ cột chiếc ruột tượng
đựng các bảo vật vắt chéo trên
ngực chồng rồi mở chiếc cửa sổ
phía vườn sau, khẽ hất hàm ra hiệu.
Trương leo lên, phóng mình qua cửa.
“Nhớ đừng bao giờ
đụng tới ngọc nữa!”, nàng dặn.
Chàng khẽ gật đầu. Khi chân đã
chạm xuống đất, khu vườn có nhiều
lối đi ngoắt ngoéo ăn thông với
các ngõ xóm, chàng biết đã
thoát thân nên bèn ngoái đầu nhìn lại, có
ý từ biệt vợ và đứa con thân
yêu suốt đời khó mong gặp nhau. Mỹ
Lan đau đớn, thân hình dường
như chới với, một
tay hơi giơ lên cao, đưa ra đằng trước,
đầu và cánh tay ngả sang một bên,
như kiệt quệ,
như níu kéo,
như vĩnh biệt, như
xót xa cho thân phận trăm năm cay đắng.
Thấy họ thu dọn quá lâu, người lục
sự nóng ruột đi vào thúc giục
thì thấy Trương Phố không còn đấy
nữa, chàng đã trốn mất.
*
Mỹ Lan và đứa con nhỏ
được đưa về Khai Phong. Mẹ nàng
đã qua đời từ lâu, cha nàng nay
đã quá già nhưng vẫn oai vệ. Khi
nàng lạy chào, ngài im lặng, nét mặt
buồn bã, trên môi không một nụ
cười. Người nữ tì bế đứa trẻ
đến bên cạnh, nàng cầm tay con giúp
nó phủ phục làm lễ tương kiến
ông ngoại, quan khâm sai tuy vẫn ngồi yên
trên ghế nhưng nét mặt hơi có
tươi lên được một chút. Đứa
bé xinh quá, giống cha và mẹ như đúc. Ngài hơi
nhúc nhích, chìa một ngón tay ra cho
nó nắm lấy tay ông ngoại. Người lục
sự cúi rạp đầu xuống đất nhận
tội, trình bày lại việc đã để
cho tên tội phạm trốn thoát. Ánh mắt
ngài lộ vẻ đăm chiêu, dường
như lưỡng lự
:
- Thôi được, chuyện
đó tính sau. Có lẽ ta chẳng bao giờ
tha thứ cho nó, tiếp tục ra lệnh tìm
nó đem về đây chém đầu.
Hãy thông báo là ta treo giải thưởng
cho người nào hoàn thành công việc.
Đoạn, ngài lẩm bẩm
như muốn xác
định lại một lần nữa :
- Cái thằng vô ơn bạc
nghĩa, phá hoại gia càng nhà ta, lại
còn phạm tội giết người. Ta tiếp tục
ra lệnh truy nã, không thể tha thứ cho
nó.
Người đàn ông lại
cúi rạp đầu tuân lệnh.
Thời gian dần dần trôi
qua, vẫn không có tin tức gì về
Trương Phố. Một hôm, có quan tổng
đốc họ Dương cai trị vùng Quảng
Đông và đoàn tùy tùng trên
đường tiến kinh, ghé phủ Khai Phong
thăm bạn. Quan khâm sai rất mừng bèn ra lệnh
làm một tiệc lớn thết đãi. Trong khi
ăn uống, quan tổng đốc tiết lộ rằng
tiến kinh lần này ngài có đem theo một
pho tượng ngọc quý giá làm quà
dâng lên Hoàng Hậu, vì ý bề
trên muốn có một pho tượng nữa
cùng kích thước với pho tượng quan
khâm sai đã dâng ngày nào cho đủ
cặp. Tuy nhiên, theo ngài nghĩ, kích thước
tuy giống nhau nhưng có lẽ pho của ngài
đẹp hơn. Tất cả mọi người
trên tiệc đều rất ngạc nhiên. Họ
cho rằng pho tượng của quan khâm sai ngày
trước là đẹp nhất rồi, không thể
có pho nào đẹp hơn được nữa.
Vị quan cai trị vùng Quảng
Đông vuốt râu mỉm cười hãnh diện:
- Được, nếu quý bằng
hữu không tin, lát tôi sẽ cho đặt
ngay lên bàn này để quý vị nhận
xét.
Sau bữa tiệc, nữ tì
dâng trà. Quan tổng đốc giữ lời hứa
bèn bảo dẹp qua một bên rồi cho người
hầu bưng vào một chiếc hộp lớn bằng
gỗ quý, các góc cẩn ngọc.
Đích thân ngài tự tay mở hộp
và đặt lên bàn :
- Đây, pho tượng Nữ
thần Từ bi (The Goddess of Mercy) của tôi
đây, quý vị xem đi !
Mọi người trợn
tròn mắt kinh ngạc. Ngay cả đứa nữ
tì đang bưng khay trà cũng sửng sốt.
Nó liếc mắt ngó trộm pho tượng rồi
bí mật vào trong nhà báo với tiểu
thư Mỹ Lan. Qua bức
rèm mở hé, nàng
đang dán mắt nhìn thật kỹ những
đường nét tuyệt hảo, mặt tái
mét, miệng lẩm bẩm nói như trong mơ: "Đúng,
chính là chàng !...".
- Vị nghệ sĩ nào
mà khủng khiếp đến thế, thưa quan
huynh?
Quan tổng đốc cười
kiêu hãnh, tay vuốt râu, cố tình chậm
rãi để mọi người phải sốt ruột
:
- Khoan đã, chuyện này
hơi lạ, từ từ rồi tôi kể hầu
quý vị.
Ngài chiêu một miếng
nước, sau đó mới hắng giọng cho
thêm phần long trọng:
- Người nghệ sĩ ấy
không phải là tay tầm thường. Chỉ hiềm
một nỗi tôi không biết tên chàng
nên không thể mách với quý bạn
được !...
Rồi ngài bắt đầu kể:
- Tôi gặp chàng trong một
trường hợp đặc biệt. Đứa
cháu gái phu nhân nhà tôi đi dự lễ
cưới. Nó mượn của phu nhân nhà
tôi một cặp vòng ngọc gia truyền, phu
nhân tôi rất quý, ít dám dùng
đến. Cặp vòng này hoàn toàn giống
nhau, trên mặt khắc hình tứ linh theo kiểu
cách riêng khó ai làm nổi. Chẳng may con
bé lỡ tay làm vỡ mất một chiếc.
Nó sợ lắm, khóc lóc rồi cho gia
nhân đi khắp nơi tìm các thợ giỏi
để làm chiếc khác vì nó biết
cô mẫu rất tiếc. Nhưng ai xem xong cũng
nói thật rằng họ làm không nổi. Cuối
cùng, vị quản gia bèn bày kế rằng
chỉ còn một cách duy nhất là dán
yết thị ở nơi đông người như
các tiệm trà hay các ngã tư chẳng
hạn, treo tiền thưởng thật lớn may ra kiếm
được người giỏi. Con bé nghe theo.
Ít lâu sau, một người nghệ sĩ tự
động tìm tới.
Ông ta còn trẻ, ăn mặc
tầm thường gần như nghèo khổ khiến con
bé hơi thất vọng. Nó nghĩ một
người có tài thì phải giàu hoặc
ít nhất cũng có đời sống
tương đối dễ
chịu. Xem xong, ông ta hỏi : "Tiểu thư muốn
làm một chiếc giống như thế này hay
làm hai chiếc đẹp hơn?". Nó ngạc
nhiên hỏi lại : "Liệu tiên sinh có thể
làm đúng như thế được
không? Tiểu nữ sẽ thưởng thật lớn
còn tiền công thì tiên sinh muốn
tính bao nhiêu cũng được”. Ông ta bật cười:
"Đối với tôi việc đó chẳng
có gì khó. Tôi đã từng tạc
được cả các pho tượng ngọc trong
cung đình. Nếu tôi làm xong, tiểu thư
phân biệt nổi hai chiếc với nhau hoặc
có điều chi không vừa ý, chỉ
chê một tiếng tôi sẽ không dám lấy
công và sẽ bồi thường tiền ngọc
đã dùng".
Quả nhiên, sau khi làm xong,
hai chiếc vòng giống nhau y hệt, con bé rất
mừng. Lúc nó đem trả, chính phu
nhân nhà tôi cũng không phân biệt
được chiếc nào cũ, chiếc nào mới.
Nghe nó nói chuyện, tôi ngạc nhiên lắm,
cầm lên coi thì cũng không phân biệt
nổi. Tôi trách nó tại sao không hỏi
kỹ danh tánh của vị tiên sinh đó,
nó nói nó có hỏi nhưng ông ta chỉ
trả lời: "Tôi là kẻ không nhà
không cửa, có chút chuyện riêng
không được quyền nêu danh tánh. Khi
nào cần, tiểu thư
cứ cho người tới tiệm trà quen ở
gần chợ, nhắn "người thợ ngọc
vô danh" tôi sẽ xin đến".
Quan tổng đốc ngừng lại
một lát rồi tiếp:
- Khi biết đức Hoàng Hậu
muốn có một pho tượng nữa, tôi
bèn nghĩ ngay tới vị tiên sinh đó bởi
vì vẫn nhớ câu nói của ông ta:
"Tôi tạc được cả các pho tượng
ngọc trong cung đình". Một mặt tôi cho
đi tìm ông ta, một mặt ra lệnh cho
các lái buôn ngọc suốt một dải
trên "con đường ngọc" từ Giang
Tây xuống tới Quảng Đông phải
tìm kiếm mua giùm tôi một khối ngọc
cực tốt tôi có việc dùng. Quý vị
biết không, khi vị tiên sinh đó tới,
ông ta vẫn ăn mặc tầm thường, điệu
bộ lấm lét như
người phạm tội khiến tôi động
lòng trắc ẩn. Tôi nói rõ ý mình
và mô tả hình dáng pho tượng
trước đây của Trương huynh đã
dâng Hoàng Hậu, ông ta lại càng tỏ
vẻ sợ hãi hơn nữa. Nhưng khi nhìn thấy
khối ngọc, mắt ông ta sáng lên
như không thể rời
ra được. Cuối cùng, ông ta ngồi xuống
đặt tay lên khối đá khiến tôi hồi
hộp.
Tôi hỏi: "Sao, đủ tốt
không?". Ông ta ứa nước mắt: "Bẩm
thượng quan, suốt đời tôi chỉ mơ
ước có lần được sờ tay lên
một khối đá tuyệt vời như thế này. Tôi sẽ
tạo nên một pho tượng vô tiền
khoáng hậu ngay chính thượng quan cũng
chưa từng thấy. Pho tượng đó sẽ
vô giá, công lao của tôi cũng vô
giá nên ngài sẽ không tnể trả
công được cho tôi. Tôi sẽ không
nhận của ngài một xu nhưng bù lại,
ngài phải để cho tôi được tự
do làm theo ý mình trong khi thực hiện. Về
phần khối ngọc, tôi xin lấy cái đầu
của tôi ra bảo đảm là ngài sẽ
ưng ý" - Tự do? Tôi biết những ng
ười nghệ sĩ phải có tự do thì mới
phát huy được trí tuệ, sáng tạo
được những tác phẩm giá trị
muôn đời. Bởi vậy tôi đồng
ý và vị tiên sinh đó bắt tay
vào thực hiện.
Ba tháng sau - tôi nghĩ muốn
xong ít nhất phải năm hay sáu tháng -
ông ta đã hoàn tất và đem lên
phòng khách, đặt trước mặt tôi
với vẻ hãnh diện: "Thưa đây, bẩm
thượng quan, tác phẩm của tôi
đây!". Chao ôi, nhìn pho tượng
tôi ngẩn ngơ, quả thật từ trước tới
nay tôi chưa từng thấy một kiệt tác
nào như thế. Trong khi tôi còn đang
xúc động, ông ta bỗng đeo chiếc
túi lên vai: "Thưa thượng quan, xin
cám ơn ngài đã cho tôi có dịp
thực hiện ý tôi muốn. Tôi là kẻ
không nhà không cửa, không cần tiền
bạc gì cả. Bây giờ xin phép ngài
tôi đi". Tôi ngớ người không hiểu
ông ta nói gì, chỉ mang máng hiểu rằng
ông ta sắp đi, nên bèn vội vã khua
chân tìm đôi dép:“Không,
không, tiên sinh đừng đi, tiên sinh đừng
đi!". Ông ta bước nhanh như người chạy trốn.
Khốn khổ, cái thân hình tôi hơi nặng
nên khi tôi xỏ được đôi
dép, ra đến bên ngoài thì ông ta
đã biến mất. Tôi hối thúc gia
nhân đi tìm cũng không thấy nữa.
Đấy, câu chuyện của tôi như thế
đấy, còn pho tượng thì nó đẹp
hay xấu thế nào tùy quý bằng hữu nhận xét, tôi
không có ý kiến.
Kể xong, vị tổng đốc
hãnh diện chiêu miếng nước. Bỗng, từ
trong phòng trong, một tiếng kêu đau
thương như xé ruột vọng ra khiến mọi
người đều giật mình. Quan khâm sai
đứng dậy xin phép vào phòng con
gái xem xét. Các gia nhân hối hả từ
nhà sau chạy lên, họ cho biết Trương
tiểu thư bị ngất xỉu đang nằm
sóng xoãi trên mặt đất. Một thực
khách ngồi bên cạnh ghé tai nói nhỏ
với quan tổng đốc : "Người nghệ sĩ
tài ba quan huynh vừa kể không ai khác hơn
Trương Phố, chồng của Trương tiểu
thư con gái quan khâm sai”. Quan tổng đốc rất
kinh ngạc. Vị thực khách bèn vắn tắt
thuật lại câu chuyện ngăn cách giữa
đôi trai gái cho mọi người nghe.
Tỉnh dậy, Mỹ Lan xin
phép cha cho được ra ngoài nhìn ngắm
pho tượng tận mắt. Nàng sờ mó
nó, hôn lên nó, hai hàng nước mắt
tuôn rơi. Và khi nàng giơ tay, nghiêng
đầu, người ta thấy pho tượng với
nàng chỉ là một!
Quan Tổng đốc đặt
pho tượng vào tay nàng:
- Con gái đáng
thương của ta! Ta đã hiểu rõ tất
cả. Vật này là của con, con hãy giữ
lấy nó. Với sức ta, ta có thể tìm
một thứ khác quý giá dâng lên
Hoàng Hậu. Còn con, theo ta nghĩ, nó sẽ
an ủi cho con rất nhiều trước khi con được
đoàn tụ với chồng.
Mỹ Lan sụp xuống lạy, tạ
ơn quan tổng đốc bạn của cha nàng.
Từ dạo đó, Mỹ Lan
mỗi ngày một mòn mỏi như có một căn bệnh
nào đó gặm nhấm bên trong cơ thể.
Quan khâm sai tuyên bố tha thứ mọi tội lỗi
cho người con rể nếu tìm thấy chàng.
Năm sau, ngài và đoàn tùy tùng xuống
Quảng Đông thăm người bạn đồng
liêu với mục đích nhờ vị tổng
đốc cai quản cả vùng Quảng Đông
này hướng dẫn đi tìm Trương Phố.
Như ng mọi cố gắng đều vô ích, hỏi
tiệm trà quen cũng không ai biết, chàng vẫn
biệt tăm.
Mấy năm sau, một trận dịch
lan tràn khắp vùng Khai Phong, đứa con trai Mỹ
Lan bị chết. Nàng hoàn toàn tuyệt vọng,
cắt tóc quy y và xin vào tu viện, chỉ
mang theo độc nhất pho tượng nữ thần bằng
ngọc. Theo vị sư
trưởng trong tu viện cho biết, nàng
hoàn toàn sống với thế giới riêng
trong một tịnh phòng, không người
nào kể cả sư trưởng được
vào trong đó. Cũng theo nhà sư này kể, ban đêm
nàng thường thức khuya, âm thầm viết
những lời cầu nguyện trên các tờ giấy
rồi lại âm thầm đốt các bản giấy
đó trước pho tượng. Nàng không
thố lộ với ai về thân thế mình,
không đụng chạm tới ai mà cũng
không làm ai phiền lòng.
Khoảng hai mươi năm sau kể
từ khi nhập tu viện, người nữ tu hiền
dịu tên tục là Trương Mỹ Lan từ
giã cõi đời. Và cũng từ
đó tới nay, thân xác nàng có thể
đã tan vào hư
vô nhưng pho tượng vị nữ thần bằng
ngọc vẫn tiếp tục tồn tại. Nó tồn
tại mãi mãi để chứng minh cho sức mạnh
của tình yêu và khả năng siêu việt
của loài người.
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
- Đoàn
Dự dịch theo bản tiếng Anh "The Jade Goddess"
của chính tác giả -
(Nhung
Le sưu tầm, Dương Liễu chuyển)