Hiu Hiu Gió Bấc
(Tác Giả: Nguyễn
Ngọc Tư)
Ở cái xóm nhỏ ven
thành phố này, người ta nhắc tới anh
Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh
đi họp.
Đứa nào hỗn hào,
lười biếng, má nó biểu: "Lại
coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi
đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm
mướn, không có chuyện gì nó
chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu
cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy
mà thương" .
Ai mê vợ bé, mê
chơi đề, đá gà, họ lườm
lườm: " Mê gì như thằng Hết
mê cờ" .
Nên nghe râm ran chị Hảo
để lòng thương anh, má chị kêu
trời: "Bộ hết người rồi sao, con.
Cái thằng mê cờ tới mất vợ,
không sợ?" .
Không, chị Hảo nghiêm
nghị, cờ tướng là loại cờ tao
nhã chỉ dành cho quân tử, có gì
mà sợ. Mê rượu, mê gái mới
ghê. Chỉ sợ người ta không thương
mình. Má chị định càm ràm nữa,
thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.
Quán chị Hảo cũng nhỏ
thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt.
Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ,
có khi không cần ngồi giữ, bà con trong
xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng
vô.
Chỉ buổi chiều, chị mới
ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt
trời vừa khuất sau vườn chuối anh Hết
hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước,
500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu
. Chị cố bán thật
rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa
nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà
máy chà gạo, trên tóc còn
vương trấu. Nhìn vậy thôi chớ
không nói gì hết. Con trâu không
nói sao cái cọc nói được. Nhưng
vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn
hơn một chút nhưng chị biết thể
nào thì anh cũng về qua, về để nấu
cơm cho tía anh.
Tía anh Hết năm nay 72 tuổi.
Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng
ông vẫn còn sõi lắm. Ông già
khó tính, thêm tật lãng tai. Người
ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay:
"Ăn rồi . Ăn cơm với thằng Hết rồi"
.
Chừng năm năm trước,
ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi
tèm nhèm để lửa táp vô vách
lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại
nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa
nhà lớn hơn miếu ông Tà một
chút.
Ông già ngồi tiếc
cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải
đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt
lên hình. Ông già điếc đác vậy
mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy,
chiều chiều chống gậy thả qua nhà
hàng xóm coi nhờ.
Bữa nào anh Hết cũng chổng
mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi
dựa cửa trước chờ tía anh về.
Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng
đói ngồi ngủ gà gật. Người ở
xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ
gì, anh cười, mâm cơm có ấm
cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới
vừa giở cửa chui vô nhà, ông già
đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt
ầng ậng nước. Anh thương tía quá
chừng vội vàng chạy đi vo gạo.
Anh Hết mồ côi má từ
mới lọt lòng. Bà chết vì sinh
khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc
tại lúc đó đau lòng quá kêu
đại vậy, chớ không có nghĩa gì
đâu.
Anh Hết lớn lên, yêu hết
thảy từng con người, từng tấc đất
ở cái xóm Giồng Mới . Cái xóm nhỏ
ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ
rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng
đỉnh xanh. Những người đàn ông
chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu
hơi ấm mẹ. Những người đàn
bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe
ngóe trên giường.
Tía anh không đi bước
nữa, ngày ngày cột sợi dây võng
dài từ nhà trên xuống bếp, vừa
đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng
lên, " Chớ ầu ơ ... Cây khô
đâu dễ mọc chồi ..." .
Chừng này tuổi rồi, mỗi
khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ
ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh
ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm.
Càng nhớ anh càng thương ông. Câu
được vài ba con cá rô, anh bắc
cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần
thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần
mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ
cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt
tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ.
Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm
cái nón mê đi đón ông già.
Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như
đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ
bé lắm, yếu ớt lắm.
Nhưng ông già đâu
có yếu, ông xách gậy rượt
đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu
bạc rượt thằng con đầu xanh chạy
cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy
cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ
xúm lại, vỗ tay như coi hát bội. Hỏi
anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị
dính đòn, anh bảo, chạy thì được,
nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt,
chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.
Ai nghe nói cũng thương.
Đúng là tên sao thì người vậy,
chịu thương chịu khó hết mình, hiếu
thảo hết mình. Có cái tật mê cờ,
mê cũng hết mình. Người ta nhắc
hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô
bàn cờ rồi quên đói, quên ướt,
súng nổ cái đùng cũng coi như
không nghe thấy, như là đã thoát tục
rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo.
Thấy con bồ mình đang
thương dắt tay chồng tương lai đi sắm
sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu
tướng, thì đúng là không còn
hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người
thích đánh cờ nhưng say đến mức
coi con cờ như con người thì không ai
làm được. Ai đời, đi chốt qua
sông mà anh khóc, nước mắt chảy
ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó
hình như đám gả chị Hoài.
Người ta nói chị
Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết
mê cờ.
Họ thương nhau từ
lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời
đó, tuổi đó, người ta thương
không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi
đó, người ta yêu không ngại ngần,
không e dè, rà cản, họ để
lòng tự nhiên như dòng chảy của
sông. Bên nhà chị Hoài biết con
gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống
đá thì không vui . Má chị Hoài hỏi
sao đâm đầu vô thương chỗ
đó, cô hỏi lại: "Anh Hết hổng
được chỗ nào hả má?" .
- " Ừ, tao chê chỗ
nào bây giờ, thằng Hết được, hiền,
giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo. Nhưng nó nghèo
quá, thân sơ thất sở không một cục
đất chọi chim, biết có lo cho bây sung
sướng được không. Bây quen được
tưng tiu mà" .
Chị Hoài không cãi ra
mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực
còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc
đời.
Lúc đó, anh Hết vẫn
chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ
đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy
ông già chèo đò truyền lại, nức
tiếng với mấy chiêu pháo đầu,
bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới
lúc má chị Hoài lại nhà, không biết
nói gì nhưng có khóc. Những giọt
nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt
già nua của người đàn bà
đã từng cho anh bú thép.
Sáng hôm sau anh đã
thay đổi, nhanh như người ta lật một
bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ
cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ
đường để tìm đối thủ, để
ai cũng thấy đúng là thằng Hết
bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm
ăn gì mà tối ngày nướng thời
gian trên mấy con cờ xanh đỏ.
Hồi đó, tía rầy
anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ
lớn nhất đời người. Con đã nợ
má em Hoài, tía à. Không biết ông
già rồi có hiểu gì tình cảm của
tụi trẻ không, ông ừ hử vậy.
Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở
đâu, giữa đường cũng vậy, ông
vác cây đánh ngay đó. Vừa
đánh vừa kêu nhịp nhàng " Xe
nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả,
thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường"
.
Ông ca cẩm thằng con ông
bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua
nó để ông ăn cơm nguội chung với
mấy con gián. Ông nói mà giọng ông
hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng
đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới
lớn, bây giờ ông mới đánh nó
đây, đánh để giúp nó trả
ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm
cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu
đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm
này người ta không biết nên nói
mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy
à.
Chị Hoài cũng can ngăn,
thuyết phục mãi, tốn không biết bao
nhiêu là nước mắt, cuối cùng
đành phải bỏ đi lấy chồng.
Hôm đám, anh Hết
còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới
gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với
mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng
xì xầm, chắc thằng Hết không
thương thiệt con Hoài nên mới dửng
dưng vậy. Chị Hoài nghe mà khóc
không thôi, bảo với chị Hảo, có
cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh
cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị
Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy
ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy
chồng là chết vậy. Anh Hết dứt
khoát không ngước lên. Thôi, không nắm
níu gì được nữa rồi, nghe người
ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào.
Đi một đoạn, nghe
đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà
khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước
mắt anh rớt lên con tướng này nè,
đó, nó ướt nhẹp đó thấy
chưa. Hết cười lớn, nói lớn: "Ừ,
tại tao thương con chốt. Qua sông là
không mong về" ... Chị Hoài vừa đi vừa
khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo
thương điếng trong lòng. Con người
này, nghĩa biết trọng mà tình cũng
thâm.
Anh Hết lại sống như những
ngày trước kia lầm lũi đi đào
thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi
tía. Đôi ba hôm, đi làm về,
đã thấy trên cái bếp còn ấm
tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ
cá kho khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại
là nồi canh rau đắng.
Rồi anh Hết gặp chị
Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ
đằng xa, chị lấy nón che một bên
má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy
nón mà xót xa:
- Sao nông nỗi vầy,
Hoài ?
Chị Hoài nói chị
té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh
Hết không tin: "Hoài ơi, em hạnh
phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc
tôi bỏ xứ" .
Chị Hoài khóc, người
ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua
sông là đứt lìa phần đời
trước.
Rồi chị Hoài cũng tập
thương chồng, thương không giấu giếm,
ào ào như người ta bán thuốc
sơn đông. Chị thôi không đứng tần
ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ
về, thậm chí chị không thèm nhìn về
phía ấy nữa.
Chị Hoài nói với bạn:
"Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về
may đồ cho anh Thứ, ảnh nói mặc đồ
chợ cũng được mà tui đâu có
chịu, người vợ biết đường kim mũi
chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng
ông chồng, phải hôn nè ..." . Giữa
đường nói chuyện chồng con mà giọng
chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với
Hết, thôi đừng đi đâu hết,
tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên
luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm
đây. Cho bỏ tội mê cờ, nghen.
Nhưng từ ngày chị
Hoài lấy chồng, anh Hết đã không
đụng tay vào quân cờ nào nữa. Anh
hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười
rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ
rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi
nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh
không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa
nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn.
Tấn chỗ nào ? Tấn giữ con chốt đang bị
con pháo rình đó, biết còn hỏi. Tụi
nhỏ kêu, đây là kiểu "hiệp sĩ
mù nghe gió kiếm" , đánh cờ
mà làm công chuyện không ngưng tay,
nói khơi khơi, cũng thắng.
Lụi hụi rồi bốn
mùa gió bấc về kể từ mùa
gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết
thường chống đũa trên mâm cơm than
ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì.
Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao
thèm một thằng cháu nội.
Hết lượng sượng
mãi mới cười: " Trời, thèm gì
ngặt vậy, không biết con biết kiếm
đâu cho tía bây giờ" .
Tía anh Hết biểu lại
đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm.
Mày giả đò hoài, con nhỏ thương
mày, ai cũng biết, chỉ mày là
không.
Anh Hết cãi, làm gì
có, tía. Ông già đứng dậy, vậy
phải thử. Nói rồi vung gậy đánh.
Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy
lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông
già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi
tủm tỉm cười quay đi. Ông già
còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt
đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị
Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh
đau chỗ nào, giọng như người thân
thiết trong nhà:
" Làm gì mà để
tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải
hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm
chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị.
Đây đã là chai thứ chín chị cho
anh, anh khẽ bảo:
- Hảo, tôi ... cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ "
tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn
nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu
gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài
da thịt, mà trong lòng thì còn mãi.
Chi vậy Hết ơi!
Đâu có biết, chỉ tại
chưa quên được. Anh chưa dám nhìn
thẳng vô mắt Hoài để cười,
chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi
khi chị bồng nó đi tiêm ngừa. Chưa
thanh thản để chào nhau như một người
bạn gặp một người bạn. Hảo có
hiểu không?
Hiểu, nên tôi chờ
đây nè.
Thêm một mùa gió bấc
nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại
cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo
chờ người ta xức dầu Nhị Thiên
Đường của chị mà hết đau, chờ
người ta đánh cờ mà trong tâm
"Viễn ly điên đảo mộng tưởng
cứu cánh niết bàn" , chờ người
ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.
Nhưng mà chờ tới chừng
nào lận?
Ai mà biết.
Mùa nay gió bấc hiu hiu lại
về.
NGUYỄN NGỌC
TƯ
(Trịnh
Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)