XUÂN ĐI XUÂN ĐẾN MÃI CÒN
XUÂN
(Lý Minh Hào)
Phương
phương tân xuân dạ
Hoa lạc
đáo thùy gia?
(Xuân này, nối lại
những dòng bút ký về xuân năm
trước)
Ba người bạn rủ
nhau ra ngồi ở cái quán có tên
“Chim Én Biển” (Paloma) mà một số
người Việt xa xứ thích ngồi hàng
quán lại kêu là quán “Cái
Chùa” Silicon Valley để đỡ nhớ
cái quán “La Pagode” Sàigòn bên quê
nhà nay chỉ còn là hoài niệm.
Khi đủ mặt ba người,
buổi đầu định “ngồi trà
đàm” nhìn ngắm thiên hạ ngoài
kia du xuân, tận hưởng hết những ngày
Tết còn vương vấn trong tiết trời se lạnh
mùa xuân. Sau có thêm một người bạn
hóa bốn. Như kinh nghiệm sống của người
xưa qua câu nói “trà tam, tửu tứ,”
trà uống ba người, rượu uống bốn
người là đắc điệu nhất, dễ
tạo được lạc thú nhất, vì
không quá tẻ nhạt cũng không quá ồn
ào. Còn như một mình ngồi uống
rượu thường là chuyện không
lành không ổn, người đó hoặc
là sâu nát rượu, nếu không cũng
chất chứa trong dạ vạn cổ sầu! Ngay
như thi hào Lý Bạch được thiên hạ
phong cho danh vị “Túy Thi Tiên” (ông
Tiên Thơ Say) cũng còn cần rủ bạn
đồng ẩm để cùng tát cho mau cạn
cái hồ chứa nỗi sầu muôn thuở của
kiếp nhân sinh, qua câu thơ “dữ ngã
đồng tiêu vạn cổ sầu” (xin cùng
ta làm tan đi sầu vạn cổ).
Hai người bạn, một
nhâm nhi ly rượu chát đỏ để
sưởi ấm lòng, người mượn bia giải
nhiệt. Hai người bạn còn lại mời nhau
rượu Whisky Tô Cách Lan cay nồng, vỏ chai
xanh, nhãn màu vàng, hiệu “Cutty Sark”
hình chiếc tàu buồm trang bị bảy
cánh buồm lớn nhỏ căng gió. Được
biết, theo sự quảng cáo của chủ nhân
hãng rượu, rượu mạnh thương hiệu
Scot Whisky “Cutty Sark” bán chạy nhất và
được vận tải trên các thương
thuyền vượt biển nhanh nhất vào giữa
thế kỷ thứ 19 phân phối bán ra khắp
thế giới. Cũng qua tài liệu sách vở
chiến tranh Việt Nam, vị tổng thống Hoa Kỳ
bị thiêu rụi sự nghiệp chính trị của
người trượng phu chí cả trong “hỏa
lò Việt Nam” là Lyndon B. Johnson đã chọn
loại Whisky “tàu buồm bảy cánh”
để tiêu sầu sau ngày lui về mai danh ẩn
tích tại trang trại nhà bên xứ cao bồi
Texas. Bà vợ ông cho biết nhiều đêm
ông uống say khướt và nằm ngủ
vùi luôn dưới chuồng ngựa bên cạnh
máng ngựa cho tới sáng khi đã tỉnh
rượu. Chúng ta cũng ít nhiều cảm
thương cho số phận buồn đau của vị
tổng thống Hoa Kỳ có thể được
ví như một thuyền trưởng của chiếc
tàu buồm bị bão tố thổi gẫy hết
cả bảy cột buồm! Ngôn ngữ thói
thường bình dân nhiều khi cũng hay ví
von người chồng, người đàn ông
“gẫy cột buồm” là những người
thua thiệt, bất lực trước những bà vợ,
đàn bà đường đường lẫm
liệt đủ mọi thứ chuyện trần đời!
May quá, hai người bạn
chia nhau những tuần rượu Cutty Sark đã
không lâm cảnh ú rũ, mềm nhũn của
ngài Lyndon Johnson! Chẳng qua tâm tư họ
không quá vạn cổ sầu, chỉ nhâm nhi
chừng mực lượng men giải sầu. Một
người bạn nói nhỏ riêng, đêm về
còn thấy hưng phấn nữa là khác.
Có một nhà văn nào đó
đã khen hết lời người đầu
tiên đã khám phá hay chế ra rượu
cho người đời. Bởi vì theo nhận
xét của nhà văn đó, dù buồn
hay vui, khóc hay cười, hạnh phúc hay đau
khổ, người ta cũng đều uống rượu
được cả. Rượu đắc dụng cho mọi
tình huống của xã hội xưa nay. Có
điều, không được lạm dụng hay nghiện
ngập đê mê suốt ngày hết
tháng, quên tuốt cả những cái đẹp
đẽ trên đời. Riêng cụ Vương Hồng
Sển, một bậc kỳ tài về thể loại
viết tạp ghi và hồi ký, đã cũng
nhìn rượu bằng biệt nhãn, tả
thú uống rượu, nhất là lại
được rượu ngon, như sau:
Rượu ngon chưa uống đã say
Mắt say vì sắc, mũi say vì
tình
Rượu ngon uống chén bé xinh
Mát lòng mát dạ, buộc
mình phải khen
- Hỏi khen làm sao?
- Khen một tiếng "khà"
(Trích Di Cảo
"Cuốn Sách và Tôi")
Không khí quán
rượu đầu xuân hôm đó còn
có nhạc xuân cùng hoa xuân làm nền,
làm cảnh đậm đà thêm hương
sắc của một ngày xuân đất
khách. Ngay cạnh chỗ lớp cửa kính
sát tường, từ bên trong có thể
nhìn rõ bên ngoài và từ ngoài
dõi trông được vào người ngồi
trong quán, hai chậu hoa hải đường
được kê cao ai cũng dễ nhìn thấy
khi ra vào quán. Đã qua nhiều ngày
xuân, ngày Tết hai chậu hải đường
hoa rậm sắc thắm đều mãn khai. Chậu
đã nở đều có sắc hồng phấn,
xem dịu nhã hơn so với chậu kia như
còn muốn tỏa thêm sức sống và sắc
màu nóng của loài hoa hải đường
cuối độ mãn khai. Trong tiết trời của
một mùa xuân có mưa nhẹ, có
gió se lạnh buổi sáng mây giăng, trưa
nắng ấm, như một sự thay son, đổi phấn
của đất trời, một người bạn
(là người viết) trong bọn “tửu
phùng tứ nhân bang” (nhóm bạn rượu
bốn người) chợt kích cảnh sinh tình,
đọc thầm trong đầu bài Đường
thi ngắn “Ngắm Hoa Uống Rượu” của
thi sĩ tài tử Tư Không Thự:
Suy mãn thiên hành tuyết
Tha hương nhất thụ hoa
Kim triêu dữ quân túy
Vọng khước tại Trường Sa!
Nguyên tựa bài
thơ là “Ngoạn Hoa Dữ Vệ Tượng
Đồng Túy,” Vệ Tượng là
tên người bạn đối ẩm của
tác giả Tư Không Thự. Phỏng dịch nghĩa
bài thơ:
Đầu đã bạc tóc cả
ngàn sợi
Đất khách có được một
khóm hoa
Sáng nay tôi được say
cùng bạn
Quên đi chuyện khổ chốn
Trường Sa!
Xin chú thích về
địa danh Trường Sa, là nơi lam chướng
và khổ ải thuộc nội địa Trung Quốc.
Không phải đảo Trường Sa đang xảy
ra tranh chấp lãnh hải địa lý chính
trị gay gắt giữa Trung Quốc, Việt Nam và
vài nước vùng Đông Nam Á. Vả lại,
xưa nay sử sách Trung Quốc thường gọi
hai đảo xa xôi Hoàng Sa, Trường Sa là
Tây Sa, Nam Sa.
Nhà báo Long Ân
(đã mất), trong những tháng năm, sống
khốn đốn vì đam mê nghề viết
và nợ làm báo tại Hoa Kỳ, thường
mượn men rượu để tiêu sầu, một
lần đã ứng khẩu đọc một đoạn
thơ ngắn có một câu hàm ý tưởng
triết lý nhân sinh:
Rượu còn nửa chai, đời cũng vậy ...
Tuy nhiên, với tình cảnh
tuổi tác và công ăn việc làm giờ
đây của cả “tửu phùng tứ
nhân bang” chúng tôi, ai cũng đều
đã hơn lục thập nhi nhĩ thuận hay ngấp
nghé thất thập cổ lai hi, người viết
mạn phép Long Ân cố tiên sinh được
sửa hai chữ trong câu thơ thành “Rượu sắp cạn chai, đời cũng vậy”
thì mới tương hợp với những người
đang phải bảo trọng sức khỏe, giữ
ý tứ từng bước cẩn trọng đi lần
xuống dốc, từ từ hạ san trong nắng
vàng hoàng hôn ngày qua từng ngày...
Tháng qua tháng, năm
qua năm, lặng lờ như dòng nước chảy
... Xuân đến rồi xuân đi, lãng
đãng như áng mây trôi ... Nhưng mỗi
năm, vào độ giữa tháng Chạp, thanh
điệu và hương sắc mùa xuân
như lao xao đâu đó, báo hiệu một
sự trở về của mùa xuân, sau một chu
kỳ đã qua hết ba mùa hạ, thu,
đông. Lòng người cũng ít nhiều
man mác, xa xôi trong tiết xuân về, mỗi
khi nghe lại hay hát khẽ đôi câu của
một xuân khúc, giai điệu du dương, lời
nhạc thi vị, tình tứ: Một vùng mây trắng, bay đi tìm
nhau/ chẳng còn thấy nhau, mắt hoen hoen sầu/vì
mình xa nhau nên em chưa biết xuân về
đấy thôi ... Em biết không em, anh như
bóng mây tìm nơi đỗ bến/Đâu
bến xa vời mà tình vẫn rơi, mây
hoài vẫn trôi ... (Bản "Em Đã Thấy
Mùa Xuân Chưa?" của Nhạc Sĩ Quốc
Dũng).
Người đời cũng
thường hay than vãn mùa xuân qua mau, tuổi
xuân chóng tàn. Trải nghiệm qua kiếp
nhân sinh cũng vậy, niềm vui thường ngắn
ngủi còn nỗi buồn thì lê thê, hạnh
phúc thì khó giữ mà khổ đau
thường khó phai. Nhà thơ lãng mạn nổi
tiếng Lamartine cũng ở vào tâm trạng sợ
“niềm vui ngắn ngủi, hạnh phúc khó
giữ” khi cùng người yêu Elvire tình
tự bên bờ hồ Bourget đã thốt ra những
dòng thơ để đời:
O temps, suspend ton vol!
Et vous, heures propices
Suspendez votre cours...
(Ôi, thời gian! Hãy dừng
cánh lại
Giờ vàng ngọc, xin hãy khoan
bay...)
Bởi thế, trong đời
thường hay trong khoa học, nhận thức về thời
gian đều cho ý nghĩa của thời gian là
tương đối (relative). Theo sự nhận xét
của nhà văn Võ Đình Cường
thì trên trái đất này không
có thời gian chung cho cả vạn vật, cho cả
nhân loại, mà thời gian trôi qua mau hay chậm
tùy sự cảm nhận, tùy tâm trạng,
tùy cảnh ngộ qua bài viết “Nghĩa Thời
Gian,” như sau:
Một phút chờ đợi dài
hơn một giờ hạnh ngộ
Một ngày vui qua mau như tiếng
pháo nổ
Một đêm đau khổ dài tợ
một thế kỷ đứng yên ...
Đối với chúng ta,
có phải khát vọng hay nỗ lực đi
tìm thời gian hạnh phúc dài lâu, một
mùa xuân miên viễn là ảo vọng,
là phi lý? Nhưng không hẳn vậy trong
tư tưởng Thiền học. Theo đó, người
tu đạt Thiền đạo có thể sống một
thế giới mùa xuân miên viễn cho tới
ngày chấm dứt đời sống xác
phàm. Trước nhứt người tu Thiền phải
cảm niệm “mùa xuân miên viễn”
khác với “mùa xuân thời tiết”
có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông cứ
năm này qua năm khác. Kế đến, người
tu Thiền quan niệm vẫn sống ‘với’
và ‘trong’ hiện tại nhưng tránh
bước trên “con đường hiện tại”
(kim thời lộ) của người đời thường,
tức con đường danh, lợi, tài, sắc
mà ai nấy đang ganh đua, chen lấn nhau mà
đi ... Được vậy, một mùa xuân
không còn lệ thuộc thời tiết bốn
mùa, nóng lạnh, mưa nắng, và không
chú trọng tới "thời gian" được
xem đó là “mùa xuân thoát ra khỏi
mùa xuân thường” (kiếp ngoại xuân) sẽ đến
như trong câu kệ:
Bất đạp kim thời lộ
Thường du kiếp ngoại xuân
tạm dịch nghĩa:
Không giẫm đường trần
hôm nay
Mùa xuân ngoại kiếp dạo
hoài thảnh thơi
Coi vậy chứ khó lắm
ai ơi! Thuyết dị hành nan. Nói dễ
mà làm thì khó. Bởi vì như Nhạc
Sĩ Nguyễn Văn Đông đã viết một
câu nhạc rất sát nhân sinh và cận
nhân tình trong bài Chiều Mưa Biên Giới
là: “vì người
trần còn mơ bao khanh tướng mà đường
trần còn nhiều mưa bay gió cuốn,
còn nhiều anh ơi!...”
Đêm xuân, mưa lạnh
ngoài trời. Miên man suy nghĩ đông tây
chuyện nhân sinh thế sự, trong đó có
con đường trần mưa bay gió cuốn
vì người trần còn mơ bao khanh tướng
mà chỉ có người không còn sống
mới miễn phải đi, lòng chợt nhớ tới
người bạn văn vong niên đã khuất
bóng - Xuân Vũ. Nhà văn Xuân Vũ
(tên thật Bùi Quang Triết) đã mất
đúng vào ngày đầu năm 2005 tại
San Antonio, Texas. Được biết anh là bạn học
đồng liêu xứ Bến Tre thuở thiếu thời
với danh tướng Ngô Quang Trưởng. Theo lời
kể của Xuân Vũ, có lần được
thân phụ của tướng Ngô Quang Trưởng
dẫn cả hai chú thí sinh trẻ cùng đi
thi bằng tiểu học, và cũng là bạn
đồng môn (Trường Trung Học Mỹ Tho) với
Kỹ Sư Khương Hữu Điểu, cựu thứ
trưởng kinh tế thời trước 1975, anh
đã đào thoát khỏi Việt Nam
ngày 30 tháng 4, 1975 qua ngả Đảo Phú Quốc
tỉnh Kiên Giang. Qua Mỹ, anh sống chỉ một
nghề cầm viết cho tới ngày nhắm mắt.
Người viết còn nhớ anh rất thích hai
câu cổ thi Trung Hoa dùng làm tiểu tựa của
một bài “Chúc Phúc Hỷ”
đã gởi tặng ái nữ anh nhân
ngày vu quy:
Hảo vũ tri thời tiết
Đương xuân nãi phát sinh
Có hai chữ được
tách ra và ghép lại là bút danh của
anh. Bút danh nhà văn Xuân Vũ (Mưa
Xuân) được hiểu bao hàm nhiều ý
nghĩa cao đẹp là “Mưa lành
đúng tiết trời, mùa xuân bừng sống
dậy.” Và người con gái nào đi
lấy chồng cũng không mong mỏi gì hơn có
được sự phúc hỷ tròn trịa nhất
đời là mưa lành đúng thời tiết
mùa xuân bừng sống dậy!
Tới đây, người
viết cũng nhớ lại lời chiêm nghiệm
nhân sinh mà các nho gia, thi sĩ xưa nay thường
hay ngâm nga:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Nhìn về phía trước
thì không thấy người đã đi
trước ta. Còn nhìn lại phía sau
thì chưa thấy người sẽ đến sau
ta. Tuy nhiên, trước ta và sau ta đều
đã có và sẽ có những người
như ta hiện hữu, hiện sinh hôm nay.
Mùa xuân cũng vậy.
Trước mùa xuân năm nay là xuân
năm ngoái, xuân năm xưa. Sau xuân này
là xuân năm tới, xuân tương lai. Theo
đó, người đời chúng ta cũng
nên thanh thản mà đón và tiễn
mùa xuân lãng đãng đến và
đi.
Xuân đi rồi xuân cũng
lại về. Vậy hãy mở lòng đón
đưa mùa xuân với cảm niệm mùa
xuân ngoại kiếp dạo hoài thảnh thơi,
và với chút tâm tình lãng mạn
nhìn nhân gian đón xuân sang, cùng chung
hưởng những giờ phút tiết trời giao
mùa của "đêm
tân xuân hương thơm ngát, để xem
gió xuân lay hoa rụng trước nhà ai?"
Phương
phương tân xuân dạ
Hoa lạc
đáo thùy gia?
LÝ MINH HÀO
(Tăng Mỹ Mỹ chuyển)