Rải tro theo gió
(Nguyễn Tường Thiết)
* Tặng Nhung,
“đứa con đầu lòng” của
nhà văn Thạch Lam.
Tôi gặp anh
tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải
dài hơn ba thập niên. Không nhiều.
Đã thế dường như trong cả bốn lần
đó ngoài cái gật đầu chào
chúng tôi không hề trao đổi với nhau
lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn
tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất
ngại bắt chuyện với một người nổi
tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại
là người có quyền thế. Trong thâm
tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện
thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay.
Đằng sau gương mặt lầm lì ít
nói ấy anh là người rất bình dị.
Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật
đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng.
Để đến bây giờ ngồi trước
bàn máy vi tính một buổi sáng
mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ,
tôi viết đôi dòng về anh mà
lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc:
bài viết của tôi vì thế sẽ
không ghi lại một mẩu đối thoại
nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm
giữa anh và tôi. Mà nào giữa
chúng tôi đâu có phải người xa
lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận
trong đại gia đình Nguyễn Tường
chúng tôi, là chồng của người em họ
tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch
Lam.
Tôi nhớ lại
hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn
lần thì có đến ba anh hiện lên
trước ly rượu. Đó cũng là
hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện
mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly
rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng
thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ
về anh lòng tôi không khỏi có ngầm
một sự hãnh diện thầm kín rằng
dòng họ tôi có được một
người rể như anh nổi tiếng là người
thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái
bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn
Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời
đề tặng anh trên trang đầu cuốn
sách những lời thật lòng: “Tặng anh
Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng
quí mến và ngưỡng mộ”.
Cơ duyên
nào mà một vị tướng lừng danh của
quân lực miền Nam Việt Nam lại kết
duyên với cô con gái lớn của nhà
văn tài hoa nhất Tự Lực Văn
Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả
lời thật đúng cho câu hỏi này.
Người có thẩm quyền trả lời là
bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà
văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết
cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không
có ý định viết hồi ký về anh
vì thật tình tôi không biết nhiều.
Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ
niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm
hoi.
Trước khi gặp
anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi
đã nghe lan truyền câu chuyện về một
mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc
hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không
quân và một nhẩy dù, với cô con
gái lớn của một nhà văn nổi tiếng.
Hai quân nhân cùng yêu một cô gái.
Đó là chuyện thường tình trong cuộc
chiến. Điểm đặc biệt họ lại
là đôi bạn rất thân nhau. Trước
cái chết có thể đến bất cứ khi
nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn
là nếu người nào nằm xuống trước
thì người kia nguyện sẽ suốt đời
chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau
đó tử nạn máy bay và định mệnh
đã đẩy cô em họ tôi gắn liền
cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều
lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu
chuyện tình này có đúng sự thực
hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi.
Với tôi đó là một huyền thoại
đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn
như thế trong trí tưởng tượng của
tôi.
Năm 1962 tôi ở
Sài Gòn và dậy học tại trường
trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa
anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh
Tân, chở tôi từ Biên Hòa về
Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến
Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé
thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong
lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng
xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ
trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy
xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh
Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ
chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu
đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm
thước, nước da ngăm đen, khuôn mặt
sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu
tiên của tôi là anh không những
không đẹp trai, lại không có cái
“tướng” hùng của một quân
nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện
câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung
khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc
là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh
Trưởng.
Năm 1967 tôi
gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế
thì trên ve áo trận của anh hai bông mai
đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh
đã lên tướng! Người sĩ quan
tôi trông không có “tướng” ấy,
năm năm sau đã được thăng tướng
trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ
tôi bắt đầu có lời đồn
đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung
thì như diều gặp gió đường binh
nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một
Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu
đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn
tướng Sư đoàn trưởng Sư
đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài
Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và
tá túc tại đại học xá Nam Giao,
nơi mà hai năm trước tôi đã từng
là sinh viên nội trú để theo học ở
Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi
đi bộ đến thăm cô em họ, lúc
này đã khó gặp vì ở một
nơi rất “kín cổng cao tường”.
Tư dinh của tướng Trưởng là một
biệt thự trên đường Lê Thánh
Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh
tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở
bốn góc là bốn lô cốt thiết lập
bằng những bao cát với những họng
súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người
lính gác cổng vào trong nhà báo
và Nhung đã ra tận cổng để tiếp
tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa
lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt
nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp
anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập
ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy
trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp.
Không biết có phải vì ngôi sao trên
ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn
không. Tôi đứng dậy chào anh trong
lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết,
con bác Tam đấy!”. Anh không nói
gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng
ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy
chai Martell có ngâm những củ sâm bên
trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly
rượu trên tay không uống, anh chậm
rãi bước tới bước lui trong phòng
khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ
mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Năm 1970 khi
tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi
đã là một quân nhân. Sau biến cố
Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68
Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ
ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục
CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết
thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam
mất, tôi đi viếng thím trong bộ quân
phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh
tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan
Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng
chật hai bên quan tài đặt chính giữa
phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh
Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ
lưỡi trai cặp tay - chiếc mũ gắn hai
ngôi sao đen - anh đứng yên lặng trước
quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở
bên này quan tài, đối mặt anh lần
đầu trong tư thế một quân nhân, một
Thiếu úy trước một Thiếu tướng,
tôi cảm nhận tất cả cái trọng
trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên
gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút
sau anh đội mũ lên đầu rồi vội
vã bước ra xe đi mất.
Năm 1972 sau
“mùa hè đỏ lửa” tôi là
một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng
Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba
người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu
tá Nguyễn Công Luận và tôi với cấp
bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế
trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá
trong cổ thành Đại Nội. Không khí
nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần
đầu tiên kể từ ngày ra trường
tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng
quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp
tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi
lần nghe tiếng đạn rít trên không
trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu
nhào xuống giao thông hào nơi hàng
trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng
và cấp bực cùng nhào xuống trú
pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần
nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là
tôi lại chúi đầu xuống đất mặc
dù tôi biết rằng nghe được tiếng
đạn rít tức là mình đã
thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi
đầu. Chính trong lúc trú pháo này
mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng
mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái
Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5
Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng
chịu trước những trận mưa pháo dữ
dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước
khi ra Huế lần này tôi đã đi
chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội
Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972
đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh
và ngay đêm đó anh bị pháo chết.
Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ
tôi đã lên chức hai lần, từ Trung
úy lên cố Thiếu tá. Và cũng
chính trong lần ra Huế này mà tôi
được nghe được rất nhiều giai thoại
về anh Trưởng, “người hùng tái
chiếm Quảng Trị” lúc này đã
được vinh thăng Trung tướng với ba sao
trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những
giai thoại đó nếu được ghi lại
đầy đủ tôi nghĩ có thể viết
thành một quyển sách. Giai thoại về sự
thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại
về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai
thoại về lòng thương lính dưới
quyền của anh cũng có.
Tôi nhớ
là trong giao thông hào giữa hai đợt
pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi
sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa
tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi
thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế
này không. Tôi trả lời không. Rồi
tôi nói thêm: “Mình chả dại.
Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu
cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy
tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm.
Mà không phải tôi nói giỡn
đâu. Một người anh họ tôi cùng
khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh
búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi
khoe với cố vấn Mỹ là có người
anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến
đầu!”
Lần thứ
tư tôi gặp anh Trưởng là vào
tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm
đềm của nước Mỹ. Như một
khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba
năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở
Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại
tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại
vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt
Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng
không thực lúc này đã trở
thành dĩ vãng. Năm đó vào
tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông
nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi
được tổ chức tại nhà anh cả
tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu
tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục,
trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo
mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ
trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên
tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện
trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ
là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang
nặng nỗi đau và niềm cay đắng của
một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh
cho đến tận cuối đời. Anh đích
thân rót rượu và ân cần mời tất
cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần
anh, nói với anh vài lời, đặc biệt
là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối
với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ
trong bụng anh có thể đã nghe những lời
bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều
lần rồi, nói ra lại thành khách
sáo, vả lại chúng tôi là người
nhà, còn thiếu gì những dịp khác
để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi
đã lầm. Dịp khác để gặp anh
đã không bao giờ đến, cho đến khi
anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1
năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ
tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng
là lần chót. Và chúng tôi vẫn
chưa bao giờ trao đổi với nhau được
lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự
an ủi là ba năm trước khi anh mất anh
đã đọc những lời chân tình của
tôi viết về anh trên trang đầu cuốn
sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.
*
* *
Trưa hôm nay
tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu.
Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ
chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ
mấy năm nay chúng tôi có một giao ước.
Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa
phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một
quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn
huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền.
Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái
xe, nên tôi thường đến nhà anh chở
anh đi.
Từ trong
nhà bước ra anh nói ngay:
- Tôi quên mất
rồi. Không biết lần này ai trả tiền,
ông hay tôi?
- Tôi cũng
không nhớ. Nhưng nhằm nhò gì. Để
tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi
cho tôi nhờ!
- Này này!
Ông đừng có lợi dụng cái bệnh
Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải
cho nó sòng phẳng ...
Trong lúc
lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ
hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại
nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn
mươi năm trước chúng tôi có một
thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế
Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy
là Thiếu Tá nhưng anh chỉ tạm trú ở
Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt
phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó
tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm.
Sau này kể anh chuyện ấy anh cười
nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn
nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ
là sau khi biết tôi là con của ông cụ,
anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện
Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu
thơ mà anh đã làm trước
đó mười năm: “Yêu Nhất Linh
tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ
năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền
Tây Bắc nước Mỹ để định
cư, chúng tôi đã có dịp gặp
nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm
nay.
Ăn trưa xong,
bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi
ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện
hình ảnh của những người mà
chúng tôi đã từng quen biết năm
xưa, người mất kẻ còn, lần lượt
hiện ra. Tội nghiệp Trung
tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối
Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của
chúng tôi, đã chết vì ngộp thở
trên chuyến tàu hỏa chở những tù
nhân cải tạo ra Bắc. Trung
tá Nguyễn Đình
Bảo, Trưởng phòng
Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của
tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New
Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn
khen là có gương mặt và tác phong rất
bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc,
không biết còn ở Calgary bên Canada hay
không. Và Thiếu tá Nguyễn
Công Luận nữa,
không biết anh còn ở San José hay không,
sức khoẻ anh hiện ra sao ...
Bên ngoài
lướt qua khung kính của nhà hàng mưa
nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ
ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những
chiếc lá của hàng cây phong trồng
trên bãi đậu xe đã bắt đầu
chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ
tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi
lá rụng lả tả bay đậu trên mui
trên kính những chiếc xe hơi nằm trên
bãi.
Tôi nhìn
anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của
anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung
tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức
tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ
râu tóc của nhà thơ này đã
chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến
Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng
đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972
và tôi nói với anh Hậu:
- Tôi đang viết
giở một bài về tướng Ngô Quang
Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ
về ông Trưởng hay lắm, anh có thể
đọc cho tôi được không?
Năm ngoái cũng
trong một lần đi ăn trưa như hôm nay
tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước
muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi
anh chết tro của anh được thả trên
đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm
2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện
đó đã được gia đình thực
hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần
điện đàm thì anh Trưởng có một
người tài xế sống ở Việt Nam
mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc
và giúp đỡ từ nhiều năm nay.
Chính chú tài xế ấy đã
đón Nhung và các con Nhung tại phi trường
Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng
về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế
chở mọi người về nhà chú tại
ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là
một điều lạ lùng là nhà chú
tài xế đó lại ở trên đường
Thạch Lam, một con đường mới mở sau
này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ
Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy
có biết Nhung là con của Thạch Lam hay
không Nhung trả lời là chú ấy không
biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau
đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên
đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh
đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm
có một cái miếu nhỏ thờ những
người bị tai nạn chết ở đó Nhung
quyết định chọn chỗ này để rải
tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u
giông gió. Mấy mẹ con và chú tài
xế khấn nguyện trước miếu. Một
lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời
đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên,
mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng
từng người một kể cả người
tài xế trung thành lần lượt rải tro
theo gió, tro của vị tướng lừng danh của
quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng
vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế
kia đã nhiều lần chở vị tướng ba
sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng,
ngọn đèo đã đưa vị tướng
trấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh
vinh quang và cũng là ngọn đèo
đã kéo vị tướng ấy xuống chốn
cùng thảm bại.
Rải tro theo
gió ... trên đỉnh đèo Hải Vân ...
ý nguyện của người đã khuất gợi
lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại
vừa lãng mạn, như là sự kết hợp
tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng
tướng với cô con gái đầu lòng của
nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Ngậm ngùi
tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn
câu thơ sau đây của anh:
Lệnh sáng giữ, lệnh
chiều bỏ Huế!
Bao chiến công ... cũng
thế mà thôi
Hải Vân ... tro rắc bốn
trời
Hạt tro nào ... lạc
vào nơi cổ thành?
Nhất Tuấn
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).
Nguyễn Tường Thiết
(Bùi Mạnh Hùng & Diễm
Xưa cùng chuyển)