LẤY CHỒNG XA XỨ
(Huỳnh Trung Chánh)
Khí hậu
Texas cũng di truyền được giòng máu
ngang tàng hoang dại của những chàng cao bồi
ngổ ngáo miền Tây thuở nào, nên
đôi khi đang nắng thiêu đốt, chợt
sấm sét nổi vang lừng, rồi thì mưa ồ
ạt tràn ngập lụt lội đường
xá, cuốn phăng xe cộ, nhà cửa, cầu kỳ…
Mưa bão lụt lội Texas gây tai họa hơn
cả những cơn động đất dữ dằn
tại tiểu bang California, thế nhưng thím
Mít lại cảm tình với giông bão chốn
nầy. Xuyên qua màn nước trắng xóa,
thím mường tượng ra hình ảnh
cây dừa, cây cau ngả nghiêng đẩm
mình trong cơn mưa đầu mùa tại
quê hương yêu dấu. Ngồi trong câu lạc
bộ, bao quanh bởi đồng nghiệp Việt,
nói nghe tiếng mẹ, quan sát cơn mưa
rào, thím cảm thấy mát mẻ, an ổn
như đang sống tại quê nhà.
- Chị Mít ạ
! có chuyện gì mà con Sue rối rít chạy
theo xin lỗi chị hoài vậy?, Thủy lên tiếng.
- Ơ ! nó giỡn
mặt gọi tôi là "banana" chứ !
- Sao chị
không "giũa" cho nó một trận !
- Dĩ nhiên
là có ! Tôi nổi sùng gây :
"Tên tao là Mít, đánh vần là
M, I, T. Mít là jackfruit trong ngoài đều
vàng lườm cả. Tao là thứ Á
đông tự hào về màu da vàng, chớ
chẳng phải là hạng mất gốc ham hố
màu da trắng đâu ! Đừng giở giọng
kỳ thị với tao !. Con Sue xin lỗi, đính
chánh mãi là nó chỉ cà rỡn
không hậu ý kỳ thị, nhưng ai tin
được nó !
Trên nguyên
tắc, thì không có vấn đề kỳ thị
chủng tộc lộ liễu trong xí nghiệp,
nhưng ai ngăn nổi chuyện ngấm ngầm, nhứt
là từ trong đám thiểu số xô bồ
nảy sanh ra lắm kẻ "cà chớn" vô
nhân cách. Hiện tượng thấy rõ trong
giờ giải lao tại câu lạc bộ là
dân tộc nào quây quần theo dân tộc nấy
: Mỹ trắng tán gẫu với Mỹ trắng, Mỹ
đen tụ tập với Mỹ đen, Mễ quấn
quít Mễ và Việt Nam cũng xúm xít
bên nhau để kháo ba điều bốn chuyện.
Dĩ nhiên, gần gũi với người cùng
chủng tộc, ai cũng cảm thấy hòa hợp
và thoải mái hơn, huống chi sau những
giây phút căng thẳng thần kinh, bắt buộc
phải nghe, phải nói tiếng nước người
rắc rối, nhóm tị nạn tung tăng hội nhập
với môi trường tiếng mẹ, sung sướng
an lành như được tự do lặn hụp
trong giòng nước mát. Trường hợp
nàng "Mary Chuối" là một ngoại lệ.
Tuy là người Việt chính cống, nhưng
nàng chỉ muốn biến hóa thành trắng.
Nàng sửa mũi cho cao, lột da mặt cho trắng,
nhuộm tóc vàng óng ả, mang kính
sát tròng mắt màu xanh … để tạo
lốt Mỹ, và do đó, học đòi
nói toàn tiếng Mỹ, lắng quắng chạy
theo người Mỹ. Nàng lơ là tránh
né người đồng hương, nên chẳng
mấy ai thích dây dưa với nàng. Bọn Mỹ
gán cho nàng biệt danh là "Mary Banana",
tên Mỹ rặt nầy dĩ nhiên thời trang
hơn cái tên cúng cơm Vũ Thị Gái
khiến nàng tỏ ra vô cùng hãnh diện.
Tên "Mary Chuối" phát xuất từ
đó, chứ không ai có ác ý gợi
đến gánh hàng rong chuối chiên, chuối
nấu của nàng tại ngã ba Ông Tạ
ngày nào. Chữ "banana", nguyên là một
trong những tiếng lóng (1) mà người Mỹ
dành cho dân Á đông : "Chink"
và "Nip" vì chúng nhìn bọn da
vàng nào cũng thành người Trung Hoa hay Nhật;
"Slope" để chỉ chung cho đám mắt xếch;
gọi "Guke" để chê bai hạng ngọng
nghệu cù lần. Banana là trái chuối
màu vàng, lột vỏ trắng tươi,
nên gọi là "Banana" nhằm biếm nhẽ
thứ da vàng mất gốc đua đòi Mỹ
hóa mong lột xác thành trắng. Thấy
công khai khinh lờn giỡn mặt mà Mary Chuối
vẫn lóc cóc chạy theo, Sue nổi hứng ghẹo
đến Mít không ngờ lại bị phản ứng
khá mạnh.
Tránh nhắc
nhở lại câu chuyện bực mình, Mít hỏi
bâng quơ :
- Mưa Texas
có nét tương đồng với cơn
mưa tầm tã nước mình phải không
các chị ?
- Đúng vậy
! thuở ấu thơ mà được mưa to
như thế nầy tắm vui biết mấy ! tranh
dành được chỗ máng xối, nước
đổ ào ào như thác chảy hấp dẫn
làm sao ấy !, Thanh lên tiếng.
Thủy góp
ý :
- Với em, tiếng
mưa rơi là điệp khúc buồn khôn
nguôi ! Có lẽ em chịu ảnh hưởng của
bà già ! Thấy trời mưa là mẹ
rưng rưng nước mắt. Quê ngoại gần
xịt, cách có giòng sông Hậu, mà
bà cứ than thở "thân phận lấy chồng
xa xứ" nhớ nhà, nhớ quê ! Bà
thường áo não cất tiếng ru :
Chim đa đa, đậu ở
cành đa
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa
Nhỡ sau
cha yếu, mẹ già
Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ
trà ai dâng ?
- Có gì lạ
đâu ! thuở xưa đường giao thông trắc
trở, chỉ có người đàn ông thỉnh
thoảng còn đi đó đi đây, chớ
người đàn bà luôn luôn an phận
lúc thúc trong nhà. Lấy chồng xa,
đã bước ra đi thì coi như vĩnh biệt,
chẳng có ngày về !, Mít giải
thích.
Tuổi càng lớn
càng nhớ quê hương "kịch liệt",
Bác Tám nghe lóm đám đàn bà
tán chuyện thấm thía nỗi niềm
riêng, bùi ngùi chen vào :
- Ơ ! thân phận
tị nạn của chúng mình, đàn ông
hay đàn bà gì, thì cũng chẳng
khác thân phận người đàn bà lấy
chồng xa xứ ngày xưa bao nhiêu ? Khi vượt
biên là đã đứt đoạn đường
về, đâu còn dịp nhìn lại cha mẹ,
họ hàng, xóm làng, bè bạn … nữa.
Ôi ! …
Bác Tám cất
giọng lâm ly như sắp vô sáu câu vọng
cổ hoài lang, chợt thắng đứng lại,
khi thấy nàng Mary Chuối lừng khừng bước
đến. Sự hiện diện của nàng Mỹ
lai căng nầy quá đỗi lạ lùng, khiến
cả bọn ngạc nhiên nghi ngại, nên ai cũng
dè dặt lặng yên chờ đợi.
Mary Chuối xề
đến ghế trống cạnh Mít, ngập ngừng
lên tiếng :
- Em xin phép ngồi
đây góp chuyện với các chị
nhé !
"Ối giời",
Mít thầm nghĩ, "Mụ nầy chịu nói
tiếng Việt quả là chuyện động trời
! thảo nào mà mưa gió bão bùng
ngoài kia ! Hay là mụ ta định dò
thám vụ đụng độ của mình với
con Sue chớ gì". Mít hơi khó chịu
nhưng vẫn nhỏ nhẹ mời mọc :
- Xin chị cứ
tự nhiên !
Trước
thái độ lạnh nhạt của mọi người,
Mary Chuối khép nép ngồi xuống rồi
ngượng ngập mở lời :
- Em có chuyện
rối lòng, rất mong được thỉnh ý
quý chị !
- Sao không vấn
kế các bà Mỹ, nước non chữ nghĩa
của họ, họ rành rẽ, chớ bọn nầy
khù khờ đâu biết gì !, Thanh mỉa
mai.
- Lòng dạ
người Mỹ khác người mình mấy chị
à ! Họ đâu có thể cảm thông nỗi
đau khổ của em ! Số là mấy ngày
trước, sau bữa tiệc rộn rịp mừng sanh
nhựt thứ mười tám của con gái em,
thì nó liền bỏ học, rồi cuốn
gói theo thằng bạn trai sống công khai như
vợ chồng. Em khuyên răn, năn nỉ, dọa nạt,
ngăn cản nó bằng đủ mọi cách
đều không hiệu quả, vì nó khăng
khăng cho rằng nó đã thành niên
nên được tự do định đoạt số
phận của nó … Em than thở và nhờ
đám bạn Mỹ liệu kế giúp đỡ,
mà tụi nó chỉ bàn chuyện ăn trớt
gì đâu không hà ! Con Sophia cười
hô hố: "Mầy khờ khạo quá ! Nó
dọn đi mầy vừa đỡ tốn hao lại
được tự do bằng thích mà phàn
nàn nỗi gì ! Con tao đúng mười
tám tuổi, không ra khỏi nhà tự lo
thân thì tao cũng đá đít đuổi
đi tức khắc …". Con Wendy bĩu môi
chê : "Đầu óc mầy lạc hậu
quá, con nít nó cũng có quyền tự
do của nó chớ !". Con Laura thì ra giọng dạy
đời : "Ôi ! đừng thèm nuôi con
nít làm gì ! Tụi nó phá phách,
đòi hỏi đủ điều, tốn hao phiền
muộn cho chúng rồi chúng cũng phản
phé bỏ mình đi mất. Bởi vậy tao
khoái nuôi chó với mèo, nó ở
mãi với mình, trung thành với mình,
mà chẳng tốn kém là bao ! …".
Các chị cũng có con cái, các chị
có kinh nghiệm gì chỉ dẫn em thể thức
nhờ Cảnh Sát hay Tòa án đem con em về,
chớ để nó sống đói rách với
thằng bồ đó em điên mà chết
…
Từ lâu,
người ngợm Mary Chuối là một hiện
tượng quái đản, một mục nhọt nhức
nhối cộng đồng Việt nhỏ bé tại
xí nghiệp nầy. Mít thầm khinh khi và xa
lánh con người mất gốc đó. Bất
ngờ, trong con người tưởng chừng như
không còn một chút xíu gì là Việt
Nam đó, khi thương con, lo lắng cho con thì
cũng tràn trề tình mẹ, như bất cứ
người mẹ Việt Nam nào khác. Cảm
thông với người mẹ khổ đau, Mít
dịu dàng an ủi :
- Chi ạ ! sống
ở xứ nầy, chị em mình ai mà chẳng bạc
đầu vì con ! Em chỉ có thằng con trai
mà cũng điêu đứng nghẹt thở với
nó !
Xây qua Thanh
và Thủy, Mít tiếp lời :
- Hai chị đều
có con gái, đã có kinh nghiệm đầy
người, sao không góp ý giúp chị
Mary đi !
- Luật lệ
nước nầy qui định mười tám tuổi
là đã thành niên, tự do chọn nếp
sống, nên theo nguyên tắc thì chị
không thể ngăn cản con chị ra riêng
được. Chị chỉ có phương
cách duy nhất là năn nỉ, giải thích
cho nó hiểu để nó tự động về
nhà mà thôi !, Thanh lên tiếng.
- Ôi ! em
đã năn nỉ đủ mọi cách mà
nó vẫn cương quyết bỏ học theo thằng
đó, hai đứa đi làm bồi bàn sống
bữa đói bữa no, thế mới đau xót
chớ !
- Theo tôi
thì mình phải hướng dẫn, răn dạy
chúng từ lúc chúng còn nhỏ kia, chớ
đợi đến lúc nầy thì khó lắm
!, Thủy góp ý.
- Em cũng muốn
dạy bảo chúng nó chớ ! nhưng nói tiếng
Việt thì chúng ngẩn ngơ, còn mới sử
dụng một câu tiếng Mỹ thì chúng
đã ào ào viện dẫn đủ mọi
lý lẽ, em không hiểu nổi thì còn
tranh cãi gì với chúng được !
Có một lần bố chúng nổi nóng, vừa
dợm cầm roi thì chúng đã chụp
điện thoại đe sẽ gọi cảnh sát
911, nên đâu còn dám hó hé
gì nữa !
Bác Tám
già lại chen vào bàn chuyện với
đám đàn bà :
- Thật ra,
mình phải thấy cái nguyên nhân sâu
xa kìa ! Lũ con cháu chúng mình, phải sử
dụng hơn hai phần ba thời giờ, sống trong
môi trường Mỹ, học hành, sinh hoạt,
tiếp xúc thầy bạn … Mỹ, nên
đương nhiên chúng phải tiếp nhận
nền văn hóa xứ người; đó
là việc không tránh được ! Vấn
đề của chúng mình là làm sao vạch
rõ chúng thấy văn hóa Việt Nam
mình có những điểm cao quý như
tình gia đình, lễ nghĩa, hiếu kính
… phải gìn giữ, và ngoài ra, tuy cũng
cần hội nhập văn hóa xứ người,
nhưng phải biết tránh tiêm nhiễm
thói hư tật xấu của họ …
Mỗi người
nói một câu, tuy không ai trực tiếp giải
quyết điều gì, nhưng được mọi
người quan tâm chia xẻ nên Mary có lẽ
cũng nguôi ngoai nỗi niềm đau. Giờ giải
lao chấm dứt, thợ thuyền kéo nhau trở lại
cơ xưởng làm việc. Mít đi sát
bên Mary, khẽ an ủi :
- Cháu nó
đi bụi đời một thời gian, nếm
chút đau khổ thì mới biết thương
mái ấm gia đình, chừng đó,
cháu sẽ quay về với chị, chị đừng
buồn lo lắm ! Mà ở xứ nầy, đâu
ai coi chuyện trinh tiết là quan trọng ! Chị
thương yêu chăm sóc thì cháu sẽ
làm hại cuộc đời tốt đẹp chớ
chẳng có điều gì nguy hại lắm
đâu !
***
Tan sở ra về,
trời tiếp tục mưa to, nhưng Mít vẫn
cương quyết lái xe đi xa hằng mươi
dặm đến chợ Việt Nam mua vài món gia
vị đặc biệt, chuẩn bị những bữa
cơm đón đứa con trai học Đại Học
Austin, về nhà sum họp trong mấy ngày lễ
Tạ Ơn. Suốt ngày làm việc cực nhọc,
lại lái xe đường xa, thời tiết cực
kỳ nguy hiểm, nên khi về đến nhà
Mít đã mệt nhoài. Tuy nhiên, vừa
tưởng tượng đến vẻ mặt
thích thú của thằng con khi thưởng thức
món ăn khoái khẩu, lòng Mít rộn
ràng sung sướng, thím tung tăng xách giỏ
thực phẩm nặng trĩu vào nhà, tíu
tít hỏi han chồng để che dấu nỗi mỏi
mệt, rồi phóng ngay vào bếp, lăng
xăng nấu nướng. Mít vẫn trung thành với
truyền thống của người mẹ Việt Nam
ngàn đời, là luôn luôn gói
ghém tình thương ngọt ngào của
mình cho chồng con qua việc tận tình chăm
sóc những bữa ăn tươm tất. Thằng
bé lớn lên xứ người, nhưng Mít
vẫn cố gắng dạy con sống theo nề nếp
dân Việt, nói tiếng Việt, cũng như tập
cho con ghiền thức ăn thuần túy Việt. Ghiền
món ăn của mẹ, thì dẫu già đời,
đứa con cũng thích quay về nhà, nếm
hương vị ngày xưa, chớ không xa
lìa biền biệt như con cái xứ người.
Chính vì vậy, Mít đã đón con
bằng một nồi "mắm sặt và rau", một
món ăn quê mùa rẻ rề xứ mình
nhưng lại cầu kỳ rắc rối tại xứ
người.
Cơm nước
chuẩn bị sắp xong vẫn chưa thấy con về,
thím Mít bồn chồn trông ngóng.
Thím luống cuống hỏi chồng :
- Anh Năm ơi !
Sao đến giờ nầy mà thằng Sơn chưa
về ?
- Ơ ! có
gì đáng lo lắng đâu ! thời tiết
xấu nên nó về trễ một chút vậy
thôi !
Mít chợt
nghe đau nhói ở ngực, ngột ngạt xuýt
khuỵu xuống, khi nghĩ đến điều gở
có thể xảy đến cho con trên xa lộ hiểm
nghèo. Cơn đau của thím vụt tan biến,
khi có tiếng chân bước rầm rập, rồi
thằng bé phóng vào mang theo niềm vui rộn
rịp cho cả nhà. Thằng bé reo vang khi nghe
mùi vị mắm quen thuộc. Sơn tíu tít
kể chuyện, vừa phụ giúp mẹ dọn
bàn. Thế rồi, cha con chồng vợ, sau mấy
tháng mới có dịp kề cận bên nhau
trò chuyện, vừa thưởng thức bữa
cơm gia đình ấm cúng và tràn đầy
hạnh phúc. Nhìn cảnh hai cha con tận
tình chiếu cố món ăn khoái khẩu,
mà người nội trợ mát lòng mát
dạ. Cùng ngồi ăn, nhưng thím chỉ nhai
và nuốt. Bao nhiêu tâm trí thím đều
đổ dồn cho con, thím say sưa thưởng thức
con, như một người nghệ sĩ thưởng
thức danh tác của họ. Tác phẩm của
thím toàn bích, từ dung mạo cho đến
tánh tình, từ chuyện học hành đến
chuyện chơi đùa … chuyện gì cũng
khiến thím hỉ hả hãnh diện trong
lòng.
- Má ơi !
má !…, thằng bé đả đớt gọi
mẹ.
Mít vẫn
thích thú được con nhõng nhẽo, dẫu
cho đến ngày đứa con biến thành cụ
già. Thím xây qua bẹo càm con, ngọt
ngào lên tiếng :
- Gì
đó con trai cưng !
- Ơ ! con Pat
nó muốn đến nhà mình chơi
ngày mai !
Mít giật nẩy
người như đỉa chạm phải vôi.
Thím hơi sẵng giọng :
- Con Pat nào ?
Phải con tóc vàng, miệng rộng … đến
nhà chào má một cái, rồi phóng
tuốt vào phòng con đóng cửa kín
mít phải không ?
Sơn bẽn lẽn
:
- Dạ !… con
gái xứ nầy mà má. Đứa nào cũng
tự nhiên, bạo dạn như vậy cả. Mấy
đứa Việt Nam như Lyly, Mimi … đến
nhà mình cũng chui vào phòng con kia mà
!
Dĩ nhiên
Mít dư biết điều đó, nhưng linh
tính đàn bà báo cho thím biết
nguy cơ ngấm ngầm bắt nguồn từ cô
gái Mỹ nầy, nên thím đã phải
lưu ý từng chi tiết.
- Ừa ! đến
chơi thì đến ! mà việc gì phải
xin phép ba má !
- Ơ ! tụi con
thương nhau …, tính chuyện thiệt
tình, nên nó muốn con giới thiệu ba
má …
Viễn ảnh về
một cô dâu Mỹ từ lâu vẫn ám ảnh
Mít, nhưng thím đâu ngờ thảm trạng
ghê gớm đó xảy ra đột ngột
đến thế. Sau một thoáng sững sờ chết
lặng, thím run rẩy gắt gỏng hét :
- Má không
đồng ý ! không có vụ giới thiệu
giới thiếc gì hết ! Má không muốn
thấy mặt con đó đến nhà nầy !
Thấy thằng
bé buồn hiu, xuội lơ … và có lẽ
cũng tự biết phản ứng của mình
quá quyết liệt, Mít dịu giọng :
- Con còn nhỏ
lắm ! nghĩ đến chuyện bồ bịch
làm cái gì ?
- Con đâu
còn nhỏ nhít nữa. Con đã lớn
khôn, đối đáp với người
ngoài con đâu có thua sút ai đâu ?
- Ý má
là con phải chuyên tâm học hành, chớ
bày đặt dính líu tới con gái
thì tương lai lở dở đi !
- Vậy miễn
là con học giỏi thì má cho con tự do luyến
ái hén ! … Nè, xin má xem bảng kết
quả học vấn của con đây ! môn
nào con cũng được A cả mà ! …
Nhận thấy
đứa con vốn ngoan ngoãn vâng lời
mình, nay mới dính líu tới đứa con
gái Mỹ đã cù cưa đối
đáp, Mít giận dỗi hét vang :
- Giao thiệp với
ai cũng được ! mà tuyệt đối cấm
liên hệ với con đó. Thứ con gái
gì trơ trẽn, không chút lễ độ,
ưa hổng vô … Mà tại sao đám con
gái Việt, con bà Thanh và bà Thủy
đứa nào cũng ngoan ngoãn dễ
thương sao con không chọn …
- Má kỳ thị
người Mỹ ai mà chẳng biết ! Đám
bạn con đến nhà : gái Việt thì
má vồn vã, gái Mỹ thì má lạnh
lùng, má không cho người ta có cơ hội
thân thiện thì làm sao đánh giá
người ta được !
Tiếng Sơn
nói càng lúc càng lớn, lộ vẻ uất
ức nhưng không đến nỗi hỗn hào :
- Con nói thiệt,
con thương má con nghe lời má mọi chuyện
nhưng chuyện yêu đương của con thì
con sẽ làm theo ý con. Má không thể
ép con được đâu ! Con cưới vợ
cho con chớ đâu phải cưới vợ cho
má, mà má muốn chọn lựa người
đúng theo ý má …
Mít uất ức
khổ đau vô hạn, thím không ngờ đứa
con mà cả đời thím hi sinh, thương
yêu dạy dỗ, nay lại có thể đôi
co cãi lý với thím. Trong một thoáng
chán chường, thím bỗng có ý nghĩ
chết quách cho rồi, hoặc trốn đi biền
biệt hay vĩnh viễn từ con, coi như không hề
sanh ra nó.
- Sơn con ! -
chú Năm bỗng nhiên lên tiếng, giọng
chú chậm nhưng nghiêm nghị - dĩ nhiên
trong việc hôn nhân, con được tự do chọn
lựa người con thương, dù đó
là người Việt hay ngoại quốc …
Mít sa sầm
nét mặt thầm trách ông chồng lè
phè không chịu dạy con, giờ nầy mới
lên tiếng thì lại "bắt giàn cho
nó leo". Thím phiền ông xã bao
nhiêu thì thằng con hí hửng khoái
"ông già" bấy nhiêu.
Chú Năm ngọt
ngào nói tiếp :
- Tuy nhiên
hôn nhân là việc quan trọng, ảnh hưởng
đến suốt đời con, nên ba má phải
lưu ý một chút, mà nếu má con
có quan tâm hơi nhiều, chẳng qua vì bả
thương con quá sức, lo sợ con bị lầm lạc
đau khổ vậy thôi. Dù sao, ba cũng xác
nhận ba má chỉ góp ý, còn con mới
chính là người quyết định chuyện
hôn nhân của con, con đồng ý không ?
- Dạ !
- Vấn đề
trước mắt là chuyện học của con,
đó là ưu tiên hàng đầu
mà cả đời ba má lo lắng cho con. Năm
qua con học khá, nhưng con còn đến ba
năm nữa mới ra trường, mà ba không muốn
chuyện tình ái ảnh hưởng đến việc
học của con. Vậy ba quyết định như thế
nầy : Bây giờ con có thể giao thiệp,
nhưng không yêu đương sâu đậm,
không hứa hẹn, không chung sống …, đợi
đến khi ra trường thì con tự do chọn
ai kết hôn cũng được, ba má không
ngăn cản gì hết … Con đồng ý
không?
- Dạ !
Thấy thằng
bé tuy đồng ý mà có vẻ gượng
gạo, chú Năm tiếp tục thuyết phục :
- Ba biết rằng
con tự tin con đủ khôn ngoan để
đương đầu đủ mọi vấn đề
rồi! Điều đó dĩ nhiên chẳng
có gì sai quấy, vì đúng ra, ba
còn có thể xác nhận là con khôn
và hiểu biết về nước Mỹ hơn ba
nhiều. Nhưng chắc con đồng ý với ba
điểm nầy : so với năm qua, mức độ
khôn ngoan của con năm nay tiến xa vượt bực
phải không ?
- Dạ ! quả
thật như vậy !
- Đó ! cứ
mỗi năm con sẽ khôn hơn một bực, ba
năm nữa ra trường rồi, con sẽ khôn
ngoan, hiểu biết hơn năm nay nhiều lắm. Chừng
đó, con muốn yêu ai, kết hôn với ai,
ba má cũng tán đồng tất cả. Chớ
bây giờ con lậm tình quá sớm, học
hành chểnh mảng, thì làm sao có nghề
nghiệp vững chắc nuôi vợ nuôi con. Con
có tin chắc rằng con Pat vẫn thương con, nếu
con là kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp
chăng ?
Ngưng một
chút để cho con suy tư, chú Năm mới tiếp
tục, giọng nghiêm trang quyết liệt :
- Tóm lại,
nếu con thương ba má, biết vâng lời ba
má, thì con hãy chấm dứt chuyện
yêu đương lẩm cẩm: không hứa
hôn, không chung sống … với ai trong lúc nầy.
Con hẹn với con Pat ba năm nữa, nếu nó vẫn
thương con như bây giờ thì ba rất vui
lòng, còn má con dẫu không vui nhưng rồi
cũng sẽ chấp nhận tác thành hai đứa
…
Tuy không tin chắc
đứa con hoàn toàn nghe lời mình,
nhưng thấy vẻ mặt nó hòa hoãn,
không còn lộ nét bất mãn nữa,
chú Năm tạm yên lòng. Chú nghĩ, chuyện
dạy con cần phải uyển chuyển, từ từ
giảng giải mới mong thấm sâu, nên
chú đổi đề tài sang hướng
khác. Chú cười vui vẻ rồi cất tiếng
:
- Nè ! con
nên nhớ nằm lòng rằng má con là thứ
"Mít" chánh cống, tuy sinh sống ở
nước ngoài mà lòng dạ, tư tưởng
của bả vẫn rặt ròng là
"Mít" ! Ơ ! mà con có hiểu rõ
ý nghĩa sâu xa của chữ "Mít"
chưa ? Chuyện dài dòng xa xưa lắm, thuở
mới xâm lăng nước ta người Pháp
gán dân Việt là "An-nam-mít", tiếng
lóng gọi tắt là "dân Mít",
danh xưng nầy là một sự mạ lỵ, nhắc
nhở tủi nhục của thời lệ thuộc Trung
Quốc khiến người Việt yêu nước phẫn
uất chống đối. Tuy nhiên, sau một thời
gian tranh đấu không xóa bỏ được
chữ nầy, người xưa nghĩ đến giải
pháp là hiên ngang tự nhận mình
là dân "Mít" với tất cả niềm
tự hào dân tộc. Điều nầy cũng
tương tợ như chuyện gần đây,
có những người bị gọi sỉ nhục
là "ngụy", bèn ưỡn ngực chấp
nhận mình là "ngụy" với sự
hãnh diện trong lòng. Ông cố ngoại con
là nhà nho yêu nước khi bôn ba xứ
người cảm thấy thương nhớ gốc
mít đậm đà : Mít là dân Việt
và cũng là hình dáng quê hương
gầy guộc qua gốc xoài, gốc mít. Ông
cố ngoại đặt tên má con là
Mít chính vì lẽ nầy …
Chú Năm vỗ
vai con cười hề hà :
- Nè con ! Ba
má đâu thể giữ con trong vòng tay ba
má mãi được, rồi đây, có
ngày con sẽ xa ba má, như con chim đủ
lông đủ cánh vươn mình bay cao. Niềm
ước mơ của ba má là mong con giữ
chút đạo đức gia phong và đừng
bao giờ chối bỏ gốc "mít" của
mình, vậy thôi !…
***
Mít thất vọng
chán chường. Bao nhiêu tình thương
và tin tưởng thím đặt trọn vào
đứa con trai cưng. Thím hi sinh tất cả cho
con, dẫu phải tan xương nát thịt để
chăm sóc cho con, thím chẳng hề ngần ngại.
Ước mơ đơn giản của thím là
được gần gũi con cháu, một nhà
vui vầy vậy thôi. Thế nhưng coi bộ chuyện
đó có vẻ gay go mù mịt lắm !
Ôi dâu Mỹ làm sao thấu hiểu tình
gia đình quấn quít, đâu dễ gì
cảm thông tình mẫu tử thả lỏng chồng
về thăm nom cha mẹ. Con quên mẹ nhưng mẹ
làm sao quên con được ! Rủi ro thím
nhớ con, lò dò đi thăm nó cũng
đâu phải chuyện dễ dàng : con dâu
nó dám viện cớ không có hẹn
trước, bận rộn, thiếu chuẩn bị …
cấm cửa không cho vào nhà thì lại
bẽ bàng ! Thím lại nghĩ đến
đám cháu nội tương lai mà lo lắng
chẳng biết bà nội có quyền bồng ẵm,
tưng tiu chăng? Và dù giận con, nghĩ đến
chuyện ăn uống của nó thím lại bồn
chồn rối rắm : thằng nhỏ quen được
chiều chuộng, chăm sóc …, thế mà sẽ
bị đày đọa, cho "dộng" toàn
bộ đồ hộp ngán ngẫm thì chịu
đời sao thấu ?
Chú Năm
ái ngại nhìn dáng dấp thiểu não của
vợ, ân cần an ủi :
- Em à ! chuyện
đâu còn đó ! rầu rĩ làm
gì cho nhọc xác !
…
- Nè em ! thằng
con mình tương đối cũng ngoan ! thủng thẳng
dạy dỗ rồi nó cũng nghe lời mình
mà !
Vỗ về
đôi phen, mà mụ vợ vẫn bùng thụng
hờn dỗi, chú Năm bèn trỗi giọng
cười cợt trêu ghẹo :
- Chà ! coi bộ
người ta sắp có con dâu Mỹ nên
làm tàng quá hén ! Nè ! tui báo
cáo cho bà biết : bọn Mỹ yêu cuồng
sống vội, đâu đứa nào chịu hẹn
hò ! vài tháng chờ đợi là
nó đã kiếm thằng khác rồi.
Bà dễ dầu gì có được dâu
Mỹ đâu mà lộ vẻ đắc chí
quá sớm như vậy ?
Té ra ông
chồng chỉ dùng kế "hoãn binh" chớ
không hùa theo phe với thằng con, hiểu ra.
Mít thấm ý tủm tỉm cười :
- Rủi như ba
năm nữa, mà con đó vẫn còn
thương thằng Sơn thì ông quyết định
ra sao ? Mít vẫn còn lo lắng.
- Trường hợp
đó hiếm hoi a ! Ơ … mà rủi ro hai
đứa nó thương nhau chân tình, ba bốn
năm chẳng đổi thay thì cũng đáng
khen, thôi thì mình cũng nên tác hợp
cho chúng nó.
Đang hớn hở
Mít bỗng tiu nghỉu, rồi chắc lưỡi thở
than :
- Ôi ! Con
cái thời buổi nầy chỉ toàn gây phiền
não cho cha mẹ mà thôi !
- Em ạ ! thật
ra ở thời đại nào giữa con cái
và cha mẹ cũng có những điểm
cách biệt. Đòi hỏi của con cái bao
giờ cũng bị coi là quá trớn, là
nguyên nhân gây khổ đau cho cha mẹ cả
! Uốn tốc quăn, mặc quần trắng, áo
eo, quần ống túm ống xòe, mang guốc cao
gót … ngày nay là việc bình thường
nhưng có thời cũng bị lên án
là đua đòi chuyện động trời
động đất !… Thôi em ạ ! bỏ qua chuyện
thằng nhỏ đi ! Thông cảm nó như ba
má đã bao dung, tha thứ biết bao hành
động lỗi lầm sai trái của mình
ngày xưa. Mình cũng làm cho ba má
điêu đứng "y chang" như ngày nay thằng
con gây ra cho mình ! Không nói dông
dài, chỉ riêng chuyện chúng mình lẹo
tẹo với nhau cũng đã làm cho ổng bả
nhức đầu nhức óc lắm rồi !
Chuyện tình
của Mít lâm ly, gay cấn từng hồi,
Mít ghi nhớ không sót một chi tiết nhỏ.
Bà già vốn mơ ước con rể là một
giáo sư đạo mạo, hiền lành, lại
hiểu rõ xuôi gia … chớ đâu chấp
nhận bản mặt "du côn", đi sĩ quan
Biệt Động hiểm nghèo như "cái ngữ"
đó. Điều éo le là Mít lại
mê cái bản mặt "ba gai" ngang tàng của
chàng quân nhân Biệt Động, nên nhất
quyết sống chết vì tình, dọa bỏ
nhà bỏ cửa, bỏ học, tự tử …,
để cuối cùng biết không thể
khuyên lơn cấm cản được ổng bả
đã phải nhượng bộ cô con gái. Từ
chuyện nầy dắt dây qua chuyện khác,
thím hồi tưởng cả quãng đời
niên thiếu, thực sự quán sát mình,
để bàng hoàng khám phá rằng
mình cũng là đứa con tội lỗi ngập
trời, chớ không phải là người con
hoàn toàn hiếu thuận, ngoan ngoãn như từ
trước đến nay thím từng yên
trí.
Ôi ! không
biết thời bú mớm Mít đã
đày đọa mẹ thế nào, nhưng thời
bé thơ còn nhớ được, Mít
là đứa con cưng được nuông chiều,
nên nhõng nhẽo và bướng bỉnh ngoại
hạng. Đòi hỏi nào của con bé cũng
có giá trị như mệnh lệnh để mẹ
phải cuống quít hầu hạ. Mẹ mà chậm
chạp một chút, thì bé giận dỗi, bỏ
ăn bỏ uống cho mẹ phải năn nỉ ỉ
ôi. Ăn uống mẹ phải đích thân
đút, ngủ mẹ phải ru, phải quạt
…, thế mà, bé vẫn thường dẫy nẫy
khóc la làm tình làm tội mẹ. Bé
yếu đau nhẹ nặng gì cũng có mẹ
âu yếm chăm sóc chẳng rời, đã vậy,
bé còn cố ý rên to, cho bà cuống
cuồng sợ hãi.
Lớn lên,
tánh nào tật nấy, mình cũng ham hố
ganh đua với bè bạn, đòi hỏi cho
được áo quần, giày dép, xe gắn
máy thời trang, để cha mẹ phải sói
đầu quần quật kiếm tiền cung phụng.
Đã vậy, tuổi dậy thì tâm tính
biến đổi kỳ hoặc, chợt vui, chợt buồn,
chợt lầm lỳ quạu quọ. Nhưng vui là
vui với bè bạn, chớ về nhà chỉ biết
câu mâu, nhăn nhó, đày ải mẹ,
thế mà mẹ vẫn vui vẻ xum xoe bên con
để cưng yêu chiều chuộng và cũng
để chầm chập kiểm soát giữ
gìn. Mẹ kềm kẹp kể ra khá nghiêm nhặt
: mẹ cấm đoán giao du, kiểm soát giờ
giấc, lục lọi thơ tín, mà lại
còn ron ren dò xét cả chuyện kinh nguyệt
trồi sụt nữa. Thời đó, Mít bực
bội, oán giận bà, lên án bà cổ
hủ, vô lý, bất công …, nhưng giờ
đây, có con lớn, từng nơm nớp sợ
con sa vào băng du đảng, vướng xì ke
ma túy, bệng Aids nan y … Mít mới thấu hiểu
được nỗi phập phòng âu lo canh
cánh của mẹ đối với đứa con
gái thơ ngây hơ hớ trước bẫy rập
của cuộc đời. Cũng nhờ nhớ lại
tâm trạng mình khi tiễn con đi học đại
học xa nhà, đường liên lạc thuận
tiện, mà đã đờ đẫn như chết
nửa thân người, thì Mít mới
hình dung được nỗi đớn đau ruột
gan quặn thắt của mẹ, khi bà phải gượng
gạo dối lòng cắn răng khuyên con vượt
biên chọn con đường sống.
Công cha như núi
Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra.
Mít
đã học thuộc làu làu câu ca dao từ
thuở lên năm, nhưng phải đợi đến
hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi
con, thực sự lo lắng đau khổ vì con,
thím mới "thực chứng" được
tình cha mẹ cao sâu diệu vợi như thế
nào.
Ngày xưa, mỗi
khi ru con cháu, mẹ thường rưng rưng lệ,
thiết tha cất tiếng đong đưa
"à ơ, …
Cha mẹ ơi, sanh con là
gái
Biết chừng nào trả
ngãi mẹ cha !
Chừng nào cho cá
hóa rồng
Đền ơn cha mẹ, ẵm
bồng thuở xưa !"
Thuở
đó, Mít ngạc nhiên chẳng hiểu
câu ca dao tầm thường, vần điệu lệch
lạc đó đâu có hay ho gì sao lại
gây xúc động nơi bà. Té ra,
tâm trạng bà như tâm trạng Mít
hôm nay. Nuôi con mới thấu rõ được
ân nghĩa cao sâu của cha mẹ, để bất
chợt khám phá rằng chuyện trả ơn cha
mẹ chỉ là chuyện không tưởng xa vời
như chuyện cá hóa rồng mà thôi.
Và, do đó, thương nhớ cha mẹ ngập
tràn mà chỉ biết ngậm ngùi thở
than …
Không cất tiếng
ru, mà Mít cũng rưng rưng nước mắt,
thím thầm thì :
- Ba má ơi !
công ơn của cha mẹ vô biên không ngần
mé, thân con dẫu băm vằm cũng chưa chuộc
nổi lỗi lầm huống chi viển vông nghĩ
đến chuyện báo đền ân nghĩa. Con
chỉ có một ước mơ nhỏ nhoi, mơ một
lần gần gũi ba má, được nghe,
được nhìn, được rờ …
được ấp ủ trong vòng tay gầy gò
của ba má như thuở ấu thời. Rồi con sẽ
hôn ba má và thưa rằng "Con
thương ba má lắm ! ba má ơi !". Thế
nhưng ước mơ của con mong manh quá, đời
con vô phần bạc phước có lẽ chỉ
có thể vô vọng trách than thân phận
mình, thân phận kẻ lấy chồng
phương xa :
"Than ôi ! cha yếu mẹ
già !
Chén cơm đôi
đũa, bộ kỷ trà ai dâng !?"
- Vừa nhắc tới
ba má thì bà lại "mít ướt"
(2) nữa rồi !, chú Năm ái ngại hỏi
han vợ.
Sụt sùi một
lúc lâu, Mít ngập ngừng cất tiếng :
- Anh Năm à
! có bao giờ cá hóa thành rồng không
anh ?
- Chà ! điển
tích ngư hóa long tui không mấy rành
đa ! Chỉ biết trong thiền viện, chuyện con
cá chép lội ngược giòng, vượt
qua bậc tam cấp để thành rồng được
so sánh như người hành giả lội
ngược giòng đời, vượt qua ba ải
tham, sân, si … thành bậc chánh đẳng
chánh giác. Thành Phật thì cha mẹ
đời đời kiếp kiếp cũng cứu độ
được, ân nghĩa thâm sâu thế
nào cũng đền đáp vẹn toàn phải
không em ?
- Ôi ! anh đề
cập chi chuyện không tưởng đó !
mình là con người tội lỗi, tham sân
si mờ mịt làm sao dám ước mơ
thành Phật ?
- Sao bà bi quan
như vậy ? Theo lời Phật dạy thì bà
là Phật sẽ thành (3) kia mà. Còn
nói theo ngôn ngữ bộc trực của chư
thiền sư thì bà đã là Phật sờ
sờ (4) ra đó, tại bà chưa nhận
chân ra được mà thôi !…
Rồi chú cất
tiếng ngâm nga :
"Là cá hóa long
tự thuở giờ !
Mê mờ nước đục
dập dờ nổi trôi !"
--------------------------------------------------------------------------------
Ghi
chú :
1. Tiếng
lóng mỗi nơi mỗi khác. Những chữ ghi
trong truyện nầy xuất hiện tại Houston và
Dallas (Texas). Tác giả không rõ tại tiểu
bang khác, những tiếng lóng nầy có
thông dụng không ?
2. Mít ướt
là loại mít múi mỏng cơm và
nhão, được sử dụng theo nghĩa
bóng để chỉ những kẻ mềm lòng,
mau nước mắt …
3. Đức Phật
dạy : "Ta là Phật đã thành,
chúng sanh là Phật sẽ thành"
4. Giai thoại về
câu hỏi "Phật là ai" có rất nhiều
trong thiền sử. Xin đơn cử vài trường
hợp điển hình :
a. Linh
Huấn, đệ tử của Tri Thường, một
hôm hỏi thầy :
- Phật là
ai ?
- Ta sẽ
nói cho ngươi, nhưng ngươi có tin
không ?
- Dĩ nhiên
là con tin.
- Phật
chính là ngươi đó !
b. Một
tăng sĩ hỏi Đại Long Tri Hồng :
- Phật là
ai ?
- Phật là
ngươi !
- Làm sao con
hiểu ?
- Ngươi sợ
bình bát không có quai à ?
c. Huệ
Siêu hỏi Pháp Nhãn :
- Phật là
ai ?
- Chính
ngươi ! tức là Huệ Siêu đó !
Tuyết Đậu
thiền sư, tác giả Bích Nham Lục, có
bài tụng luận bàn như sau :
Giang Quốc
xuân phong xuy bất khởi
Chả cô
đề tại thâm hoa lý
Tam cấp
lãng cao ngư hóa long
Si nhân do
đậu dạ đường thủy.
Việt dịch
của hòa thượng Mãn Giác :
Giang Quốc
gió xuân thổi không lên,
Chim sáo
hót trong bụi hoa sâu.
Ba bực
sóng cao cá hóa rồng,
Kẻ mê vẫn
múc nước hồ đêm.
(trích
Bích Nham Lục)
Tác giả cũng
xin phỏng dịch :
Gió xuân
lặng tại xứ Giang
Thâm sâu
hoa lý, hót vang sáo nhồng
Vượt
sóng cao, cá hóa rồng
Người ngu lẩn
thẩn tát sông tìm cầu !
Tác giả cũng
xin góp chút thiển ý : Cá hóa long
mà chưa nhận chân được mình
là rồng, thì đâu thể lồng lộng
bay cao, chỉ lúc thúc cam phận cá chui
rúc trong giòng nước đục nổi
trôi :
Là cá
hóa long tự thuở giờ
Mê mờ
nước đục, dập dờ nổi trôi …
HUỲNH TRUNG CHÁNH
(NNS sưu tầm, DP-Canada chuyển)