Quan
âm chỉ lộ
(Nguyễn
Huy Thiệp)
Ngôi trường vùng cao ở
lưng chừng đồi, đơn sơ một
ngôi nhà gianh vách đất, một nửa
là lớp học, một nửa là chỗ ở
của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học
thường xuyên xê dịch có từ 7 đến
20 học sinh của năm dân tộc là Mông,
Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.
Hai cô giáo Thu và Kiểm
đều quê ở Tiền Hải Thái Bình,
bố mẹ là dân chài vùng biển. Hai
cô học hết cấp 2 phổ thông trung học
thì đi học một lớp sư phạm nâng
cao hai năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn
thanh niên có phong trào “thắp lửa
ánh sáng vùng cao”, họ ghi tên tham gia
và mười ngày sau họ có mặt ở
ngôi trường này.
Ai lên Sa Pa, nếu đến
nơi xa nhất thì phải đến bản Suối
Thầu. Từ chợ Sa Pa đến đây tròn
70 cây số. Người Mông, người Dao giỏi
đi bộ thì mỗi ngày đi được
20 cây. Thu và Kiểm vẫn thường xuyên
đi lại trên tuyến đường này.
Ngôi trường của họ ở nơi hẻo
lánh nhất của vùng đất du lịch
không thể nói là không phù hoa
đó. Ôi Sa Pa, Sa Pa ... Mảnh đất tình
yêu! Mảnh đất giữ người!
Tết năm ngoái, tôi
có dịp lên Sa Pa theo lời mời của gia
đình một người bạn. Anh Lai, Vụ
trưởng một Vụ, chuẩn bị đi làm
đại sứ một nước ở châu Âu,
quyết định không ăn Tết ở Thủ
đô mà đưa cả nhà đi du lịch.
Họ sẽ ăn Tết ở Sa Pa. Tôi được
mời đi theo “tháp tùng”. Mấy
năm gần đây, hội “tay to” ở
Hà Nội có “mốt” không ăn Tết
ở nhà mà đóng cửa đi dã ngoại
để đổi không khí, cũng tránh cả
việc người ta đến lễ lạt nhờ vả
nhiêu khê ... Tiền nhiều chẳng làm
gì. Chất lượng cuộc sống trên hết.
Sống vẻ vang, chết nhẹ nhàng ... Những triết
lý như thế gần đây tôi được
nghe nhiều ở các quan chức và giới doanh
nhân thành đạt. Cũng là một “mốt”
...
Chị Hỷ, vợ anh Lai (xuất
thân thợ dệt) tính rất chu đáo
đã mua vé tàu hỏa, thuê nhà, chuẩn
bị thức ăn chu đáo cho 10 ngày nghỉ Tết,
mọi người chẳng ai phải mó tay vào.
- Không thiếu thứ gì! -
Chị Hỷ vui vẻ bảo tôi - Chú sẽ
được ăn Tết như ở nhà mình.
Gia đình anh Lai có năm
người: hai vợ chồng anh, cháu Quang đang du
học ở Mỹ (đại học Duke) về nghỉ
Tết, cháu Vân đang học lớp 12 trường
Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô
"ô-sin" người vùng đạo gốc
Bùi Chu.
- Chú là nhà văn danh
tiếng nhưng nghèo - Anh Lai bảo tôi - Nghề
của chú chẳng phải là nghề.
Đó là nghiệp chướng. Đọc,
đi, viết là ba công đoạn mà tay
nhà văn nào không làm được
thì đừng nói gì đến có
tác phẩm. Không đọc, không đi
thì viết thế nào? Nhưng không có tiền
thì chịu. Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng
tôi “bao” hết, chỉ mong chú viết
được cái gì hay hay đóng góp
cho đời. Vợ chồng tôi chọn Sa Pa cũng
là vì chú! Ngày xưa, Khổng Tử du
ngoạn Thái Sơn có nói được
câu chí lý: “Người nhân từ
yêu núi, người có chí yêu nước”.
Nhà văn phải là người nhân từ,
phải là người nhân nghĩa, nhân
văn ...
Tôi nghe. Tôi đi cũng
là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi
không biết, ngày trẻ tôi đã ở
miền núi Tây Bắc 10 năm, miền núi
tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi, một chuyến
đi du lịch, một cái Tết xa nhà cũng tốt
cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những
đứa con tôi đã lớn, chúng không
cần tôi nữa, tôi và danh tiếng hão
của tôi đã là gánh nặng cho cả
gia đình ...
Chúng tôi lên Sa Pa
vào 25 Tết. Chị Hỷ thuê một biệt thự
riêng. Mọi người ai nấy đều như
chim sổ lồng: anh Lai đi thăm vùng trồng hoa
với bạn học cũ là phó chủ tịch
thị xã, cháu Quang và cháu Vân đi
Thác Bạc - Cổng Trời, cô "ô-sin"
đi lễ nhà thờ rồi đi chợ, chị Hỷ
ở nhà “giữ gôn”. Còn tôi, số
phận run rủi, ma xui quỷ khiến thế nào
mà tôi lại đến ngôi trường của
hai cô giáo Thu và Kiểm.
Ở Sa Pa, có một cửa
hàng bán đồ cổ nhỏ. Chủ ở
đây nghe nói là một người Nhắng
giàu có. Tôi rất thích vài thứ
bày ở đây nhưng giá của nó
khá đắt. Thấy tôi loay hoay mãi bên
cửa hàng, một anh chàng lái xe ôm gạ
tôi:
- Nếu ông thích mấy thứ
này, tôi đưa ông vào bản Tả Van
hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể
có người còn có nhiều thứ hay.
Tôi lưỡng lự. Anh ta
nói thêm:
- Càng đi xa càng nhiều
thứ quý.
Tôi hỏi:
- Ở Sa Pa, nơi xa nhất
là đâu?
- Suối Thầu.
- Đi có khó không?
- Cũng không khó lắm.
Tôi xem đồng hồ, thấy
còn sớm bèn quyết định đi chơi
xa một chuyến. Anh lái xe bảo tôi:
- Chắc ông sẽ không thất
vọng vì chuyến đi này.
Tôi ngồi lên xe. Chiếc
xe “Min-khơ” dã chiến phóng nhanh như
gió. Rừng núi đại ngàn trùng
điệp mở ra trước mắt. Tôi chưa bao
giờ đi một cuốc xe kinh hoàng như thế.
Một bên là vực sâu, một bên
là núi cao. Thỉnh thoảng, một trận
mưa địa hình đột ngột trút xuống.
Gió lồng lộng thổi. Tôi đã có
thâm niên ở miền núi nhiều năm
nhưng quang cảnh hùng tráng thế này
thì không phải miền núi nào cũng
có. Những viên sỏi bắn vào hai bên
lốp xe rào rào. Anh lái xe ôm, chắc
đã quen đưa khách đi du lịch
phiêu lưu thế này, chỉ chăm chú
nhìn về phía trước, tôi nghĩ nếu
tôi ngã xe có khi anh ta cũng chẳng biết
gì.
Đường vào Suối Thầu
đi xe máy cũng hơn 5 tiếng đồng hồ.
Anh lái xe ôm bảo tôi:
- Theo tôi, tốt nhất là
ông nên nghỉ lại đây đêm nay.
Tôi có thể chỉ cho ông vài nơi nghỉ
trọ. Bọn Tây du lịch cũng hay làm thế.
Bọn “gai” (tour - guide: hướng dẫn
viên du lịch) người Mông vẫn dẫn họ
vào đây như cơm bữa. Giá nghỉ trọ
ở đây cũng mềm, chỉ khoảng độ
10 đồng bạc là cùng.
Tôi nghe lời chỉ dẫn của
người lái xe ôm. Anh ta dẫn tôi vào
trong ngôi trường học mà tôi đã
kể ở đầu câu chuyện. Hai cô
giáo rụt rè ra đón vẻ rất băn
khoăn. Tôi tự giới thiệu về mình.
Cô giáo thấp lùn, có khuôn mặt
vuông vức tên là Kiểm mắt sáng
lên:
- Em đã từng nghe đến
tên ông. Nếu ông đúng là nhà
văn thì em cho trọ.
Cô giáo người gày
gò, trắng trẻo tên là Thu hỏi anh
lái xe ôm:
- Anh về Sa Pa hay cũng nghỉ lại?
Anh này trả lời:
- Tôi về thôi. Mai lại
vào. Ông nhà văn này muốn tìm
đồ cổ, có gì nhờ hai cô giáo
tìm giúp.
Họ chia tay nhau. Hai cô giáo
dẫn tôi vào lớp học, ở đấy
đang có một cô bé người Mông ngồi
tập viết chữ. Hai cô giáo loay hoay kê những
chiếc ghế băng sát lại, sau đó họ
mang đệm và chăn bông vào. Ngay lập tức,
tôi đã có một chiếc giường ngủ
hảo hạng. Tôi lấy điện thoại di động
gọi về Sa Pa, anh Lai và chị Hỷ trách
tôi nhưng hai cháu Quang và Vân thì
thích, hứa có thể sẽ vào Suối Thầu
với tôi.
Đêm hôm đó,
bên bếp lửa, tôi được nghe hai cô
giáo Thu và Kiểm kể về cuộc đời
của họ.
- Thế hai cô ở đây
được mấy năm rồi?
- Được 6 năm.
- Thế Tết này các
cô có về quê ăn Tết hay không?
Cô Kiểm thở dài:
- Cái Thu thì 27 Tết mới
về. Còn em ... Tết này chưa chắc em về
được.
- Thế có năm nào
các cô ăn Tết ở đây hay không?
Cô Thu bảo:
- Tết năm nào em cũng về
quê ăn Tết. Em đang định bỏ việc, ở
đây chán lắm. Còn cái Kiểm,
sáu năm rồi, năm nào nó cũng ở
lại. Năm nào nó cũng bảo: “Tết
này chưa chắc em về được”.
Cô Kiểm quay mặt về phía
bóng tối, giấu ánh mắt buồn buồn.
Tôi không tiện hỏi, bèn quay sang nói
chuyện về phong cảnh với khí hậu Sa Pa.
Tôi cũng hỏi về các món đồ cổ
lưu lạc ở trong các gia đình người
dân tộc ở vùng cao này. Thế kỷ
XVIII, Hoàng Công Chất khởi nghĩa ở đồng
bằng, bị triều đình đánh đuổi
lưu lạc lên đây, có nhiều gia
đình thổ hào đi theo. Đây cũng
là vùng buôn bán hàng lậu từ
Vân Nam Trung Quốc sang. Vì thế, rất có
thể có nhiều đồ cổ lưu lạc ở
đâu đấy rất quý giá.
Sáng hôm sau, cô giáo
Thu chuẩn bị về quê. Lớp học đã
nghỉ, chỉ có vài ba đứa học sinh thỉnh
thoảng đến xin bài về học trong dịp
nghỉ Tết. Cô giáo Kiểm dặn dò
chúng. Ngày xưa, khi còn đi dạy học ở
vùng núi Tây Bắc, tôi đã hiểu
tâm trạng của các thày cô giáo miền
xuôi lên dạy học ở miền núi
vào những ngày này. Lòng dạ rối bời
cứ như lửa đốt, sắm sửa quà Tết,
gói ghém đồ đạc, mong chờ kỳ
lương cuối cùng trong năm, bóng dáng
của người thân cứ hiện rõ dần
... Ôi tuổi trẻ phiêu lưu và ngốc nghếch!
Ngươi chẳng sợ gì gian khó, chẳng sợ
gì cô đơn, dòng máu chảy trong huyết
quản của ngươi mới mạnh làm sao, những
chân trời nào và ánh mắt nào vẫy
gọi? Giọng cười nào, tiếng hát
nào, giấc mơ nào của ngươi cũng
đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết
hiến tặng cho cuộc đời, cho con người
... mà người thì bạc như vôi,
còn đời thì ngắn ... Nhưng chẳng sao,
chẳng sao cả, những lớp người kế tục
nhau như những đợt sóng bên ngoài
trùng khơi ...
Cô giáo Kiểm cho một học
sinh dẫn tôi đi vào trong bản. Phần lớn
các nhà ở đây đều nghèo, nhiều
người Mông, người Nhắng nghiện thuốc
phiện. Tôi rẽ vào một ngôi nhà
trên núi, thấy một người đàn
ông người Mông trạc 50 tuổi đang vật
vã vì đói thuốc. Chị vợ đang
ngồi giã mèn mén. Thấy tôi vào, họ
cũng mặc kệ. Tôi lân la hỏi chuyện
người vợ. Tôi nhìn thấy trong chạn
bát có một pho tượng Phật nhỏ bằng
đồng đen thui. Pho tượng rất lạ,
đó là hình hai mặt Quan Thế Âm Bồ
Tát ngồi trên toà sen đặt trên
đống tiền và trên đĩnh vàng,
có mấy chữ Hán, tôi chỉ đọc
được bốn chữ: “Quan Âm chỉ lộ”.
Tượng Quan Thế Âm tôi đã thấy
nhiều, nhưng tượng được đặt
trên một đống tiền và vàng
thì chưa từng thấy. Tôi đoán
đây là tượng của một thương
gia nào đó, có thể được
đúc riêng nhân kỷ niệm mừng sinh nhật
hoặc mừng tân gia cho ai đó. Pho tượng
trông rất có thần, đường nét
tinh tế, không cổ lắm nhưng rõ ràng
không phải tượng mới. Trong ruột bức
tượng, có lẽ người ta có yểm
bùa và cho vào đó những viên sỏi
kỳ lạ, lắc lên nghe lạo xạo.
Tôi hỏi người
đàn bà, tỏ ý muốn mua pho tượng.
Người chồng trừng mắt:
- Không bán đâu.
Nó là gia bảo đấy!
Tôi không gặng hỏi,
tôi biết người Mông tính rất dứt
khoát. Tôi rất ái ngại vì thấy
tình cảnh của gia đình này thật bi
đát. Tôi lấy ra một món tiền nhỏ
tặng chị vợ. Chị ta không nhận, nhìn
về phía người chồng rồi nói:
- Không lấy tiền
đâu! Nếu có tiền nó lại đi mua
thuốc phiện.
Người chồng đứng
lên, giật phắt lấy số tiền trên tay
tôi, quát vợ:
- Nó cho mình thì
mình lấy chứ!
Chị vợ bối rối,
không biết làm sao cả. Chị ta nói với
chồng:
- Hết gạo rồi! Cũng
không có thịt mà ăn Tết nữa!
Người chồng không
nói năng gì, khoác chiếc áo bông cũ
đi ra. Chị vợ bảo tôi, vẻ bực
mình thực sự:
- Ông hại nó rồi.
Nó sẽ đi đến mai mới về!
Tôi nhớ mãi ánh mắt
chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều
ánh mắt của những người phụ nữ
đau khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại
vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng
thấy gì, nó không đủ sức lưu lại
hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật
gì. Không biết những người chồng,
người con, những người thân của họ
đã làm những gì để làm cho
nó khô kiệt, đã làm mất hết
đi vẻ tinh anh trong ánh mắt kia? Cuộc đời
con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số
chúng ta đã được yêu thương,
đã được vuốt ve bởi những
ánh mắt chân tình tự nhiên không hề
vướng bận sân si vụ lợi?
Tôi quay trở về trường
học, lòng thoáng buồn. Anh lái xe hôm
qua đã quay trở lại, chuẩn bị chở
cô giáo Thu ra Sa Pa để mua vé tàu hoả
về quê ăn Tết. Cô giáo Kiểm và
cô bé học trò người Mông ra tiễn
họ.
Anh lái xe hỏi tôi:
- Ông có về không?
Tôi bảo:
- Tôi muốn ở lại. Nếu
được, ngày mai anh vào đón tôi.
Anh lái xe cười:
- Tôi biết ngay mà ... Sa Pa là mảnh đất
tình yêu, mảnh đất giữ người ...
Buổi chiều, cô giáo Kiểm
và cô học trò người Mông (sau
này tôi biết tên nó là Giàng Seo
Mẩy) loay hoay dọn dẹp, quét dọn xung quanh
ngôi trường đón Tết. Cô giáo Kiểm
mang cờ ra, treo lên cái cột ở giữa
sân trường. Chập tối, lúc chúng
tôi chuẩn bị ăn cơm thì có
khách đến. Tôi đoán đấy
là chồng hoặc người nhà cô Kiểm.
Người đàn ông này tên Công, trạc
50 tuổi, dáng điệu phong trần, như ở
nơi rất xa xôi đến. Cô Kiểm mừng
rỡ, đun nước nóng cho ông ta ngâm
chân, săn sóc ông ta từng ly từng
tí.
Trong bữa cơm ông ta bảo
cô giáo Kiểm:
- Anh chỉ ở đây với
em đến mồng 1 Tết. Sáng mồng 2 Tết
anh phải đi rồi.
Cô Kiểm bảo:
- Tùy anh. Anh ở bao lâu cũng
được.
- Nếu anh không lên, em
có về quê ăn Tết hay không?
- Em không biết. Tết
này chưa chắc em về được
Ăn cơm xong, người
đàn ông rủ tôi ra ngoài ngồi
hút thuốc. Ông ta hỏi:
- Có phải ông là
nhà văn viết cái gì đó về hoa
thủy tiên phải không?
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta bảo:
- Tôi có nghe loáng
thoáng về ông. Ông là nhà văn nổi
tiếng, đã đi ra nước ngoài nhiều
lần.
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta nói:
- Tôi cũng đã đi ra
nước ngoài nhiều lần. Càng đi,
càng thấy thương nước Việt Nam
mình. Đất nước mình thật đẹp,
dân mình thật tốt, chỉ phải cái
nghèo.
Tôi hỏi ông ta về quan hệ
của ông ta với cô giáo Kiểm. Ông ta
thở dài:
- Đấy là người
mà tôi yêu dấu vô cùng. Tôi
có vợ rồi, nhà ở Lạng Sơn. Tôi
biết Kiểm 3 năm nay rồi. Năm nào tôi cũng
về đây ăn Tết. Kiểm đối với
tôi đúng là “hồng nhan tri kỷ”.
Tôi được một người như thế
yêu thương thì chết cũng chẳng
oán hận gì.
Tôi hỏi:
- Ông biết cô ấy trong
trường hợp nào?
Ông ta bảo:
- Cũng giống như ông.
Tôi đi du lịch, đúng hơn là tôi
đi tìm cái chết. Hồi ấy tôi
làm ăn thất bại, gia đình tan nát,
tôi rất chán đời. Tôi lên Sa Pa,
định trèo lên đỉnh Phan-Xi-Păng tự
vẫn. Nhảy vèo xuống núi một cái
là xong. Tôi gặp Kiểm, Kiểm mang tình
yêu đến cho tôi. Kiểm đúng là
Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn
“save from misfortune and danger”. Tôi biết ơn
cô ấy. Tết nào cô ấy cũng đợi
tôi.
Tôi bảo:
- Ông có vẻ như một
người hạnh phúc.
Ông ta bảo:
- Cám ơn ông. Cũng còn
tuỳ thuộc cách nhìn. Từ khi biết Kiểm,
tôi sống tốt hơn lên. Tôi yêu mến
tất cả mọi người, tôi làm nhiều
việc có ích cho đời. Là nhà
văn, ông nên viết về tình yêu của
người phụ nữ. Họ yêu thương
đàn ông chúng ta, làm cho thế giới
này tốt đẹp lên nhiều.
Tôi hỏi về công việc
của ông ta. Ông ta nói:
- Tôi là thương
nhân. Tôi buôn bán ở Hồng Kông, ở
Mỹ. Có lần tôi sang cả Thuỵ Điển.
Kiểm như một vị Bồ tát chỉ
đường. Tôi buôn bán không phải
vì tiền mà vì điều thiện, vì
quan hệ với con người.
Tôi chăm chú nhìn
Công, thấy ông ta là người thành thực.
Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về
hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy
học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại
là nguồn cảm hứng cho gã Đôn
Kihôtê giang hồ quốc tế, khiến ông ta
làm được những việc động trời.
Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ
diệu kỳ thì tình yêu chính là
điều diệu kỳ nhất.
Tôi ở Suối Thầu đến
hết ngày hôm sau. Tôi được biết
Giàng Seo Mẩy, cô học trò người
Mông chính là con gái của hai vợ chồng
người Mông mà tôi đã gặp. Mẩy
ở với cô giáo Kiểm, cô bé giỏi
tiếng Anh, nổi tiếng là một “gai
nhí” ở khu du lịch Sa Pa.
Anh lái xe ôm vào Suối
Thầu đón tôi. Ngôi biệt thự mà
chị Hỷ thuê riêng đã được
trang hoàng lộng lẫy. Tối hôm đó, chị
Hỷ làm tiệc tất niên. Sâm-banh
được mở ra, ai nấy đều vui vẻ.
Rượu ngà ngà say, anh
Lai hỏi tôi:
- Chú là nhà văn,
chú có biết câu “nhà văn là
tai mắt của nhân dân” không? Chú viết
văn, điều gì hướng đạo ngòi
bút của chú?
Cháu Quang học ở đại
học Duke, bang Carolina ở Mỹ, ở đấy
có khoa viết văn, đào tạo các
nhà văn tương lai. Rất nhiều người
ở các nước khác đến đây học.
Khi sang Mỹ, tôi đã từng có bài
thuyết giảng ở đây. Hôm đó,
tôi đã nói về sự vô minh của
con người và thế giới, lòng khát
khao của cá nhân tôi với cuộc sống
mà Thượng đế ban cho. Hôm đó
cháu Quang cũng dự. Đến hôm nay, khi nghe
anh Lai hỏi, tôi bỗng nhớ lại những điều
tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và
phù phiếm, thậm chí dối trá. Tôi
nói với anh Lai rằng quả thực không phải
lúc nào tôi cũng trả lời được
những câu hỏi do công việc và cuộc sống
đặt ra.
Anh Lai nói:
- Tôi nhớ trong Kinh thánh,
Chúa đã từng mắng các văn sĩ rằng
họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ
hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi
ghế hạng nhất ... Chúa không mắng những
người làm nghề nghiệp khác. Nghề của
chú không phải là nghề, nó làm rối
tinh trật tự.
Tôi thấy khó trả lời,
miếng cơm ăn đắng ngắt. Anh Lai là
nhà chính trị, anh không biết rằng
tôi cũng đã từng làm nhiều nghề
kiếm sống. Định mệnh của tôi
không phải do tôi quyết định. Tuy
nhiên, tôi không tranh cãi với anh. Hôm
nay tôi là khách mời. Đầu óc
tôi vẫn còn đang vấn vương hình ảnh
những người sống rất giản dị ở bản
Suối Thầu, họ không bao giờ đặt ra
câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế
kia? Cô giáo Kiểm, một cô gái bé
nhỏ sinh ra ở biển, sống 6 năm trời với
các em bé người Mông, người Nhắng,
đồng lương dạy học chẳng
đáng là bao; ngồi giữ ngọn lửa
tình yêu cho một tay giang hồ dọc ngang trời
đất. Rồi hai vợ chồng người Mông
nghiện hút, họ chẳng bao giờ đi xa khỏi
bản của mình ...
Cháu Quang và cháu
Vân cho xem những bức ảnh chụp ở bãi
đá cổ Hầu Thào. Trên các hòn
đá có các hình khắc kỳ dị.
Ai đã viết lên đấy? Liệu thời tiền
sử có một tay văn sĩ rồ dại nào
đi làm chuyện ấy hay không?
Ăn xong, tôi về phòng,
thấy cháu Yên, cô gái "ô-sin"
đang ngồi ăn cơm thầm dưới gầm cầu
thang. Tôi hỏi:
- Sao cháu không ăn cơm
cùng với mọi người?
Yên nói:
- Cháu quen rồi!
Chị Hỷ đi ra bảo
tôi:
- Lệ ở nhà này
là thế. Tôi vốn có “tay” nuôi
"ô-sin". Dân chủ thì dân chủ.
Nhưng trật tự cần hơn dân chủ. Anh
yên tâm đi, một mình nó một
mâm, cũng đầy đủ sơn hào hải
vị.
Sáng hôm sau tôi ra chợ
Sa Pa. Anh lái xe ôm hôm trước gặp
tôi. Tôi vào chợ, mua một bao gạo 50 ki
lô và một đùi thịt lợn, nhờ
anh ta chở vào Suối Thầu tặng gia
đình của Giàng Seo Mẩy. Anh lái xe
cười:
- Thế này thì nhà
này năm nay ăn Tết to rồi!
Tôi thấy vui vui. Chừng mấy
năm nay, tôi không còn nhiều lòng ham hố
“kiếm chác” cho mình, nhiều khi cho
được người khác cái gì
thích hơn được nhận. Tôi không
giàu có nhưng cũng chẳng nghèo. Tôi
không có nhiều người thân, nhiều bạn
bè. Tôi đã trót rào quanh tôi
hàng rào danh tiếng, đấy cũng không
phải do ý thức của tôi chủ định,
rất nhiều các thói đời xô đẩy
khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ
trêu như thế. Nhiều khi, tôi rất cô
đơn ngay giữa nhà mình. Những bạn
bè cũ cũng ngại gặp tôi, tôi cố
gắng phá đi mặc cảm tự ti vì
không thành đạt ở trong lòng họ
mà không phá được. Nhiều lần,
tôi nhớ lại những ngày gian khó thuở
tôi còn đi dạy học ở trên miền
núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một
thày giáo tiểu học vô danh, tôi như
viên sỏi vô danh ở trong lòng suối
vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy
cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng
như có một con chim chiền chiện líu la
líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất
tận. Đêm chẳng bao giờ là dài,
ngày chẳng bao giờ là ngắn. Những
ngôi sao xa xôi trên bầu trời giục
giã vẫy gọi tôi. Tôi sống, tôi sống
như cô giáo Kiểm, như Giàng Seo Mẩy,
như người đàn bà Mông kia ở bản
Suối Thầu, tôi chẳng bao giờ đặt ra
câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế
kia ... Lúc ấy, tôi chưa có ý thức
đi tìm ý nghĩa cuộc sống cho mình.
Ngày 30 Tết, Sa Pa vắng tanh
vắng ngắt. Tiết trời cuối năm lạnh
giá, nhiệt độ xuống tới 5 độ.
Xung quanh nhà thờ, không còn những người
bán đồ lưu niệm. Đội quân
lái xe ôm cũng đã về nhà. Tôi
vào trong nhà thờ, thấy có một
mình cháu Yên, cô gái "ô-sin"
của nhà anh Lai đang quỳ gối, cầu kinh
trước bàn thờ Chúa. Tôi quay ra,
không muốn làm phiền cô bé ngoan đạo.
Lá của những cây báng súng rơi lả
tả ở trên mặt đường. Một
vài ba khách du lịch nước ngoài
lác đác đi bộ dọc trên hè phố.
Sa Pa thật đẹp, vẻ đẹp dịu dàng.
Phía xa xa, Phan-Xi-Păng, ngọn núi cao nhất
được ví như nóc nhà của
người Việt Nam thấp thoáng ở trong
mây trắng.
Tôi đi lững thững về
nhà. Trước cổng biệt thự, tôi ngạc
nhiên nhìn thấy người đàn ông
người Mông nghiện hút ở bản Suối
Thầu mà tôi đã gặp đang ngồi ở
đó. Chị Hỷ chạy ra bảo tôi:
- Người này chờ
chú suốt cả buổi chiều. Tôi đuổi
nhưng lão ấy không đi. Không biết
là có chuyện gì.
Người đàn ông
người Mông ngồi ủ rũ nhắm mắt lại
như người ngủ gật. Trông thấy
tôi, ông ta đứng dậy, mắt sáng hẳn
lên. Ông ta hỏi tôi:
- Mày gửi cho tao gạo
và thịt à?
Tôi gật đầu. Ông ta
bảo tôi:
- Vợ tao rất thích. Nó
cám ơn mày!
Thấy chuyện lạ, anh Lai
và hai cháu Quang, cháu Vân cũng chạy ra
xem. Người đàn ông người Mông lấy
ra trong gùi một bọc vải nhỏ giúi
vào tay tôi. Ông ta nói:
- Cái này của mày!
Nói xong ông ta quay đi, chẳng
chào ai cả. Tôi nhìn theo người
đàn ông người Mông bước đi
loạng choạng, áy náy vì không hiểu
làm sao ông ta lại có thể đi được
về nhà.
Chị Hỷ đỡ lấy bọc
vải ở trong tay tôi mở ra. Chúng tôi sững
sờ vì đấy chính là pho tượng
“Quan Âm chỉ lộ”. Tôi không thể
tin ở mắt mình, càng không ngờ lại
có phúc có pho tượng ấy. Mọi
người trong nhà anh Lai xuýt xoa, ai cũng sờ
nắn, xem xét, không muốn rời tay.
Buổi tối, dưới ánh
đèn pho tượng trông thật rạng rỡ.
Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng
đây là một pho tượng quý. Ở
dưới đĩnh vàng, có hình Thái
thượng lão quân đắp nổi và chữ
“Bình an lộ”. Ý nghĩa của pho
tượng là hãy đi trên con đường
bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy
là con đường mà Quan Thế Âm Bồ
tát chỉ lối đưa đường. Anh Lai
và chị Hỷ áng chừng đây là
pho tượng đồng có thể có từ thời
nhà Thanh Trung Quốc. Tôi không nghĩ thế bởi
xem xét kiểu chữ khắc trên đó
thì có thể nó có muộn hơn. Sau
phong trào Ngũ tứ và Cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc, người ta cải cách
chữ Hán. Lúc này tinh thần dân tộc
của người Trung Quốc lên cao, nhiều
thương gia xuất hiện cố gắng vươn
ra thế giới. Rất có thể đây là
pho tượng của một thương gia thành
đạt thời ấy. Song, đây cũng có thể
là pho tượng của một người Việt
Nam nào đó làm ra. Tôi đã từng
đến xem các lò đúc đồng ở
Huế, ở Hà Nam, ở Hà Nội và rất
thán phục nhiều tác phẩm điêu khắc
kỳ khu của họ. Muốn biết rõ lai lịch
của nó phải chờ khi về Hà Nội hỏi
các chuyên gia. Tôi không phải là
người chơi đồ cổ, những thứ thế
này tôi chẳng biết gì.
Đêm 30 Tết, chúng
tôi ngồi đón giao thừa. Pho tượng
đặt giữa bàn ăn thắp nến. Một bầu
không khí thiêng liêng và bình an
làm cho ai nấy đều xúc động, muốn
xích lại gần nhau hơn.
Anh Lai chúc mừng tôi. Anh
nói:
- Năm mới, “quý vật
gặp quý nhân”. Chắc là con đường
phía trước của chú sẽ bình an may mắn.
Tôi cười như mếu.
Tôi không còn trẻ. Tôi không hy vọng
gì nhiều ở phía trước. Với tôi
từ lâu “cuộc chơi đã kết
thúc rồi”. Tôi ngẫu nhiên có pho
tượng này, thực sự thâm tâm tôi
cũng chẳng cầu. Phúc họa thường vẫn
đi kèm như hình với bóng. Ý nghĩa
phù du của cuộc sống cho đến một
lúc nào đó ai cũng hiểu ra. Thường
thường, hiểu ra thì đã muộn rồi.
Trời xanh kia vẫn trớ trêu, được mất
ở đời có gì quan trọng?
Tôi nói điều ấy với
anh Lai, chị Hỷ. Ai cũng cười tôi, cho
tôi là người “bi quan chủ nghĩa”.
Ừ thôi cũng được, chúng ta hãy sống,
chấp nhận nhau, yêu thương, làm sao mỗi
ngày ta sống sẽ là một ngày hoan lạc,
ở đấy chỉ có nụ cười thân
thiết và những lời nói chân tình với
nhau.
Chị Hỷ lấy tiền ra mừng
tuổi mọi người. Chị nói với
tôi:
- Nếu chú bán pho tượng
thì tôi mua đấy!
Tôi cười. Tôi thấy
khó xử. Nếu anh chị thích thì tôi
tặng lại, “quý vật gặp quý
nhân”, cũng là một lẽ ... Anh Lai trầm
ngâm, lắc đầu:
- Định mệnh của
chú ... Chắc là nghiệp chướng gì
đây! Chúng tôi không làm thế
được!
Mọi người uống rượu
sâm-banh, chúc tụng nhau rồi đi ngủ. Pho
tượng vẫn đặt trên bàn.
Ngày mồng 1 Tết, cả
nhà anh Lai với tôi đi dạo phố phường,
chúc Tết bất cứ ai gặp trên đường.
Nhìn thấy gia đình anh Lai ríu rít,
tôi bỗng giật mình:
- Ngày Tết là ngày
đoàn tụ gia đình. Tại sao tôi lại
ở đây?
Lòng tôi cồn cào
như có lửa đốt.
- Tết này chưa chắc em về
được ...
Câu nói bâng quơ của
cô giáo Kiểm văng vẳng bên tai. Tôi bật
cười, nhớ lại mấy câu thơ cũ của
một nhà thơ mà tôi yêu mến:
Giang
hồ sót lại mình tôi
Quê
người đắng khói quê người cay men
...
Tết
này chưa chắc em về được
Em gửi
về đây một tấm lòng
Ai bảo
mắc duyên vào bút mực
Sòng
đời mang lấy số long đong
Người
ta đi kiếm giàu sang cả
Mình
chỉ mơ toàn chuyện viển vông
Khốn
nạn, tưởng yêu thì khó chứ
Không
yêu thì thực dễ như không !...
Đời người cầm
bút xưa nay mấy người thanh thản?
Khúc đoạn trường, mấy ai hiểu
rõ nỗi lòng của mỗi một người?
Chiều hôm ấy, sau bữa
cơm, ai nấy đều giật mình vì
phát hiện ra pho tượng “Quan Âm chỉ lộ”
bỗng nhiên biến mất. Tất cả nháo
nhác đi tìm. Anh Lai rất bực, đập vỡ
cả lọ hoa. Không khí ngày Tết trở
nên ảm đạm. Thật vô lý quá,
ngôi biệt thự này có tường bao
quanh, không ai ra vào. Đồ đạc trong
nhà không mất thứ gì. Tại sao bức
tượng không cánh mà bay?
Anh Lai gọi từng người một
vào phòng cật vấn. Anh tỏ ra rất bực.
Cháu Quang, cháu Vân bị xúc phạm,
phát khóc, bỏ đi, tối cũng không về.
Tất cả nghi ngờ đổ vào cháu
Yên, cô bé "ô-sin" tội nghiệp.
Cô bé gọi tên Chúa, thề thốt đủ
điều. Chị Hỷ lục soát các túi
đồ đạc, áo quần của nó.
Tôi cố can gián nhưng không làm sao
ngăn được sự giận dữ của hai vợ
chồng anh Lai. Sáng mồng 2 Tết, chị Hỷ tống
cổ cháu Yên, mua vé tàu hỏa bắt
nó trở về Hà Nội. Những ngày nghỉ
Tết còn lại trở nên khó chịu
vô cùng. Ngày mồng 4 Tết, anh Lai họp mọi
người trong nhà, quyết định trở về
Hà Nội sớm hơn dự định. Chị Hỷ
thu xếp đồ đạc, sai cháu Quang đi
thuê xe ô tô chở chúng tôi về
Hà Nội ngay ngày hôm ấy.
Anh Lai gọi tôi vào
phòng, đóng cửa lại, bảo tôi:
- Gia đình tôi thật
có lỗi với chú. Sự việc xảy ra thật
không hay. Pho tượng quý bị mất, tôi
rất ân hận. Gia đình tôi tự thấy
phải có trách nhiệm bồi thường cho
chú ...
Anh Lai lấy tiền ra, bảo
tôi:
- Đây là 1 nghìn
đô-la. Số tiền này không phải
là số tiền đánh giá giá trị
pho tượng. Nó có thể hơn thế, cũng
có thể nó không bằng thế ... Chú
hiểu cho tôi, đây chỉ là một số
tiền mọn nhỏ nhoi, giải quyết một sự
kiện mọn không ra gì. Thực khốn nạn,
tôi không biết chứng minh danh dự của gia
đình tôi bằng cách thế nào với
chú. Khi phải dùng hạ sách này,
chính tôi, tôi cũng rất nhục. Chú hiểu
cho tôi, từ xưa đến nay tôi vốn
là người dứt khoát, rạch ròi,
chính trực.
Tôi bảo anh Lai rằng anh
không nên làm thế, rằng pho tượng
này chỉ là quà tặng mà thôi, rằng
tôi có được cơ duyên làm bạn
với gia đình anh thì không nên chỉ
vì một chuyện nhỏ con mà làm
phương hại tình cảm với nhau, rằng ...
Anh Lai cố ép nhưng tôi
không nhận. Chúng tôi cãi nhau. Cuối
cùng tôi nói, thực ra cũng vì quá
bực mình với thái độ kiên quyết
cố chấp của anh:
- Thế anh có bao giờ nghĩ
rằng chính tôi giấu đi pho tượng
này không? Có thể vì mục
đích này hay mục đích khác?
Anh Lai cười nhạt, ngồi
xuống ghế, lắc đầu:
- Thực ra, cũng có lúc
tôi đã nghĩ thế. Xin lỗi chú,
tôi cũng đã bí mật lục soát
đồ đạc của chú. Do nghề nghiệp,
tôi đã phải tiếp xúc, làm việc
với đủ hạng người, xem xét cả
khía cạnh cao thượng lẫn lưu manh trong con
người họ, không trừ ai hết, kể cả
người thân. Không phải tôi không tin
con người, không phải tôi không nhân
văn, chú đừng đánh giá tôi thấp,
rằng tôi là kẻ lạnh lùng. Có những
công việc không nên để cho cảm
tính dự vào. Thú thực với chú,
không một hạng người nào mà qua
được mắt của tôi, tôi không
đảm bảo 100% nhưng tới 90% thì tôi chắc
chắn, rằng tôi hiểu được họ
và tôi kiểm soát được họ, trừ
một loại người ... Chú có biết
không, chính là nhà văn, chính là
những người như chú ...
Tôi lặng người đi, bỗng
nhiên thấy trong lòng mình đắng ngắt.
Anh Lai đi đi lại lại trong phòng. Anh nói
với tôi:
- Tôi không hiểu nổi một
người viết văn như chú. Chú là
ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ
làm cho mọi người dằn vặt lòng
mình? Chú có quyền gì? Ai trao cho chú
cái quyền năng ấy? Tư cách của
chú tôi gạt sang bên. Tôi không hiểu
sao mọi người vì nể một người
như chú? Ở chú có phẩm chất
gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn
ư? Cũng không phải nốt ... Tôi chỉ nhận
ra ở chú dục vọng hão huyền và khả
năng đánh thức cái dục vọng
hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một
người? Điều ấy là tốt ư?
Không phải! Xấu ư? Không phải! Từ bản
chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi,
cảm phục những người như chú.
Chú có hiểu không?
Tôi ngạc nhiên nhìn anh
Lai. Hoá ra chuyến đi của tôi và gia
đình anh chỉ là cái cớ để anh
tìm hiểu về tôi. Tôi bật cười,
hoàn toàn bất ngờ vì sự trớ
trêu trong hoàn cảnh đó của mình.
Tôi dứt khoát không nhận
số tiền anh Lai đưa cho. Tôi có những
nguyên tắc lương tâm của tôi. Tôi
nói với anh rằng thực ra số tiền
này phải thuộc về người đàn
ông người Mông nghiện ngập mà
tôi ngẫu nhiên gặp gỡ, chính tôi cũng
chẳng biết tên tuổi ông ta là gì. Nếu
có số tiền ấy, ông ta cũng chỉ
dùng để hút thuốc phiện mà
thôi, nó cũng chẳng giúp cho ông ta cải
thiện thêm gì số phận tồi tệ của
mình. Câu chuyện về bức tượng
“Quan Âm chỉ lộ” tốt nhất là
nên chấm dứt ở đây. Tôi hy vọng
tình cảm của tôi với gia đình anh
không phải chỉ vì một chuyện nhỏ
nhoi thế này mà sứt mẻ.
Chúng tôi về Hà Nội.
Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng
câu chuyện không vui trong dịp Tết năm ấy
rồi cũng rơi vào quên lãng, chẳng
còn ai nhớ. Sáu tháng sau, tôi được
biết anh Lai đã đi nhận công tác mới,
cháu Quang cũng sang bên Mỹ làm việc,
cháu Vân thì đi học đại học ở
Anh. Một hôm, chị Hỷ đến nhà
tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị
mang đến bức tượng “Quan Âm chỉ lộ”.
Chị nói:
- Tôi đã tra hỏi con
bé "ô-sin". Tôi đã không nhầm.
Nó là thủ phạm của vụ trộm
này. Chú có biết không, hạng người
như nó thì có dạy dỗ thế nào
vẫn thế ... Tôi đã đuổi việc
nó rồi!
Tôi mời chị Hỷ ở lại
ăn cơm nhưng chị từ chối nói là
rất bận. Tôi ngồi một mình, buồn
bã nâng bức tượng lên tay xem xét.
Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm
quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện
hôm nào trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện
ra ở trước mắt tôi. Tội nghiệp cho
nó. Tôi không tin nó là thủ phạm. Ở
bên ngoài, những chiếc lá của cây
báng súng rơi lả tả trên nền
sân đá.
Chị Hỷ ra về. Tôi cẩn
thận đặt bức tượng Phật lên
trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế
Âm Bồ tát hình như có một giọt
nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số
phận trớ trêu của mỗi con người.
Chắc chắn là tôi sẽ
còn quay trở lại Sa Pa. Phải trở lại chứ!
Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất
tình yêu, mảnh đất giữ người!
Trên đất nước
mình, đâu đâu chẳng là mảnh
đất tình yêu, mảnh đất giữ
người? Hãy làm cho mảnh đất
này ngày càng phì nhiêu, tươi
đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ
thế.
Vậy còn bạn, bạn nghĩ
thế không?
Kìa Xuân đang về. Lại
một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm
thanh trong lòng. Phải sống! Phải sống
cho ra giá trị cuộc sống con người,
dù cho thế nào đi nữa ...
NGUYỄN
HUY THIỆP
(DP
- Canada sưu tầm và chuyển)