THẦM LẶNG
(Kim
Khánh)
BÀI VIẾT NHÂN NGÀY MOTHER's
DAY
Nhiều người trong cộng đồng
người Việt hải ngoại biết đến
nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Một đời dạy
học, một đời viết văn, hơn mười
một năm tù tội, ông đã trở
thành một trong những biểu tượng đối
kháng của văn nghệ sĩ miền Nam trước
bạo quyền cộng sản. Nhưng ít có
người biết rằng đằng sau sự tỏa
sáng của một người đàn ông Việt
Nam thường là cái bóng thầm lặng của
một người phụ nữ. Bà Doãn Quốc
Sỹ cũng là một trong những trường hợp
như vậy
Mời quí độc giả nghe con
gái của nhà văn Doãn Quốc Sỹ kể
lại cuộc đời thầm lặng của mẹ
mình nhân ngày Mother Day …
THẦM LẶNG
Một đời thầm lặng mẹ
theo bố.
Tháng 9 năm 1954 mẹ theo bố
vào Nam. Trước đó bố hoạt động
ngang dọc, sáng ngời lý tưởng rồi
ê chề thất vọng. Quyết định vào
Nam là của bố, mẹ chỉ bế hai con và
dắt cô em chồng 17 tuổi theo. Trong Nam, bố
tưng bừng thi thố tài năng, tay phấn tay
bút. Mẹ thầm lặng ở nhà nuôi dạy
con và chăm chút em. Dân số con từ hai
tăng thành tám. Tám con tám tính,
có lúc hư lúc ngoan; mẹ theo từng bước,
khen chê mắng mỏ. Cô em chồng tốt nghiệp
đại học, chuẩn bị lên xe hoa, mẹ lo
toan chuyện cưới hỏi. Bố vất vả
bên ngoài, về nhà chỉ cần đảo
mắt nhìn là thấy mọi sự tươm tất.
Ra đường, các con được gọi
là “con bố”, em là “em anh”,
không ai biết có một nhân vật thầm lặng
đã làm nên những con người ấy.
Vào những năm thăng tiến
trong cả hai nghề dạy và viết, bố hay mời
khách về nhà đãi đằng. Mẹ tiếp
khách lịch thiệp, rồi rút về hậu
trường trổ tài nấu nướng. Trước
khi ra về các bác bao giờ cũng chào
“bà chủ” trong tiếng cười hỉ hả
“Cám ơn chị cho một bữa ngon
quá.” Thỉnh thoảng có những vị
khách nữ, khen thức ăn và khen cả
ông chủ. Tôi còn nhớ có người
còn nói rất chân tình với mẹ:
“Chồng em mà được một phần của
anh thì em chết cũng hả.” Hình như mẹ
đón nhận lời nói ấy như một sự
khen tặng cho chính mình.
Rồi chính sự miền Nam
nóng bỏng; ngòi bút bố cũng nóng
theo. Các bạn bố đến chơi chỉ
bàn chuyện cộng sản và quốc gia. Mẹ
không mấy quan tâm đến “chuyện
các ông”, nhưng khi bố đi Mỹ du học,
mẹ ở nhà điều hành việc bán
sách thật tháo vát. Khoảng hai tuần một
lần, mẹ đi xích lô đến trung tâm
Saigon, rảo một vòng các tiệm sách
để xem họ cần thêm sách nào. Sau
đó mẹ cột sách thành từng chồng
và “đáp” một chuyến xích
lô khác để giao sách. Tôi hay mân
mê những sợi giây được cột chắc
nịch, suýt xoa: “Sao mẹ cột chặt hay thế?”
Thế rồi chính sự miền
Nam đến hồi kết thúc. Con người
không chính trị của bố lại một lần
nữa ê chề. Ngày công an đến bắt
bố đi, mẹ con bàng hoàng nhìn nhau.
Các con chưa đứa nào đến tuổi kiếm
tiền. Mẹ xưa nay thầm lặng trong vai “nội
tướng”, giờ miễn cưỡng ra quân.
Tiền dành dụm của gia đình không
đáng kể. Có tám miệng để
nuôi, có bố nhục nhằn trong lao tù đợi
tiếp tế. Mẹ vụng về tìm kế sinh
nhai. Thoạt tiên mẹ nấu khoai mì trộn với
dừa và vừng, rồi để vào rổ
cùng với một ít lá gói. Tôi
băn khoăn hỏi:
“ Mẹ nghĩ có bán
được không?”
“Mẹ không biết, cứ
mang ra chỗ trường học xem sao.”
Nhìn dáng mẹ lom khom
ôm rổ, đầu đội sụp cái
nón lá, tôi thương mẹ khôn tả.
Chỉ nửa tiếng sau tôi đã thấy mẹ
trở về. Rổ khoai mì vẫn còn nguyên,
mẹ ngượng ngập giải thích:
“Hình như hôm nay lễ
gì đó, học trò nghỉ con ạ.”
Rồi mẹ lại xoay sang nghề
bán thuốc lá. Mẹ mua lại của ai
đó một thùng đựng thuốc lá
để bầy bán. Mẹ nghe ai mách bảo, chọn
một địa điểm khá xa nhà rồi lụi
hụi dọn hàng vô, dọn hàng ra mỗi
ngày. Nghề này kéo dài được
vài tháng. Mẹ kể cũng có một số
khách quen, nhưng toàn mua thuốc lá lẻ.
Hôm nào có khách “xộp” mua
nguyên bao thì mẹ về khoe ngay. Cũng may thuốc
lá không thiu nên khi “giải nghệ” mẹ
chỉ lỗ cái thùng bầy hàng.
Mẹ rút về “bản
dinh” là căn nhà ở cuối hẻm, tiếp
tục nhìn quanh, tìm một lối thoát.
Hàng xóm chung quanh phần lớn là những
người lao động. Họ như những
đàn kiến chăm chỉ cần cù, 4 giờ
sáng đã lục đục, người chuẩn
bị hàng họ ra chợ, kẻ kéo xe ba
bánh hoặc xích lô ra tìm khách. Suốt
mười mấy năm qua họ nhìn gia
đình chúng tôi, gia đình “ông
giáo”, như từ một thế giới
khác, kính trọng nhưng xa cách. Nay
“ông giáo” đi tù, “bà
giáo” hay xuất hiện ngoài ngõ, có
lẽ họ cảm thấy gần gũi hơn. Một
hôm, chị bán sương xâm ở đối
diện nhà qua hỏi thăm “ông
giáo”. Thấy cái máy giặt vẫn
còn chạy được, chị trầm trồ:
“Giặt máy tiện quá bác
há!”, rồi nảy ý “Tụi con
ngày nào cũng có cả núi quần
áo dơ. Bác bỏ máy giặt dùm, tụi
con trả tiền. Bác chịu không?” Lời
đề nghị thẳng thừng, không rào
đón. Mẹ xăng xái nhận lời. Kể từ
đó, mỗi tuần khoảng hai lần, mẹ nhận
một thau quần áo cáu bẩn, bốc đủ
loại mùi khai, tanh, nồng. Mẹ đích
thân xả qua một nước, rồi múc nước
từ hồ chứa vào máy giặt, bỏ
xà bông và bắt đầu cho chạy
máy. Cái máy cổ lỗ sĩ, chạy
ì ạch nhưng nhờ nó mà mẹ kí
cóp được chút tiền chợ.
Ít lâu sau, cũng chị
hàng xóm đó lại sáng thêm một
ý nữa:
“Con bé nhà con nay biết
bò rồi, con không dám thả nữa. Bác
nhận không, con gửi nó mỗi ngày từ
sáng tới chiều. Con trả tiền bác.”
Thế là sự nghiệp
nhà trẻ của mẹ bắt đầu. Mẹ dọn
căn gác gỗ cho quang, có chỗ treo võng,
có cửa ngăn ở đầu cầu thang. Cả
ngày mẹ loay hoay bận bịu pha sữa,
đút ăn, lau chùi những bãi nước
đái. Được ít lâu, chị bán
trái cây ở cuối hẻm chạy qua nhà
tôi, nói:
“Bác coi thêm con
Đào nhà con nha. Con mang cái võng qua mắc
cạnh cái võng của của con Thủy.”
Hai võng đong đưa một
lúc, cháo sữa đút liền tay hơn,
căn gác bừa bộn hơn. Sau đó lại
thêm một thằng cu nữa. Mẹ tay năm tay
mười, làm việc thoăn thoắt. Cũng
công việc quen thuộc ấy, ngày xưa
làm cho con, nay làm kế sinh nhai, nuôi đủ
tám con với một chồng. Mẹ không còn
thầm lặng nữa. Mẹ lớn tiếng điều
khiển tám quân sĩ, cần roi có roi, cần
lời ngọt có lời ngọt. Riêng chúng
tôi vẫn nhớ ơn những người lao động
đã giúp chúng tôi sinh sống những
ngày khốn khó đó.
Nhưng sau những giờ ban
ngày ồn ào náo động là những
đêm tối trầm ngâm lo lắng. Nỗi bận
tâm không rời của mẹ là chuyện
thăm nuôi bố. Mỗi ngày mẹ nghĩ ra một
món, làm dần vào buổi tối, nay muối
vừng, mai mắm ruốc, mốt bánh mì
khô. Mẹ để sẵn một giỏ lớn trong
góc bếp và chất dần đồ thăm
nuôi trong đó. Khi giỏ đầy là
ngày thăm nuôi sắp tới.
Thuở ấy bố bị giam ở
núi đồi Pleiku, muốn lên đến
đó phải mất hai ngày đường
và nhiều giờ chầu chực xe đò. Mỗi
lần thăm nuôi, hoặc mẹ, hoặc một
đứa con được chỉ định đi. Con
trưởng nữ hay được đi nhất
vì nó tháo vát và nhanh trí, thằng
thứ nam cũng đươc nhiều lần
“tín nhiệm”; mẹ nói nó nhỏ
tuổi nhưng đạo mạo, đỡ đần mẹ
được. Còn thằng trưởng nam
đúng tuổi đi “bộ đội”, mẹ
ra lệnh ở nhà. Có lần mẹ đi về,
mặt thất thần.
Các con hỏi chuyện thì
mẹ chỉ buông hai chữ “biệt giam”. Biệt
giam thì bị trừng phạt không được
thăm nuôi. Tôi thảng thốt hỏi:
“Đồ thăm nuôi
đâu hết rồi mẹ?”
“Mẹ phải năn nỉ. Cuối
cùng họ hứa chuyển đồ ăn cho bố.”
“Mẹ nghĩ họ sẽ chuyển
không?
“Họ hẳn sẽ ăn bớt,
nhưng nếu mẹ mang về thì phần bố
đói còn chắc chắn hơn nữa.”
Mẹ ngày nào thầm lặng,
nay thực tế và quyết đoán như thế.
Ngày bố được thả
đợt 1, nhà trẻ của “bà
giáo” vẫn còn hoạt động. Mẹ
hướng dẫn bố đu võng khi các
bé ngủ. Mẹ cũng dặn bố thường
xuyên lau chùi gác và bỏ giặt tã
dơ. Bố một mực nghe lời. Tưởng như
cờ đã chuyền sang mẹ một cách
êm thắm …
Tuy nhiên, mẹ không thể
ngăn được bố lân la cầm lại
cây bút. Thời gian này là lúc họ
hàng ngoài Bắc vào chơi nhiều. Bên
ngoại có cậu tôi làm đến chức
thứ trưởng; cậu kể rằng lúc
còn sống, ông ngoại (một nhà thơ
cách mạng) phiền lòng vì sự nghiệp
văn chương của thằng con rể. Bên nội
có chú tôi - một nhạc sĩ cách mạng-
chú biết ngòi bút đang thôi thúc bố
và đã từng rít lên giữa hai
hàm răng:
“Trời ạ! Đã chửi
vào mặt người ta, không xin lỗi thì
chớ lại còn nhổ thêm một bãi
nước bọt! Lần này mà vào tù
nữa thì mọt gông.” .
Mấy mẹ con chết lặng
trước viễn tượng “mọt
gông”. Bố không màng đến điều
này, vẫn miệt mài gõ máy
đánh chữ. Đêm khuya thanh vắng tiếng
gõ càng vang mồn một. Vài lần mẹ
can ngăn, có lần mẹ giận dữ buộc tội:
“Ông chỉ biết lý
tưởng của mình, không biết thương
vợ con.”
Vài tuần sau, chị hàng
xóm đối diện nhà chạy sang xì
xào với mẹ:
“Công an đặt người
ở bên nhà con đó bác, họ theo
dõi bác trai.”
Mẹ lại thử can thiệp,
nhưng đã quá trễ. Bố bị bắt lần
thứ hai năm 1984.
Lần thứ hai bị bắt, bố
bình tĩnh đợi công an lục lọi tung
nhà. Trước khi bắt đi, họ chụp
hình bố với nhiều tang chứng chung quanh. Trong
hình bố ngẩng cao đầu trông rất ngạo
nghễ. Nhiều năm sau, bố vẫn còn
được nhắc tới với hình ảnh
này. Không ai biết đến người
đàn bà thầm lặng bị bỏ lại
đằng sau. Sau biến cố thứ hai này, mẹ
phải đối phó thêm với nhiều
khó khăn loại khác, điển hình
là những giấy gọi gia đình ra dự phiền
tòa xử bố. Gọi rồi hoãn, rồi lại
gọi lại hoãn. Mỗi lần như vậy cả
nhà lại bấn loại tâm trí, lo cho mạng
sống của bố. Riêng mẹ thì vừa lo vừa
soạn thêm một số thức ăn thăm
nuôi. Mẹ thực tế là thế đó.
Sau khi bố bị gọi án 10
năm tù, cuộc sống của mẹ không
còn những bất ngờ khủng khiếp, chỉ
còn những đen tối và tù túng
đều đặn. Tưởng là dễ chịu
hơn, nhưng thực ra nó gậm nhấm tâm thức,
tích lũy buồn bực chỉ đợi cơ hội
bùng nổ. Hết ngày này qua tháng nọ
mẹ lầm lũi chuẩn bị đồ thăm
nuôi, từng món ăn thức uống, từng vật
dụng hằng ngày. Các con lần lượt
trưởng thành, đứa nào cũng có bạn
bè và những sinh hoạt riêng. Chuyện
thăm nuôi bố và lòng thương bố
quan trọng lắm, những cũng chỉ là một
phần trong những cái quan trọng khác trong
đời. Chỉ đối với mẹ, những thứ
ấy mới là tất cả, độc tôn
choán ngập tâm hồn mẹ. Mẹ hẳn
có những lúc thấy tức tưởi và
cô đơn mà các con nào hay biết.
Có vài lần chúng tôi lỡ một lời
nói hoặc cử chỉ không vừa ý mẹ,
me òa khóc tu tu, lớn tiếng kể lể,
tuôn trào như một giòng lũ không
ngăn được. Lúc ấy chúng tôi mới
choàng tỉnh.
Ngày mãn hạn tù về,
bố bình an như một thiền sư, để lại
sau lưng hết cả những thăng trầm của
quá khứ. Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston
sống cùng cậu trưởng nam. Mẹ bận bịu
với cháu nội, nhưng không quên nhắc
ông nội đi tắm và bao giờ cũng nặn
kem đánh răng vào bàn chải cho ông mỗi
tối. Thỉnh thoảng giao tiếp với họ
hàng và bạn bè, mẹ lại phải đỡ
lời cho bố, khi bố cứ mỉm cười
mà không nói năng chi. Thư viết về
cho con cháu ở Việt Nam, ai cũng nói mẹ viết
hay hơn ông nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Lúc đó chắc mẹ nghĩ thầm rằng:
“bởi vì mẹ là con của ông Tú
Mỡ mà!”
Như thế được mười
năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai
đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, mẹ nằm
bất động một chỗ và không nói
được nữa. Nhưng mẹ vẫn đưa mắt
nhìn bố mỗi lần bố ra vào trong
phòng. Hôm nào bố vắng nhà vài
ngày thì mẹ nhìn con trai, mắt dò hỏi
lo lắng. Khi bố về thì mẹ vẫn nhìn
bố, ánh mắt yên tâm hơn. Mẹ thầm
lặng hơn bao giờ hết. Dưới mắt bố
con chúng tôi, sự thầm lặng ấy càng
ngày càng tỏa sáng.
Kim Khánh
(T.T.K.D. sưu
tầm và chuyển)