30/04/1975:
Ngày tôi ra đi
(NGUYỄN
TÀI NGỌC)
Một tuần
trước ngày 29/04/1975:
Nằm trên divan trong cái nắng
ban trưa oi bức của SàiGòn thỉnh thoảng
nghe tiếng máy bay vận tải C-130 và C-141 bay
qua lại trên trời, tôi toát mồ hôi
run sợ vì biết rằng nó đang di tản
những người may mắn rời khỏi Việt Nam trong khi tôi vẫn
còn ở đây. Khi
quân đội Cộng Sản bắt đầu
cuộc tổng tấn công, không một chiến
lược gia trên thế giới nào có thể
đoán biết chính phủ Việt Nam Cộng
Hoà thua trận liên tiếp nhanh chóng và bất
ngờ như vậy. Cuộc chiến bắt đầu
vào ngày mùng 10 tháng 3, khi bao nhiêu
sư đoàn Cộng Sản với hậu thuẫn
hùng hộ của xe tăng 54, đại bác 130
ly, hoả tiễn phòng không SAM …, tấn công vào Quảng
Trị, các tỉnh miền nam Trung phần, Tây
Ninh và Xuân Lộc cùng một lúc. Chỉ
trong vòng ba, bốn tuần Quảng Trị, Ban Mê
Thuột, Kontum, Pleiku và các tỉnh miền Trung dọc
theo Ai Lao rơi vào tay Cộng Sản. Trong một chiến
lược tai hại nhất trong lịch sử chiến
tranh, Tổng Thống Thiệu quyết định bỏ
hết các tỉnh miền Trung, rút quân về
để bảo vệ SàiGòn và các tỉnh
miền Tây. Cả triệu dân miền Nam từ vĩ
tuyến 17 đến Phước Long, Định
Quán trên đường tỵ nạn chạy
vào SàiGòn một sớm một chiều
rơi vào tay Cộng Sản. Ngày 21/04, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu lên đài truyền hình đọc
diễn văn từ chức, đổ lỗi cho
chính phủ Hoa Kỳ đã không giữ lời
hứa bảo vệ Việt Nam Cộng Hoà. Tuy rằng
tuyên bố sẽ ở lại trong những ngày
tháng sắp tới để đóng góp
vào công tác bảo vệ đất nước,
năm ngày sau đó cùng với mười
lăm tấn hành lý
trong chiếc máy bay vận tải C-118 của
Không Quân Hoa Kỳ, ông bỏ nước bay
sang Taiwan dù rằng vài tuần trước
đã kêu gọi dân chúng cùng nhau
sát cánh với Tổng Thống đánh bật
địch quân. Hiện
giờ Xuân Lộc, cách SàiGòn 60 cây số,
đang bị 40,000 quân lính Cộng Sản bao
vây. Cuộc chiến ngày càng khốc liệt
vì nếu mất Xuân Lộc quân Cộng Sản
sẽ tiến đến Biên Hòa, SàiGòn
không thể nào tránh khỏi cảnh sụp
đổ. Người trong SàiGòn đang bị
dây thừng từ từ siết chặt vào cổ
mà không ai hay biết vì trong SàiGòn vẫn
còn cái an ninh giả tạo khi dân chúng chưa mặt
đối mặt địch quân.
Một tuần trước
đây tôi và anh tôi lái Honda đi
thăm cô vợ Việt Nam của một anh lính
Hải Quân Mỹ. Anh ta nhờ anh tôi đến
xem vợ và hai con gái anh ta có cần giấy
tờ gì nữa không để chuẩn bị cho
chuyến bay rời khỏi SàiGòn sang Hoa Kỳ
mà anh ấy đã mua vé cho cả ba.
Ngày đi: 30/04/1975. Sau khi nói chuyện với
cô ta độ một giờ đồng hồ,
chúng tôi đi về. Ngồi trên yên sau
chiếc xe Honda Dame lòng tôi buồn man mác
vì tôi vẫn còn nhớ hình ảnh
cô ta chìa ra ba cái vé máy bay cho
chúng tôi xem. Tôi ước ao thay vì
tên cô ta trong hàng chữ in đen trên chiếc
vé máy bay thì là tên của tôi
để trong những ngày sắp tới tôi cũng
sẽ ăn ngủ không yên nhưng cái ăn
ngủ không yên đó không phải vì
sợ hãi mà là vì háo hức chờ
ngày 30-04 đến để tôi được
đi nước Hoa Kỳ tự do với bao nhiêu hứa hẹn cho
một cuộc sống mới.
Trường học đã
đóng cửa hơn cả tuần. Không có
sinh hoạt thường nhật mà chỉ ở
nhà cả ngày lẫn đêm làm tôi
trở nên bồn chồn vì lo ngại cho an ninh
và hạnh phúc cho tôi và cả gia
đình nếu Việt Nam Cộng Hoà thất thủ.
Bố mẹ tôi đã một lần đi
tìm tự do bỏ nơi chôn nhau cắt rốn
ngoài Bắc để vào trong Nam xây dựng
lại một cuộc đời mới. Ai ngờ
đâu chỉ có hai mươi năm sau chính
tôi lại đối diện vấn đề bố
mẹ tôi đã từng đối diện, và
bây giờ thì có vẻ như là tôi
không có cách nào di tản như bố mẹ
tôi vì gia đình tôi không một ai
làm cho người Mỹ, không có thân
nhân ở Hoa Kỳ, không giầu có để
có thể mua thuyền bè, ba điều kiện
tiên quyết nếu muốn rời khỏi Việt Nam
trong tình trạng bây giờ.
Ba ngày trước, một
người bạn trong lớp của tôi, Thanh, đạp
xe đến nhà báo tin:
-Tao sắp đi Mỹ rồi Ngọc
à.
-Vậy sao? Chừng nào
mày đi?
-Thứ Ba 29 này. Cô tao
làm cho Mỹ, dàn xếp được cho tao
và ba má tao đi.
Thanh cũng là người Bắc
nên tôi hỏi:
-Chắc bố mẹ mày mừng
lắm?
-Ừ. Nhất
là bố tao. Ông ấy lo áy náy cả mấy
tuần nay.
-Đi sang
bên ấy rồi nhớ viết thư cho tao.
-Ừ chắc chắn
rồi.
-Không biết
trong lớp mình có ai đi không?
-Tao không biết.
-Chừng
nào vào học trở lại tao sẽ báo cho
các bạn biết là mày đi Mỹ rồi.
Mừng cho mày nhe.
Chỉ trong
vòng có một tuần mà tôi biết hai
người may mắn có cơ hội đi Mỹ,
tránh khỏi tương lai mờ mịt chờ
đón những người còn ở lại Việt
Nam như tôi. Tôi không hiểu Thượng
Đế làm việc như thế nào, tại
sao người có số may mắn, người
khác vận số bất hạnh.
Thứ Ba 29/04/1975:
Cả
đêm hôm qua tôi trằn trọc ngủ
không được vì tiếng đạn
pháo kích rớt nghe rất gần đâu
đó trong SàiGòn. Sáng ra mới biết
là vài đầu đạn rớt trong Chợ Lớn,
một rớt gần khách sạn Majestic, vài
đạn đại bác 130 ly rớt ở sân bay
Tân Sơn Nhất, và một rớt gần
toà Đại sứ, giết chết hai người
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Anh tôi
đã dậy từ sáng sớm bật chiếc
radio để nghe tin tức. Đài phát thanh nhắc
lại SàiGòn đang nằm trong tình trạng
thiết quân luật và giới nghiêm 24
trên 24, ra lệnh cho bác sĩ và y tá
vào trình diện ở nhà thương. Sau một
tuần nhậm chức Tổng Thống, khi Nguyễn
Văn Thiệu từ chức rời Việt Nam vào
ngày 21/04, Phó Tổng Thống Trần Văn
Hương hoang mang với chức vụ mới và
yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội giao quyền
Tổng Thống cho Đại Tướng Dương
Văn Minh. Hôm qua đài truyền hình Việt
Nam quay buổi lễ trao quyền cho Tân Tổng Thống.
Trong bài diễn văn nhận lãnh chức vụ,
Đại Tướng Minh ngoài thưa chuyện
cùng Quân Đội và dân chúng VNCH cũng
đã tuyên bố với chính phủ
Cách Mạng Lâm Thời và “Những
người anh em bên kia” là ông ta sẵn
sàng giải quyết vấn đề VNCH trong
hòa bình. Cả buổi chiều sau đó,
đến đêm rồi cho đến bây giờ
tiếng súng đạn vẫn không ngừng, chứng
tỏ là Bắc quân không xem ông ta
đóng một vai trò nòng cốt trong cuộc
chiến tranh này nữa. Mà làm sao có thể
xem ông ta là quan trọng khi lực lượng bảo
vệ SàiGòn sắp sửa sụp đổ
hoàn toàn, Cộng quân đang siết chặt
vòng đai, chỉ còn vài ngày nếu
không nói là vài giờ sẽ ngửi
mùi chiến thắng?
Trên trời
trực thăng Chinook bay hàng hai, hàng ba từ
phía biển vào, đánh dấu cho cuộc di
tản cuối cùng của người Mỹ ở Việt
Nam. Trong cái khung cảnh hỗn loạn của tiếng
máy bay trực thăng vần vũ trên trời, của
tiếng thùm thụp đạn đại bác, của
tiếng máy bay Phantom xé không khí với
tiếng gầm của động cơ máy bay lẫn
tiếng thả bom, của tiếng đạn liên
thanh AK47 và M16 liên tục bắn không ngừng,
căn xóm lao động của tôi vẫn tiếp
tục sống một ngày như mọi ngày. Bà
Ba bánh mì đã đẩy xe đi bán.
Bà Tám bánh canh cũng sẵn sàng quẩy
gánh đi rao. Ông Tôm Càng đã mở
cửa chuẩn bị khách trong xóm đến mua
hàng chạp phô của mình. Tôi là
người miền Bắc nên cái cảm
giác bình thường của những người
láng giềng miền Nam trong xóm được
thay thế bằng nỗi lo âu sợ hãi khi biết
rằng ngày tự do của Việt Nam Cộng
Hòa sắp sửa chấm dứt. Một tương lai mờ mịt
sắp sửa chào đón người dân miền
Nam mà tôi cũng như bao nhiêu triệu người
khác thúc thủ không làm gì được.
Ở trước
cửa nhà có tiếng Honda Dame tắt máy. Tôi
nhìn ra cửa, đó là Tuấn, người
anh thứ nhì của tôi. Hớt hải vào
nhà, anh ta nói lớn tiếng:
- Tất cả
thu xếp đồ đạc lên nhà thờ Tin
Lành Quốc Tế ở Trần Cao Vân, sẽ
có trực thăng di tản.
- Chắc
không? Mày lấy tin ấy ở đâu ra? Thịnh,
anh cả của tôi hỏi lại.
- Chắc
thì không chắc, nhưng em nghe tin trực thăng
sẽ bốc mục sư Mỹ ở đó.
- Được
rồi, như thế thì nhà chuẩn bị
đi. Gặp lại vợ chồng mày ở Trần
Cao Vân.
- Ừ,
bây giờ em về chở vợ em. Hẹn gặp lại
nhau.
Tôi nghe anh
Tuấn nói mà không tin vào chính tai của
mình. Chỉ chạy ra nhà thờ là
được đi Mỹ sao? Tìm được
móc nối để đi Mỹ khó vô
cùng. Cho dù chính phủ Gerald Ford đã
đặt áp lực với Đại sứ Mỹ ở
Việt Nam là Graham Martin rất sớm từ đầu
tháng 4 ra lệnh di tản nhân viên Mỹ
và những người Việt thiết yếu
làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ, Martin từ
chối. Ông ta viện lẽ di tản người Mỹ
sẽ làm lung lay tinh thần chiến đấu của
quân đội Việt Nam. Do đó ông
thông báo cho tất cả mọi người ai muốn
rời SàiGòn phải tuân theo luật của
chính phủ VNCH. Chính vì thế những
người đàn ông Mỹ có vợ con Việt
không cưới hỏi phải chạy đôn chạy
đáo lo giấy hôn thú. Những người
lo giấy tờ thừa dịp lợi dụng cơ hội,
tiền phí tổn lúc bình thường
không đến 20 đô-la bây giờ tăng vọt
đến hơn một triệu đồng VN, khoảng
một nghìn đô-la.
Từ
ngày lập gia đình, anh Tuấn ở bên
nhà vợ ở Ngã Bẩy. Nhà tôi chỉ
có mỗi một mình anh ấy tin Chúa,
không phải tin hời hợt như bao nhiêu
người khác mà
tin sốt sắng với một ý chí
cương quyết bỏ trọn cuộc đời hầu
việc Chúa. Bố tôi không tin vào đạo
nào nên tôi cũng như bố tôi, thế
nhưng ở giây phút tuyệt vọng không lối
thoát như thế này, tôi bỗng nhiên
tin vào Chúa của anh tôi vì bây giờ
chúng tôi là người sắp chết đuối
được anh tôi thẩy phao cấp cứu.
- U đâu
rồi? Chị Liên đâu? Anh Thịnh hét lớn.
Mấy đứa đi tìm U và chị Liên
nhanh lên!
Chị
Liên là vợ anh Thịnh. Nhà chị ấy ở
gần nhà tôi, bên kia đường Phan
Đình Phùng nên chị ấy thường về
nhà thăm ba má, tìm chị ấy có lẽ
không khó khăn. Thế nhưng U tôi thì
khó tìm, bà ấy quen bao nhiêu người,
xóm trên xóm dưới, xóm trước
xóm sau, xóm gần xóm xa nên tìm cho ra
U tôi là cả một vấn đề. Tôi
và chị tôi chia phiên, chị ấy tìm
chị Liên còn tôi thì tìm U. Tôi
có cảm tưởng bỏ ra ba thế kỷ đi
khắp nẻo đường đất nước
thì cuối cùng gặp được U tôi ở
nhà cô Bẩy may áo.
Dẫn U
tôi về nhà, chị tôi đã tìm ra
chị Liên trước. Anh Thịnh quát tháo
mỗi đứa phải tự lo mang theo giấy tờ
và những thứ gì cần thiết. Tôi
đánh mắt đảo chung quanh nhà. Ý nghĩ
đầu tiên trong trí tôi là phải mang
theo gì để ăn vì ngay cả Napoléon nhận
thức được là quân đội chỉ
thẳng tiến khi bụng có đầy đủ thức
ăn. Thế nhưng
nhà tôi không có tủ lạnh, ăn
ngày nào thì U tôi đi chợ mua thịt
thà cho ngày ấy nên trong nhà hoàn
toàn không có một món gì. Tôi chạy
lên lầu. Bây giờ thì tôi nghĩ đến
cảnh chạy loạn trong chiến tranh gia đình
thất lạc phân tán hoặc người chết
kẻ còn. Sợ rằng có thể sẽ
không bao giờ gặp lại anh chị em nữa,
tôi mở quyển album ra, lướt nhanh từng
trang, gỡ khoảng hơn mười bức ảnh
có hình của tất cả mọi người
trong gia đình. Kế tiếp tôi nghĩ trong khi
chạy loạn phải cần tin tức nên lấy
cái radio trên bàn rồi đi xuống
nhà. Tài sản chạy loạn của tôi chỉ
có thế: một chiếc máy radio, hơn mười
bức ảnh gia đình và mỗi một bộ
quần áo trên thân.
Chạy xuống
dưới lầu, tôi nghe chị tôi tỉ tê
khóc:
- Em không
có quần mặc.
- Quần
mày đâu? Anh Thịnh thét.
- Em chỉ
có hai cái quần, tối qua giặt hết rồi,
bây giờ còn ướt.
- Thì mặc
đại vào chứ sao?
- Không
được, em đang bị. Đợi em ủi cho
khô rồi hãy đi.
- Giặc đến
đít rồi làm sao đợi cho mày ủi
quần được. Mượn quần của U
thì đã sao?
Chị tôi
khóc thút thít, lấy cái quần satin
đen của U tôi mặc vào. Cái lưng quần
lẫn ống quần rộng thùng thình, chị ấy
phải buộc cái ống quần cho nhỏ lại
trước khi leo lên xe đạp. Đóng
và khoá cửa nhà, chúng tôi kiểm
điểm lại đủ mọi người trước
khi đi: anh Thịnh chở U tôi, chị Liên chở
đứa con trai năm tuổi của hai vợ chồng.
Cả hai đi bằng xe gắn máy trong khi hai bà
chị tôi, tôi và thằng em trai đèo
nhau trên hai chiếc xe đạp. Mọi người
đầy đủ, chúng tôi rời khỏi
nhà. Cả xóm lúc này đã tụ tập
chung quanh chúng tôi, nhiều người hỏi nhốn
nháo đi đâu. Anh tôi không bao giờ
nói chuyện với người hàng xóm
nên không trả lời. Bà Tư Rỗ hỏi
U tôi:
- Bà đi
đâu vậy bà Quản?
- Ồ, đi
lánh nạn ấy mà. U tôi trả lời.
- Vậy chừng
nào bà về?
- Hết
súng đạn thì về.
Ông Bắc
Kỳ thợ bạc đối diện nhà tôi mặc
bộ bà ba trắng đứng trước cửa
nhà gật gù:
- Chắc
chúng nó đi Mỹ.
Thằng
cháu của ông ấy, bằng tuổi tôi
mà tôi đặt cái tên chết liền với
nó là Cường Cu Lé, chỉ tôi cười
hằng hặc:
- Thằng Ngọc
đi Mỹ Tho tụi bay ơi!
Đạp
bánh xe chuyển bánh, dán mắt xuống
đường phía trước, tôi không
dám nhìn những người láng giềng với hàng chục con mắt
soi mói nhìn theo. Tôi không dám trả lời
họ là mình đi đâu vì chính
tôi cũng không biết
là sẽ đi đâu, và có đi
được không. Trong bụng tôi run lo sợ chốc
nữa xe ra đến đường cái cả
nhà sẽ bị Quân Cảnh chận lại,
xét xe không cho đi vì SàiGòn đang
trong giờ giới nghiêm. Thế nhưng nhìn anh
Thịnh trong quân phục chạy hướng dẫn ở
phía trước, tôi cũng hơi yên
lòng. Anh Thịnh là Bác sĩ Quân Y cho lực
lượng Biệt Động Quân, nếu chúng
tôi có bị ngừng thì nói với cảnh
sát anh ấy là bác sĩ, đi trình diện
ở nhà thương.
Nói nghe hoàn toàn có lý.
Ngoài
đường lác đác thường dân,
phần còn lại là quân đội và cảnh
sát. Đến mỗi ngã tư có cảnh
sát, tôi cứ âm thầm đạp xe
không nhìn vì sợ họ huýt còi thổi
mình. Chị tôi thỉnh thoảng đạp xe
quá chậm; sợ anh tôi bỏ rơi làm
tôi cứ hối thúc chị không ngừng. Anh
Thịnh chạy đâu chúng tôi chạy theo
đó. Đầu óc tôi quá căng thẳng
nên không biết phương hướng đường
xá mà chỉ bám sát theo chiếc xe
Mobylette của anh ấy. Khoảng nửa giờ sau,
vào lúc 8 giờ 30 sáng, chúng tôi đến
nhà thờ Trần Cao Vân. Vợ chồng anh Tuấn
đã đến trước, đón chúng
tôi ở cửa.
Khoảng
sân xi-măng trước cửa nhà thờ trống
vắng, chứng tỏ là ít người chưa
biết địa điểm “di tản”
này. Thế nhưng khi bước vào trong
nhà thờ thì tôi thấy đã đầy
người, có lẽ xấp xỉ đến ba
trăm. Chọn một chỗ còn trống, cả hai
gia đình ngồi bệt xuống đất. Tôi
nghe thoang thoáng anh tôi nói chuyện với
vài người khác trong nhà thờ. Họ
đều quả quyết trực thăng sẽ
đáp xuống di tản giáo sĩ Mỹ ở
đây nên tôi hơi yên lòng.
Bây giờ
là 11 giờ sáng. Ở nước Mỹ bên kia
Thái Bình Dương, Kissinger ra lệnh thi
hành giai đoạn thứ tư và là giai
đoạn cuối cùng trong Chiến Dịch Gió
Thổi Không Ngừng, Operation Frequent Wind: di tản
người Mỹ bằng trực thăng ra hạm đội
Mỹ chờ sẵn ở ngoài khơi. Operation Frequent
Wind có 4 giai đoạn:
1. Di tản bằng
hàng không dân sự từ Tân Sơn Nhất.
2. Di tản bằng
máy bay quân sự từ Tân Sơn Nhất.
3. Di tản bằng
tầu từ hải cảng chung quanh SàiGòn.
4. Di tản bằng
trực thăng (chỉ dành riêng cho người Mỹ).
Quốc Hội
Mỹ đã bày tỏ rất rõ trong giai
đoạn khẩn cấp cuối cùng quân đội
chỉ di tản người Mỹ thế nhưng cả
Tổng Thống Ford lẫn Đại sứ Martin ngoảnh
mặt làm ngơ chỉ thị này. Trong vòng
hai mươi tiếng đồng hồ, quân đội
Mỹ huy động 865 lính Thủy Quân Lục
Chiến, bay 630 chuyến trực thăng, di tản 1373
người Mỹ, 85 người thuộc các quốc
gia khác và 5595 người Việt Nam ra khỏi
SàiGòn. Trong số này, số người di tản từ toà đại
sứ Mỹ là 2100 người, 978 là người
Mỹ.
Tiếng trực
thăng Chinook lên xuống không ngừng, tiếng
chong chóng đập “phầm phập” rất
lớn khiến tôi suy nghĩ ngay là toà đại
sứ Mỹ phải gần đâu đây. Bước
ra nhà thờ nhìn lên trời, tôi cứ thắc
mắc là chiếc nào sẽ ghé xuống
đáp ở nhà thờ? Nhìn mãi cả
giờ mà không thấy chiếc nào
đáp, tôi nản chí. Bây giờ thì
không biết ở đâu người ta kéo
đến nhà thờ quá đông, ngồi
đầy ở sân xi-măng bên ngoài
không còn một chỗ trống. Nó làm cho
tôi thất vọng não nề: không một chỗ
trống cho máy bay đáp xuống thì
làm sao mà di tản? Tôi nhìn đồng hồ,
bây giờ đã giữa trưa.
Vào lại
bên trong nhà thờ ăn miếng xôi của
gia đình vợ anh Tuấn nấu, cứ mỗi
giây phút trôi qua là tôi lại càng
lo sợ cho ý nghĩ trong đầu mà tôi nghĩ
không thể nào sai: sẽ không có máy
bay nào đáp xuống vì tôi không thấy
bóng dáng của một giáo sĩ Mỹ. Nếu
có di tản thì máy bay đã đáp
xuống từ ban sáng. Bắt đầu từ hai giờ
trở đi, nhiều gia đình cũng có
ý nghĩ như tôi nên họ dần dần bỏ
về. Nhà thờ ngày càng thưa thớt,
bãi xi-măng phía trước bây giờ trở
lại trống vắng. Anh tôi nghĩ nhà thờ
kiên cố hơn ở nhà, không đi
được thì tạm trú ở đây qua
đêm tránh bom vẫn tốt hơn ở nhà
nên chúng tôi không tham gia với đám
người rời bỏ nhà thờ trở về
nhà.
Bốn giờ
chiều 29/04. Từ lúc đông nhất khoảng
năm trăm người, nhà thờ bây giờ
chỉ còn vỏn vẹn độ năm gia đình. Vào khoảng
ba giờ trưa Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu
lên radio ra lệnh cho người Mỹ rời khỏi
Việt Nam. Thế là hết. Người Mỹ rời
Việt Nam thì SàiGòn chắc chắn sập,
vô phương cứu chữa. Chưa bao giờ
tôi tuyệt vọng như bây giờ. Cảm
giác của tôi bây giờ như là một
con heo sắp bị người đồ tể đem ra
chọc tiết thì phá chuồng chạy
đi, được tự
do. Nhưng cái tự do ấy chỉ ngắn gọn
vì nó vẫn còn nằm trong phạm vi
nông trại không thoát đi đâu
được, không sớm thì muộn người
đồ tể sẽ bắt nó lại. Đúng
ngay giây phút người đồ tể sắp bắt
được nó thì một người chạy
Vespa đi vào. Anh này tên là Bằng,
nói chuyện với anh tôi và sau khi anh ấy
lái xe đi, anh Tuấn mặt mừng rỡ nói
với cả mọi người:
- Anh Bằng
nói ở ngoài bến Bạch Đằng có
tầu đi nhiều lắm, mình ra ngoài
đó có cơ hội thoát.
Chúng
tôi lại có người thẩy cho phao cấp cứu
lần thứ hai. Lần này gia đình bố vợ
anh Tuấn có chiếc xe cam-nhông nhỏ nên mọi
người nhét vào hết trong xe hơi để
anh con trai lớn nhất,
tên Trung, lái.
Anh Thịnh vẫn chở vợ anh ấy trên xe
Mobylette. Anh Tuấn chở tôi trên xe Honda. Chiếc
xe cam-nhông chạy sau hai chiếc xe gắn máy. Chỉ
khoảng mười phút sau chúng tôi
đã ra bến Bạch Đằng. Ai vì lệnh
giới nghiêm khoá cửa trong nhà, nghĩ rằng
ngoài đường chỉ có quân lính
thì lầm to. Cả nghìn người nhốn
nháo khắp nơi. Người ở trên
đường sau khi đập phá vào các
building tước đoạt đủ thứ đồ
đạc như quạt máy, bàn ghế, nệm
giường, quần áo, điện thoại …lũ
lượt tìm đủ mọi phương tiện
mang về nhà. Người về phía sông
thì bao nhiêu ghe thuyền lớn nhỏ đủ
loại, chiếc nào nằm nổi trên sông
là họ leo lên bu kín không còn chỗ
trống như ong lợp tổ. Chạy đến chiếc
tầu to nhất, thấy một anh có vẻ như là
thủy thủ của chiếc tầu, anh tôi ngước
mắt lên, hét hỏi:
- Tầu
này đi đâu vậy anh?
Anh chàng với
gương mặt bất bình, chửi thề:
- Đ.M., tầu
này không có đi đâu hết. Đậu
ở đây rồi tự nhiên bà con cô
bác ùn ùn leo lên tầu. Không có
thuyền trưởng, không có đi đâu hết
anh ơi!
Anh tôi
nói cám ơn. Không di chuyển được
bằng máy bay thì đường thủy bây
giờ là con đường thoát duy nhất. Nhưng
làm sao đi? Những chiếc tầu nhỏ khi ra
đại dương rất nguy hiểm thì đầy
những người, trong khi chiếc tầu lớn
này thì lại không đi đâu hết. Tiếng
súng đạn, tiếng trực thăng, tiếng phản
lực, tiếng bom nổ vẫn dồn dập không
ngừng làm không ai có thể suy nghĩ
chín chắn trong lúc này.
- Anh Thịnh
nhìn kìa!
Anh Tuấn
hét, chỉ tay về một xà-lan đang trôi
chầm chậm trên sông. Xà-lan là một
bè sắt lớn hình chữ nhật, diện
tích có lẽ bằng một sân tennis, chung
quanh là bốn bức tường đầy bao
cát cao khoảng ba thước, có lẽ thấp
hơn những hàng rào ở sân tennis một
tí. Bên ngoài bức tường, ở
mép xà-lan chỉ đủ chỗ cho hai người
chen vai qua lại. Đằng sau và bên hông
có hai “lỗ hổng” to để bên
ngoài có thể vào bên trong xà-lan. Quân
đội dùng xà-lan để di chuyển
súng ống, hàng hóa ở các tỉnh miền
Tây, nhất là trên sông Cửu Long. Tường
bao cát kín mít nên tránh đạn
quân địch bắn từ hai bên bờ sông
rất dễ dàng. Nó không có máy
nên một chiếc tầu nhỏ khác kẹp ở bên hông đẩy
nó đi. Trên chiếc tầu nhỏ này
tôi thấy hai người lính Mỹ cầm
súng gác. Hai người lính Mỹ này
là lý do anh Tuấn chỉ cho anh Thịnh. Cả
hai người đồng ý chạy theo cái
xà-lan vì nó sẽ đưa mọi người
ra Đệ Thất Hạm Đội.
Quyết định
như thế xong, mặc cho bao nhiêu người
khác tranh nhau leo lên những chiếc tầu đậu
trên sông Bạch Đằng, chúng tôi leo
lên xe và chạy theo chiếc tầu. Nó chạy
trên sông thì chúng tôi bám sát
nó dọc theo bờ sông trên đất liền.
Tốc độ nó rất là chậm, và cho
dù có chạy chậm đến đâu đi
nữa cuối cùng nó cũng đến khuất
sau hai cánh cổng lợp bằng mái tôn thật
to ở Khánh Hội. Anh Thịnh và anh Tuấn ngừng
xe. Từ nãy giờ cứ đinh ninh chiếc xe
cam-nhông của bố vợ anh Tuấn chạy theo
nhưng khi quay đầu lại nhìn thì không
thấy bóng dáng chiếc xe đâu hết. Cả
hai đều hốt hoảng vì con trai anh Thịnh
và vợ anh Tuấn còn ngồi trên chiếc
xe cam-nhông. Anh Tuấn nói anh Thịnh ở lại
rồi quành đầu xe chạy đi tìm chiếc cam-nhông.
Bố mẹ vợ
của anh Tuấn, ông Khoa, di cư vào Nam năm
1954 như gia đình bố mẹ tôi, có một
con trai và hai con gái: Anh Trung, chị Nhàn (vợ
anh Tuấn) và Diễm. Anh Trung có vợ là chị
Thủy, người Nam, và ba đứa con gái nhỏ.
Tất cả ngồi trên xe cam-nhông với U
tôi, chị em tôi và vợ con anh Thịnh. Anh
Tuấn chạy ngược lại con đường, mắt
dảo dác nhìn khắp nơi xem có phát
hiện ra chiếc cam-nhông. Trong bụng anh thắc mắc
ghê gớm không biết tại sao anh Trung không
chạy theo anh ấy? Xe hư? Anh Tuấn chạy nhanh
quá xe cam nhông bắt không kịp? Hay cảnh
sát thổi giữ xe lại? Chạy không đầy
một phút thì anh Tuấn thấy chiếc xe
cam-nhông đậu ở ngã tư một con
đường. Tất cả vẫn còn ngồi
trên xe, ngoại trừ hai bố con ông Khoa đang
ngồi nói chuyện bên lề đường. Anh
Tuấn ngừng xe, nóng lòng hỏi:
- Tại sao bố
ngừng xe ở đây? Xe bị hư sao?
- Không, xe
không hư. Ông Khoa trả lời.
- Anh Thịnh
đã đến chỗ xà-lan đậu rồi,
mình phải đi nhanh lên. Tại sao lại đậu
xe ở đây?
- Vợ của
thằng Trung không muốn đi vì sợ nguy hiểm.
Vợ nó không đi thì nó cũng
không đi. Tao đang thuyết phục nó đi
đây.
- Anh Trung,
đã đến đây rồi thì làm
sao ở lại được? Phải đi chứ.
Đâu phải chỉ có nhà mình thôi
đâu mà còn gia đình U em trong xe nữa?
- Chị Thủy
không đi thành ra anh phải ở lại với
vợ con. Anh Trung trả lời.
- Có tụi
em với anh chị mà, thôi đi đi!
Anh Trung uể
oải đồng ý, leo lên xe chạy theo anh Tuấn
đến chỗ xà-lan ngừng. Anh Thịnh mừng
ra mặt khi thấy chiếc xe cam-nhông trở lại
với vợ con anh ấy. Bây giờ thì tôi
có dịp quan sát chỗ tôi đang đứng.
Sau cái cổng có mái tôn che kín,
chúng tôi biết chắc là chiếc
xà-lan đang đậu ở bên trong. Bên
ngoài cổng là bốn, năm người
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ với
súng M16 trên tay đứng gác không cho ai
vào. Con đường trước cổng bây giờ
xe cộ nhộn nhịp, dù rằng có lệnh giới
nghiêm. Cái cổng quá tầm mắt người
thường nên không thể nào một ai
có thể biết diễn tiến gì đang xẩy
ra bên trong. Đứng độ năm phút
thì từ xa tôi thấy có một xe bus mầu
vàng, trên xe có rất nhiều người da
trắng chạy trờ đến. Khi xe ngừng thì
người lính gác mở cổng cho xe vào rồi
nhanh chóng đóng cổng lại. Bây giờ
thì tôi khám phá ra đây là một
trong những địa điểm di tản của
chính phủ Mỹ trong Chiến Dịch Gió Thổi
Không Ngừng, Operation Frequent Wind. Người Mỹ,
ngoại quốc, hay người Việt Nam được
phép di tản đều được cung cấp cho
một địa điểm
di tản và một mật hiệu bí mật, sẽ
phát thanh trên radio Hoa Kỳ. Khi nghe tín hiệu
bí mật - Bing Crosby hát bài White Christmas - những
người đó đến trình diện ở
địa điểm đã cho sẵn. Chiếc xe bus
này đến địa điểm bí mật
đó chở họ đến đây để rời
SàiGòn bằng đường thủy.
Vì hai
cánh cửa đã đóng, chúng tôi
đứng đợi bên lề đường chờ
một chiếc xe bus khác đến để
lính Mỹ mở ra rồi ùa vào. Thi
hành như dự định, mười phút sau
chúng tôi lọt vào bên trong không một
chút khó khăn. Tôi cứ tưởng
đây là địa điểm di tản nên
an ninh được bảo đảm, thế nhưng
tôi lầm to. Ở bên ngoài tuy rằng có
hỗn loạn nhưng không cướp giật,
còn ở đây cướp giật trắng trợn
giữa ban ngày. Có khoảng độ chừng
hai trăm người nhốn nháo chuẩn bị leo
lên xà-lan nhưng cũng có ít nhất một
nửa số người khác, phần đông
là con nít trẻ trạc bằng tuổi tôi,
cướp giật thẳng tay. Chị Liên đeo một
đôi dây chuyền trên cổ, vừa bước
ra xe thì một thằng bé đưa tay nắm sợi
dây chuyền giật đứt phăng từ trên
cổ chị ấy rồi nó lẻn biến mất
trong chớp nhoáng. Anh Tuấn vừa ngừng tắt
máy xe, một gã thanh niên đã đến
hỏi anh ấy nếu anh lên xà-lan rời nước
thì đưa chìa khoá xe cho gã. Bà mẹ
vợ của anh Tuấn nấu một nồi xôi rất
to, khi di chuyển thì để sau xe cam-nhông. Xe vừa
ngừng thì một anh thiếu niên thò hai tay
vào khiêng thùng xôi lấy chạy đi mất. Cướp giật khắp
nơi không lính tráng kiểm soát. Tôi
nhìn ra bờ sông thì không phải chỉ
có một mà có đến ba chiếc
xà-lan. Anh Thịnh, quen với quy củ quân đội,
nói gia đình chúng tôi nhanh chân quy tụ
thành hàng một rồi bước sang chiếc
xe cam-nhông nói gia đình ông Khoa cũng
làm như thế. Anh Trung và bố mẹ là
ông bà Khoa ra ngoài xe đứng nói chuyện
nhưng vợ anh Trung và ba đứa con gái nhỏ
vẫn còn ngồi trong xe. Chỉ trong khoảnh khắc
là bên gia đình tôi và vợ anh Tuấn,
em gái anh Tuấn đã sẵn sàng để
di chuyển. Bên kia vẫn chưa nhúc nhích: vợ
anh Trung vào giây phút chót đổi ý
không muốn đi vì
thấy xà-lan nguy hiểm. Anh Thịnh nổi nóng, sau thêm
vài phút không đợi được nữa,
bảo chúng tôi leo lên xà-lan. Vợ anh Tuấn,
chị Nhàn và cô em gái thấy bố mẹ
mình không nhúc nhích thì oà lên
khóc, hét lớn:
- Anh Trung, chị
Thủy, dắt mấy
đứa nhỏ đi!
- Thầy U
ơi, bỏ hết đi. Theo
tụi con leo lên xà-lan!
Ông bà
Khoa đang chạm trán với một quyết định
sống còn không thể nào giải quyết:
nên đi theo hai đứa con gái leo lên
xà-lan rời bỏ Việt Nam, bỏ lại đứa
con trai duy nhất đến phút cuối cùng quyết
định không đi vì vợ, và do
đó cũng bỏ lại ba đứa cháu ngoại
của hai ông bà? Hay ở lại SàiGòn với
vợ chồng nó và mấy đứa cháu
ngoại, và như thế thì xa rời hai đứa
con gái vĩnh viễn vì chúng nó sắp
bước chân đi ra nước ngoài? Trước
viễn ảnh thế nào cũng mất con, một
là con trai, hai là hai con gái, hai ông bà bật
khóc. Chị Nhàn và cô em gái giờ
đã leo lên xà-lan cùng gia đình
tôi, thấy bố mẹ ra đến đây rồi
mà không đi làm cho cả hai điên
lên, gào khóc không ngừng. Cả hai thay
phiên nhau la hét lên hướng về bố mẹ:
- Thầy U
ơi, leo lên tầu đi!
Bà Khoa cất
tiếng thuyết phục con trai:
- Trung à,
mày ráng thuyết phục vợ mày đi.
Chống cùi
chỏ vào cửa sổ thành xe, anh Trung nói với
vợ:
- Thôi
mình đi đi em.
- Không
được đâu. Nhìn cái xà-lan nguy
hiểm quá.
- Có
gì mà nguy hiểm, người ta đi thì
mình cũng đi được chứ sao?
- Nhưng
mà ba đứa con mình tụi nó còn nhỏ.
- Thì
có Thầy U, rồi cô chú tụi nó lo phụ
mình nữa mà.
- Nhưng
đi bao nhiêu lâu? Rồi thức ăn, sữa
đâu cho con bú?
- Đi ra Vũng
Tầu gặp tầu lớn là có thức ăn
với sữa chứ gì.
- Anh nói vậy
chứ anh đâu biết có thiệt hay là
không. Rồi lỡ đi đường trúng
đạn chết thì sao? Ở nhà ít ra
là không ai chết. Cộng Sản vô nhưng
mình là thường dân không làm gì thì
đâu có gì sợ, chẳng lẽ họ giết
mình sao? Em nhất định không đi.
Quay sang mẹ,
anh Trung nói:
- Vợ con nhất
quyết không đi nên con phải ở lại.
Bà Khoa
nói với chồng:
- Thằng Trung
nó không đi thì tôi ở nhà xem
cháu.
- Nhưng
bà không nhớ mình đã chạy loạn
Cộng Sản năm 54 rồi sao? Ông Khoa nói với
vợ.
- Tôi nhớ
chứ. Nhưng bây giờ tôi già rồi, họ
có làm được gì tôi.
- Tôi sợ
họ lắm rồi, không thể nào ở lại
được. Nhưng vợ chồng cả hai sống
chết có nhau. Mình lấy nhau hơn ba
mươi năm rồi, làm sao tôi đi nếu
bà không đi?
- Tôi biết
như vậy, nhưng không thể nào bỏ
cháu được. Tôi không đi.
Bà Khoa
đã nhất quyết, không thể nào bỏ
mấy đứa cháu ngoại. Ông Khoa biết
không thể nào thuyết phục được vợ,
nước mắt tuôn trào, vẫy tay chào vĩnh
biệt hai cô con gái. Chiếc xà-lan thình
lình bắt đầu rời bến. Bây giờ
không những chỉ có hai chị em chị
Nhàn mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng
khóc thương cho ông bà Khoa ở lại. Chị
Nhàn nằm vật vã trên boong tầu:
- Thầy
ơi! U ơi! Thế
là chúng con mất Thầy U vĩnh viễn rồi.
Bao nhiêu năm Thầy U nuôi chúng con khôn lớn
mà bây giờ tình cha con mẹ con của
mình vĩnh viễn đứt đoạn như thế
này …
Tôi
khóc cũng một thời gian khá lâu rồi
biết không thể nào thay đổi được
số phận của mỗi người, nằm trong
xà-lan yên lặng ngắm nhìn mây trôi
mà không biết chính số phận của
mình bây giờ rồi sẽ trôi về
đâu? Chiếc xà-lan khởi hành vào
lúc 5 giờ 45 chiều. Chỉ trong vòng hơn một
giờ là trời đã bắt đầu
nhá nhem tối. Ánh lửa súng đạn bắn
nhấp nhoáng khắp bầu trời, thỉnh thoảng
có những tiếng nổ ầm thật lớn
mà tôi không biết từ đâu đến.
Chín giờ tối thì tiếng máy bình bịch
của chiếc tầu kéo từ từ dừng hẳn
rồi chiếc xà-lan cặp vào bờ. Ý nghĩ
tầu cặp bờ, nếu có Việt Cộng họ
sẽ leo vào xà-lan được làm tôi
run sợ. Thế nhưng giờ này chắc tất cả
lực lượng địch quân đang tập trung
đánh SàiGòn và trời tối như mực,
đứng xa năm chục thước không thể
nào thấy chiếc xà-lan trong màn đêm
làm tôi hơi vững bụng. Không biết tầu
có bị hư gì không mà ngừng độ
một tiếng thì xà-lan lại bắt đầu
chạy trở lại.
Thứ Tư 30/04/1975:
Hai giờ
sáng thì tầu có lẽ chạy gần ra cửa
biển nên họ đổi thế kéo. Thay
vì chiếc tầu kẹp vào bên hông
xà-lan thì nó chạy ra đằng trước,
kéo chiếc xà-lan theo. Thỉnh thoảng trong
bóng đêm trên mặt sông một vài
chiếc ghe chạy bám theo xà-lan xin phép bỏ
ghe, vào bên trong
xà-lan. Đêm tối đen như mực không
biết đâu là hư thực, đâu
là Việt Cộng đâu là Cộng Hòa
nên những người có súng đã
xung phong đứng ở sau xà-lan để kiểm
soát. Những người bỏ ghe được
phép lên xà-lan với điều kiện nếu
họ có súng thì phải vất súng xuống
sông. Độ một
tiếng nữa thì tôi thấy chiếc xà-lan
dừng lại rồi có tiếng người Việt
từ chiếc tầu kéo dùng loa phóng thanh
truyền tin tức: Trước mặt chúng tôi
là một tầu Hải quân Việt Nam ra lệnh
cho mình ngừng. Nếu lính trên tầu sang
xà-lan bắt đàn ông trong lứa tuổi 17
đến 43 (lứa tuổi cách đây vài
tuần ông Thiệu cấm xuất ngoại vì
tình hình khẩn trương của đất
nước) thì xin mọi người tuân theo lệnh.
Hầu như gia đình nào cũng có
đàn ông con trai vào lứa tuổi
đó nên ai cũng tỏ vẻ quan tâm. Thế
nhưng rất nhanh chóng vài người, rồi
cả chục người đồng lòng quyết
ý theo một anh chàng mặc quần áo
lính:
- Đ.M., giờ
này mà bắt bớ gì nữa. Bây giờ là mạnh ai nấy lo
chạy. Nó qua bắt mình thì đừng
có ai đi. Nó có súng mình cũng
có súng vậy chứ bộ …
Mọi người
chuẩn bị cho cuộc chạm trán thì nửa
giờ sau ai nấy thở dài nhẹ nhõm: chiếc
tầu Hải Quân Việt Nam sau khi khám phá ra
lính Mỹ trên tầu kéo xà-lan thì
xin đi theo để cũng tìm đường
thoát ra Đệ Thất Hạm Đội.
Bốn giờ
sáng thì tầu ra đến cửa biển. Trên
mặt biển bây giờ tôi thấy lấp
lánh bao nhiêu là ánh đèn từ những
chiếc ghe đã ra đây đợi sẵn. Mấy
tuần nay ai đọc tin tức cũng biết là
Đệ Thất Hạm Đội Mỹ với năm hàng
không mẫu hạm đã đến và chờ
đợi ở ngoài khơi, chuẩn bị cho cuộc
di tản. Vấn đề là không biết những
chiếc tầu chiến này nằm ở đâu
nên ghe chài cứ chạy ra đến đây
rồi nằm chờ. Chiếc tầu kéo
xà-lan không bật
đèn chạy âm thầm trong bóng đêm
nên từ xa những chiếc ghe thuyền khó
phát hiện ra nó.
Xà-lan chạy
như thế cho đến khoảng bẩy giờ
thì trời mưa tầm tã. Không một ai
đem theo áo mưa hay một miếng nylon nào
nên hầu hết tất cả mọi người quần
áo ướt sũng. Không muốn để cho
hành lý bị ướt, người nào cũng
dùng thân mình che bọc nó, hy vọng
hành lý vẫn được khô. Cơn
mưa kéo dài cả giờ, và lần đầu
tiên trong đời tôi cảm thấy lạnh kinh
khủng. Ngày xưa còn bé mỗi lần
mưa tôi cởi áo ra tắm mưa cả
hàng giờ mà có khi nào thấy lạnh?
Bây giờ thì mặc cho tôi đứng
lên ngồi xuống, len lỏi qua bao nhiêu là
người, đi vào đi ra, cái lạnh
nó vẫn nằm trong tận cùng tim phổi. Lạnh
đến nỗi tôi đã có ý nghĩ
trong đầu là thà chết còn sướng
hơn.
Từ sáng
đến giờ không một ai biết là tầu
sẽ đi đâu nên từ khi ánh bình
minh ló dạng, mọi người cứ khoắc khoải
nhìn về phía trước để xem có
thấy hình dạng bất cứ một chiếc tầu
chiến Mỹ nào không. Đến độ
chín giờ thì tôi thấy lố nhố một
hàng đen ngòm ở chân trời. Một khung
cảnh và cảm tưởng không thể
nào quên vì tôi nghĩ đã chứng
kiến một cảnh biểu dương oai nghi hùng
vĩ của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ:
hằng hà sa số chấm đen rạp cả một
chân trời. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm
là cuối cùng mình cũng đến
đích. Thế nhưng khi chạy gần đến
thì mới vỡ lẽ: hàng trăm chấm
đen ấy lại là ghe tầu Việt Nam thứ
hai đợi sẵn ngoài khơi! Bây giờ trời
đã sáng tỏ, những ghe thuyền này
phát hiện ra xà-lan dễ dàng và tất
cả chạy theo, tuy rằng họ giữ một khoảng
cách xa xa.
11 giờ
sáng: Một hình ảnh đẹp nhất trong
đời tôi đã từng chứng kiến: một
chiến hạm Hoa Kỳ của Đệ Thất Hạm
Đội nằm lênh đênh giữa biển. Nó
biểu tượng cho sự tự do! Chiếc tầu nhỏ
kéo xà-lan cặp vào phần sau đuôi tầu
và trên tầu lính Mỹ thòng một cầu
thang xuống phần trước của xà-lan. Đoàn
ghe thuyền đi theo biết rằng cũng sắp sửa
nếm mùi tự do như chúng tôi nên gia
tăng tốc độ chạy đến xà-lan. Thế
nhưng số phận họ chưa được may mắn
bằng chúng tôi: lính Mỹ trên tầu bắn
chặn phần đầu ghe, ngăn chận đoàn
ghe đến gần chiếc xà-lan. Họ cứ bắn
liên tiếp như vậy cho đến một
lúc những ghe dẫn đầu phải quành ghe
lái rời xa chiếc xà-lan. Trên tầu chiến
họ ra lệnh không một ai được
phép mang súng ống lên tầu nên ai
có mang thì phải vất hết xuống biển.
Mấy người lính trên xà-lan tuần tự
tháo súng, gỡ lựu đạn quăng xuống
biển. Anh Thịnh có mang theo khẩu súng Colt
nên lặng lẽ theo mọi người ra mép
xà-lan vất súng xuống biển.
Bên trong
xà-lan tôi nghe văng vẳng tiếng lính Mỹ
trên tầu quát tháo qua ống phóng loa:
- Women and children go first! Women and
children go first!
Đám người trong
xà-lan tranh nhau ra đằng trước đến
chân cầu thang. Toán người đầu
tiên không tuân theo lệnh chỉ có
đàn bà và con nít đi trước
nên lẫn lộn cả đàn ông. Thế
nhưng khi mấy ông Việt Nam hùng hổ gạt đàn bà con nít
khác để đi theo vợ con mình thì
lính Mỹ trên tầu bắn chỉ thiên, ra lệnh
cho họ xuống khỏi cầu thang, đợi trên
xà-lan. Khi hầu hết
đám đàn bà và con nít
đã leo thang vào trong chiến hạm Mỹ, Việt
Cộng pháo kích từ trong đất liền. Từ
đằng xa tôi có thể thấy một quả
đạn pháo rớt xuống biển, bắn tung nước
lên cao. Cả trăm chiếc ghe nãy giờ đậu
quây quần chiếc chiến hạm Mỹ ở khoảng
cách xa xa bây giờ
bỏ chạy tung tóe khắp nơi, không muốn
tụ tập một chỗ để làm bia pháo
cho quân địch. Đợi cho người
đàn bà và con nít cuối cùng leo
lên tầu, lính Mỹ trên tầu rút thang
và chiếc tầu chiến rồ máy bắt
đầu chạy về phía biển khơi để
tránh đạn pháo, kéo theo chiếc
xà-lan. Đám đàn ông còn kẹt lại
trong xà-lan, kể cả bốn anh em tôi, hốt hoảng
vì vợ con mình đã lên tầu mà
mình thì còn kẹt lại ở dưới.
Một đám đàn ông ùa đến phần
đầu xà-lan chỗ cái thang vừa rút
lên, la oái oái
“Vợ tôi, mẹ tôi, con tôi ở
trên tầu, cho tôi lên!”. Một hàng
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đứng
dàn hàng trên tầu chiến nơi đầu
cầu thang hét to:
- Sit down! Sit down!
Gọi vài lần như thế
mà đám đông vẫn hỗn loạn
nên lính Mỹ bắn một tràng chỉ
thiên lên trời. Nghe tiếng súng, mấy
ông Việt Nam tái mặt ngồi bệt xuống
đất. Mang cùng dòng máu người Việt
mục kích cảnh hỗn loạn tranh giành phần
sống về mình, đến giờ tôi vẫn
còn xấu hổ khi nghĩ đến cảnh
vài anh chàng con nít Mỹ phải dùng
đến súng để thị uy đám
đàn ông Việt Nam lớn tuổi vào trật
tự quy củ.
Chạy như thế khoảng nửa
giờ xa khỏi tầm pháo từ đất liền,
chiếc tầu chiến ngừng lại, thòng thang xuống
cho đám đàn ông leo lên. Khi xà lan
đã lên hết người, một chiếc
xà-lan khác lại cặp vào và cứ
như thế người tỵ nạn leo lên cho đến
lúc đầy tầu. Khi chúng tôi lên tầu,
vì đàn bà đã lên trước
không biết họ ở đâu nên anh Thịnh
ra phần trước tầu, còn anh Tuấn dẫn
tôi và đứa em ra sau tầu để
tìm. Chúng tôi không ngờ là để
tránh hỗn loạn đi qua lại giữa đầu
tầu và cuối tầu, lính Mỹ gác ở
giữa tầu không cho người hai bên qua lại.
Thế là cả một tuần tầu đi đến
Subic Bay Phi Luật Tân, anh em tôi bị chia rẽ
người đầu tầu, kẻ cuối tầu. Rất
may là anh Thịnh tình nguyện làm bác sĩ
chữa bệnh, anh ấy có quyền đi qua lại
trên tầu nên cuối cùng chúng tôi cũng
đoàn tụ: ngày cuối cùng khi tầu sắp
cặp bến Subic, anh Thịnh biết người Mỹ
sẽ cho người ở nửa đầu tầu xuống
Subic để di tản bằng phi cơ sang Guam, phần
còn lại sau tầu sẽ tiếp tục cuộc
hành trình bằng đường thủy đến
cùng một chỗ. Đêm hôm ấy anh giả
chúng tôi là bệnh nhân và khiêng
chúng tôi từng người một qua phần
đầu tầu.
Khi đã tìm được
một chỗ trong khoang tầu trú ngụ, tôi bật
radio: SàiGòn đã lọt vào tay Cộng
Sản. Trong khi ở ngoài khơi chúng tôi chứng
kiến sự hiện diện cuối cùng của
người Mỹ ở Việt Nam thì vài giờ
trước đó trong đất liền ở
tòa đại sứ Hoa Kỳ vào lúc 5 giờ
sáng, Đại Sứ Graham Martin đáp trực
thăng rời SàiGòn. Một khi biết Martin
đã lên máy bay, Tổng Thống Ford ra lệnh
chấm dứt cuộc di tản. Sau khi nhân viên CIA
và lính cận vệ cuối cùng nối
đuôi theo Martin ra Đệ Thất Hạm Đội,
tòa đại sứ Mỹ chỉ còn khoảng
30 lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Ba
mươi lính phải đương đầu với
hơn 400 người Việt vẫn còn bên trong
sân nghĩ rằng mình sẽ được di tản
nhưng không biết là máy bay sẽ không
trở lại, và hơn 5000 người bao vây
bên ngoài đang tìm lối vào bên
trong. Lính Mỹ đã thiết lập sẵn ba
vòng đai bên trong tòa đại sứ. Khi
người Mỹ cuối cùng đã được
trực thăng di tản, họ bắt đầu
rút lui từ vòng đai một, tử thủ cho
phần đất cuối cùng là sân thượng
để chính những người lính Mỹ
này cũng được di tản. Cái vòng
đai thứ nhất là cổng chính. Nhờ
dây xích khoá lại mà đám
đông bên ngoài không đẩy vào.
Thay vào đó, họ leo tường tràn
vào nhưng trong suốt thời gian trực thăng
đáp xuống di tản, lính Mỹ thành
công trong việc phòng thủ cổng, xô
ngược những người trèo rào rớt
qua trở lại bên kia tường. Khi được
lệnh rút lui lên sân thượng, họ bỏ
vòng đai thứ nhất đó, chạy vào
bên trong toà đại sứ và khoá cửa
lại. Đám người bên ngoài nhận
thấy không còn lính gác cổng nên
thi nhau trèo tường để vào. Bên trong
khuôn viên tòa đại sứ cũng có cả
trăm người Việt Nam chờ đợi di tản,
thế nhưng số họ không may vì không
còn trực thăng vào đón họ nữa.
Khi thấy lính Mỹ rút vào bên trong
toà đại sứ và đóng cửa lại,
họ chợt nhận ra là sẽ không có
máy bay đáp xuống sân và con đường
duy nhất để đi là lên sân thượng
đón trực thăng nên đám người
bên trong họp với đám người bên
ngoài ùa nhau vào cửa chính. Đối
diện với cả nghìn người mà ngay
chính quân mình chỉ có trên dưới
30 lính, lựu đạn cay có lẽ là
phương thức nhanh nhất để giải toả
đám đông nhưng đám Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ không dám dùng.
Thứ nhất là họ không muốn khiêu
khích đám đông. Nếu đám
đông nổi giận xông vào cùng một
lúc thì bắn bao nhiêu đạn đám
lính cũng không thể nào thoát khỏi
SàiGòn, và thứ hai là không một
anh lính nào mang mặt nạ chống lựu đạn
cay. Ném lựu đạn đi mà đám
đông nhặt rồi ném lại thì ngay
chính lính Mỹ cũng bị ngửi hơi cay.
Đám lính rút lên
vòng đai cuối cùng là cửa đến
sân thượng mái nhà. Họ đổ
ngã tủ sắt, lấy những bình chữa lửa
khổng lồ chặn cửa để bên ngoài
không đẩy cửa vào được. Khoảng
30, 40 người Việt Nam đã phá được
cửa bên kia, leo lên sân máy bay trực
thăng thường đậu. Thế nhưng từ
đó họ không thể nào trèo sang
mái nhà sân thượng bên này. Tất
cả lính được lệnh cởi bỏ
hành trang lại để có đủ chỗ cho
tất cả mọi người. Cả đám chia
nhau tấn cửa và quan sát từ trên
mái nhà, đề phòng đạn bắn. Tim
mọi người đập liên hồi vì họ
có thể nghe thấy đám đông Việt
Nam đã phá cửa bên dưới, tràn
lên bên trên và tìm mọi cách
phá bên kia cửa. Nửa giờ đồng hồ
đợi trực thăng từ ngoài khơi Vũng
Tầu bay trở lại đón tưởng chừng
như không bao giờ đến, thế nhưng cuối
cùng chiếc CH-46 xuất hiện, đáp xuống
và di tản những người lính Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ cuối cùng rời khỏi
SàiGòn: 7 giờ 53 sáng ngày 30/04/1975.
Đúng 10 giờ sáng,
Dương Văn Minh phát thanh trên radio tuyên bố
đầu hàng. Ký giả Tiziano Terzani người
Ý-Đại-Lợi ở trên khách sạn
Caravelle nhìn xuống
đường Lê Lợi thấy Trung Tá cảnh
sát Nguyễn Văn Long đến đứng trước
tượng người lính ở công trường
trước Quốc Hội, rút súng để
vào thái dương bắn tự sát. Độ
vài phút sau khi ông ta đang nằm chết, một
người lái xe gắn máy đến lấy khẩu
súng và một người khác nữa gỡ
đồng hồ đeo tay của ông ấy.
Chiến hạm Muller chở
chúng tôi đến căn cứ vịnh Subic, Phi
Luật Tân vào lúc sáu giờ chiều
ngày 04/5/1975. Sau khi tiêu khiển
vài thời gian trong trại tỵ nạn ở Phi Luật
Tân, Orote Point và Asan ở Guam, ngày 30/5 gia đình tôi nhập
trại tỵ nạn Fort Indiantown Gap thuộc tiểu bang
Pensylvania ở Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 7, tất
cả mọi người ngoại trừ U tôi và vợ chồng
anh Thịnh được một nhà thờ bảo
trợ về định cư ở San Diego. Anh Thịnh
không đi, tình nguyện ở lại trại
làm bác sĩ chữa trị bệnh nhân cho
đến lúc trại đóng cửa ba năm
sau, khi người tỵ nạn Việt Nam cuối
cùng rời trại.
Từ ngày sang Mỹ, tôi
không hề nghĩ đến việc viết lại
ngày định mệnh tôi may mắn rời
SàiGòn. Lý do là câu chuyện không
có gì đặc sắc và chắc chắn
là không sống động bằng nghìn
câu chuyện rời nước ra đi của bao
người khác. Thế nhưng con tôi bây giờ
đã lớn, nhiều lúc có đứa hỏi
tôi sang Mỹ vào trường hợp nào. Tuy
rằng có kể cho chúng nó nghe qua loa về
chuyến phiêu lưu rời quê hương,
tôi chưa bao giờ kể chi tiết mà cứ nhủ
thầm trong lòng là một ngày nào sẽ
viết cho chúng nó đọc. Hôm nay thì
tôi nhận thức được là tóc
tôi bây giờ đã bạc mầu, không
viết thì có thể sẽ không còn
cơ hội nên tôi viết lại chuyến đi
này, trước bằng tiếng Việt, và sau
đó sẽ dịch qua tiếng Anh cho chúng
nó hiểu.
Đời sống con người
luôn luôn bị kích thích cám dỗ ham
vui cái sướng, quên cái khổ, quên
ơn người khác. Đời sống cũng
làm cho mình hay than phiền nếu thấy người
khác may mắn trong khi số mình bất hạnh.
Có ngồi xuống viết và bỏ thì giờ
ngẫm nghĩ tôi mới thấy tuy ban đầu
tôi xấu số không có cách nào
đi được vào tháng 4 năm 1975 nhưng
sau này lại may mắn được đi Mỹ.
Nó dậy cho tôi một bài học số phận
trời cho mình như thế nào thì tìm
đủ mọi cách làm cho nó tốt
hơn, đừng bao giờ than phiền. Có ngồi
xuống viết thì tôi mới nhận thức ra
là không nhờ anh Tuấn về nhà nói
ra nhà thờ Trần Cao Vân thì cả gia
đình tôi vẫn còn kẹt lại. Có
ngồi xuống viết tôi mới thấy bao
nhiêu người Mỹ đã hết lòng cứu
người Việt Nam sang đất tự do của họ.
Những
người này làm ơn cho tôi vì
lòng hảo tâm, hoàn toàn không nghĩ
đến sự trả ơn hay tốn kém thì
chính tôi cũng nên theo cái gương
sáng đó mà tiếp tục cái nghĩa
cữ hào hùng, khi có dịp thì làm ơn lại cho những người khác.
Nguyễn Tài Ngọc
Tháng 4, 2010
(Diễm
Trinh sưu tầm và chuyển)