Giọt Nước Mắt Cho Người tìm Tự Do
(NGUYỄN VĂN LỘC)
Thấm thoát
mà đã gần 20 năm. Những người Việt
định cư trên những đất nước
thứ ba đến bây giờ đã yên ổn
với cuộc sống mới. Là một thuyền
nhân, tôi cũng như bao người khác,
đã không khỏi nhiều lúc ngồi suy nghĩ
thẫn thờ, nhớ về những kỷ niệm
khó quên của một chuyến đi đầy
cam go, đầy hãi hùng vượt đại
dương.
Nay ban tổ chức
đã làm một việc rất ý nghĩa;
để chúng tôi, những thuyền nhân
có dịp ôn lại kỷ niệm; và ghi lại
một đoạn đời, có thể gọi
là một giai đoạn bi thương của lịch
sử dân tộc Việt Nam, qua hàng hàng lớp
lớp làn sóng người bất chấp hiểm
nguy, xuống thuyền vượt biển Đông
tránh nạn Cộng Sản sau 1975. Viết bài
này, với hy vọng đóng góp một phần
nhỏ nhoi, để cho thế hệ Việt Nam sau
này biết được nhữ gì chúng
tôi đã đi qua, để họ biết
quí các giá trị tương lai, đã
được những người đi trước
đánh đổi bằng nước mắt, và
hơn thế nữa: bằng máu. Riêng những
người chưa hiểu rõ chế độ Cộng
Sản, sẽ thấy được thêm tội
ác của họ đã gây ra cho dân tộc
Việt Nam, vốn đã nhiều đau thương
và bất hạnh.
Cuộc sống
ngày đó rất khắc nghiệt. Mẹ
tôi thường mọi giá phải cho tôi ra
đi vì ba tôi là sĩ quan chế độ cũ;
anh em tôi đương nhiên sẽ không
vào được đại học, mà phải
đi thanh niên xung phong hay đăng ký nghĩa vụ
quân sự để bị đưa ra làm bia
đỡ đạn trong cuộc xâm lăng Campuchia. Từ
thành phố đến nông thôn, công an khu
vực và bọn chỉ điểm ngày
đêm rình rập như cú vọ, chỉ chực
chụp lên đầu người dân những tội
trạng vô lý. Thành phần trí thức
và quân đội Việt Nam Cộng Hòa
thì kéo lê xiềng xích trong hàng
ngàn trại cải tạo mọc lên khắp mọi
miền đất nước. Sài Gòn như một
người thiếu phụ với những giọt nước
mắt sau tấm màn đen vô vọng.
Những giọt
nước mắt đã biến thành hy vọng
khi biết bên kia bờ đại dương,
các đất nước tự do đang chờ
đón. Hy vọng đã nung nấu trong tim những
người trẻ chúng tôi, chấp nhận hiểm
nguy ra khơi chóng chọi với ba đào, nhất
định phải vượt thoát khỏi cái
đất nước tù tội.
Sau nhiều lần
vượt biên bị bắt ở khắp nơi: Vũng
Tàu, Rạch Giá, Cần Thơ. Cuối cùng
chúng tôi lại chuẩn bị ra biển. Chuyến
đi này bắt đầu từ Ngọc Hà, một
thôn nhỏ giữa Long Thành và Bà Rịa,
trên đường ra Vũng Tàu. Năm
đó là 1985, tôi được 18 tuổi.
Nhiệm vụ của tôi là mang cái hải
bàn trong cái giỏ lác đi xe đò cũng
ít ai nghi. Đến nơi, tôi được sắp
xếp dấu vào nhà một người quen. Suốt
năm ngày nằm chờ, tôi được dặn
không nên ra khỏi căn phòng, sợ dân
làng và công an thấy lạ mặt sẽ
tình nghi. Tôi chỉ nhìn được ra
ngoài qua những kẽ hở trên vách lá
dừa. Thôn này ở gần sông, dân
cư sinh sống bằng nghề biển như
đánh cá, đóng ghe, đan lưới
… Đời sống họ thật lam lũ. Nhìn
xa xa gần mé sông, có một chiếc
tàu đang đóng, mũi tàu vươn
lên ngạo nghễ, tôi tự nhủ không biết
tàu mình đi có được như vậy
không?
Thế rồi
đêm đó, chúng tôi được tin
sẽ “đánh”, có nghĩa là
đi. Xăng dầu và lương thực
đã được chuyển xuống ghe. Tôi chuẩn
bị hết mấy món đồ mà mẹ
tôi đã gói sẵn: thuốc say sóng, thuốc
chống đói, phao cá nhân, một chiếc
nhẫn hai chỉ may trong lai quần để lỡ bị
bắt hoặc lọt sang trại tị nạn, có
cái mà xoay sở hoặc đánh điện
tín về nhà. Tôi chợt thấy
thương mẹ tôi, đã lặn lội khắp
hang cùng ngõ hẻm ở Sàigòn để
tìm mua những thứ này, vốn được
xem là đồ cấm. Bây giờ đã
làm cha, tôi mới cảm nhận được
cái khổ đau ngày nào mà mẹ
tôi phải trải qua khi đưa đứa con trai
lên đường, vào đại dương
sóng gió để tìm tự do và
tương lai, mà biết rằng chẳng bao giờ
gặp lại được nhau.
Hôm
đó, là ngày 15 tháng 7, 1985. Gia
đình tôi ở trọ cũng gởi ba đứa
con đi chuyến đó nên họ làm bữa
cơm cuối cùng tiễn chúng tôi. Bữa
cơm này đúng ra nếu không được
thịnh soạn thì cũng phải kha khá,
vì những ngày sắp tới chúng tôi sẽ
không còn cơ hội mà ăn uống đầy
đủ để chống chọi với biển
khơi, nhưng dọn ra vỏn vẹn chỉ một dĩa
rau luộc, một chém mắm và mấy trái
cà pháo. Thế mới biết đời sống
họ cơ cực đến đâu, trong khi nhà
nước và bọn cán bộ thì mặc sức
vơ vét và làm giàu.
Ăn uống, từ
biệt xong, khoảng 8 giờ, tôi được dẫn
đi. Đi bộ rất lâu, băng qua các bờ
ruộng, bờ lau trong đêm tối. Lâu lâu
có tiếng chó sủa inh ỏi, chúng tôi
phải ngồi xuống núp vào những cái
mả đen ngòm. Nỗi sợ công an làm
tôi quên hẳn cả sợ ma. Vừa đi, vừa
chạy, rốt cuộc chúng tôi đến một
bờ sông. Tôi được đưa đi bằng
một chiếc xuồng nhỏ không máy. Người
chèo thuyền ra hiệu bảo im lặng, rồi lặng
lẽ chèo ra phía sông lớn. Thuyền đi
cũng khá lâu, thinh lặng trong đêm để
tránh trạm biên phòng. Những chiếc thuyền
này, người việt biên thường gọi
tiếng lóng là “tắc xi” hoặc
“cá nhỏ” sẽ đưa người tới
chỗ chuyển tiếp để lên “cá lớn”
là tàu vượt biên.
Thuyền đi qua
những hàng đáy, là tiếng dân
chài gọi những hàng cọc gỗ
đóng ở cửa biển thành một
hàng rào để bắt cá tôm. Tôi
nghe gió biển lồng lộng và thấy nhiều
thuyền bè đánh cá neo ở gần
đó. Không khí trở nên hồi hộp
vì biết đâu trên những tàu
đó có công an phục kích. Lúc ấy
khoảng 11 giờ đêm, người chèo thuyền
chớp đèn pin về phía trước,
chúng tôi hiểu đã ra đến điểm
hẹn. Có ánh đèn trả lời.
Ráng căng mắt ra, tôi thấy phía trước
là một chiếc ghe gỗ chưa dài đến
10 thước. Tàu này đi được sao?
Tôi tưởng tàu vượt đại
dương phải lớn và chắc chắn ghê
lắm, ai ngờ … Bây giờ có sợ cũng
đã trễ rồi, tôi cột cái giỏ
vào người để rảnh tay leo qua ghe lớn.
Đôi dép đã đứt khi lội qua mấy
con mương trên bờ. Thế rồi "tắc-xi"
cặp vào ghe lớn, sóng đập mạnh
làm cả hai ghe đều chòng chành. Sau khi
leo lên, tôi đưa mật mã, là một
tấm hình nhỏ để cho người ta đem
về, thì mẹ tôi mới giao cho hai cây
vàng còn lại. Đưa mật mã xong, bụng
tôi vẫn còn lo: lỡ chưa đi tới
đâu mà bị bắt, thì ở nhà
mình cũng đã giao hết tiền cho người
ta.
Tôi bị thảy
ngay xuống hầm. Thuyền nhỏ mà người rất
đông. Sau này mới biết là có tất
cả là 45 người trên chiếc thuyền
dài 9m5 đó. Người ngồi như cá hộp,
tối quá nên không nhận ra ai là ai, chỉ
có mùi dầu xanh và mùi mồ hôi
xông lên nồng nặc.
Đến hơn
nửa đêm, tàu nổ máy bắt đầu
khởi hành. Tiếng máy nổ rất ồn
nghe "bình …
bình …" và chiếc ghe gỗ rung lên từng
nhịp với tiếng máy cũ kỹ. Tôi thấy
mừng vì tàu đã chạy, chứ ở
đó quá lâu, công an ập đến
thì hỏng. Ngồi dưới hầm quá ngột
ngạt nhưng chúng tôi phải ráng chịu.
Chạy một lát, tàu bỗng chạy chậm
và dừng hẳn lại. Chúng tôi được
dặn không ây tiếng ồn vì có
công an biên phòng. Phía trên nghe tiếng
chân người chạy qua chạy lại cùng với
ánh đèn vàng quét sáng loáng
ngang từng kẽ hở trên khoang tàu. Tim
chúng tôi đập thình thịch, không ai
dám thở mạnh, chỉ nghe tiếng thì
thào cầu nguyện. Những đứa trẻ bị
bố mẹ bịt chặt miệng, sợ để
chúng khóc sẽ lộ ngay.
Phía trên,
tài công đang trình giấy phép
đánh cá. Nếu có gì khả nghi, tụi
công an đòi qua xét tàu thì kể
như xong. Trình giấy tờ và vui vẻ hối
lộ xong, chúng cho đi, chúng tôi thở
phào nhẹ nhõm. Tàu trực chỉ cửa Cần
Giờ và hải đăng ra biển, sóng
càng lúc càng lớn. Lúc này các
cửa hầm được yêu cầu mở ra cho
thoáng, tôi đứng dậy nghe gió lùa
vào mặt mát rượi. Tôi muốn
hít cho thật đầy buồng phổi, một
cơn gió, một khoảng không gian cuối
cùng của quê hương thân yêu. Nhìn
lại, thấy tượng
Chúa Giêsu đứng trên núi Bãi
Sau Vũng Tàu, giang tay ra như che chở cho những
người con quá bé nhỏ, quá tuyệt vọng,
vì không chịu nổi cái ngục tù
trên quê hương, phải ra đi tìm tự
do.
Tôi căng mắt
ra nhìn cho rõ một lần cuối những
dãy núi, những ánh đèn xa xa trong khi
bình minh cũng vừa chợt ửng hồng ở
chân trời phía trước mặt. Đó
là quê hương tôi, thương biết mấy.
Mảnh đất xa xa đó có mẹ tôi chắc
đang thấp thỏm lo âu; có các em tôi
bây giờ chắc đang còn say giấc ngủ. Bạn
bè tôi, người con gái ngồ ngộ mới
quen ở trường Nguyễn Thái Bình mà
ra đi không dám nói lời chia tay. Biết
đến bao giờ gặp lại. Chuyến đi
này, ai biết chừng không là vĩnh biệt.
Bạn thân tôi đó, thằng Thiện
đô con ngày nào còn lọc cọc đạp
xe một bọn đến trường, năm ngoái
cũng ra đi. Nghe nói cả tàu bị mất
tích, giờ này cũng chẳng có tin tức
gì. Đi ngang nhà nó, giờ đây
đã thấy hình nó trên bàn thờ,
vẫn nụ cười hồn nhiên như không hề
hay biết định mệnh đã mang nó đi
khi còn quá trẻ.
Trời
đã sáng, con thuyền tiếp tục rẽ
sóng. Xung quanh là biển nước mênh
mông với những ngọn sóng bạc đầu
cong cong như lưỡi hái của thần chết.
Không còn thấy bến bờ đâu nữa.
Biển tháng 7 quá
dữ tợn, tôi nhắm cũng cấp 5 cấp
6 gì đó, nhờ vậy mà công an
biên phòng ít dám ra ngoài mùa
này, chỉ có con tàu chúng tôi một
mình trong phong ba, hành trang chỉ có lòng
can đảm và đức tin. Trong hầm tàu,
nước biển đã tràn vào cao hơn cổ
chân. Mọi người đều ướt sũng,
bị nước biển tạt vào từ bốn
phía. Mùi ói mửa, mùi dầu gió,
mùi hơi người quyện lại với nhau
thành một mùi vô cùng khó chịu.
Con tàu như con ngựa hoang, thỉnh thoảng bị
sóng nhấc lên thật cao, rồi rớt xuống
như xuống vực thẳm, tạo thành những
âm thanh khô khốc y như va phải vào
đá, tưởng chừng muốn vỡ
đôi. Mỗi lần lên cao rồi rớt xuống
như vậy, tiếng cầu xin lại nghe lớn
hơn, "Giêsu Maria", "Nam Mô A Di
Đà". Trẻ con khóc thét lên vì
sợ, những người say sóng thì không
còn biết gì nữa, kẻ còn tỉnh
thì đầy vẻ lo âu: kiểu này va phải
đá ngầm thì hết sống.
Ngày thứ
hai, mọi người đều ngất ngư. Chủ tàu
phát mỗi người một nắm cơm muối
mè, nước uống phải rất dè xẻn
vì đêm trước hai thùng nước phụ
cột phía sau đã rơi xuống biển.
Nước vào nhiều quá làm gạo
và đồ khô bị sình lên, một số
không ăn được. Đến chiều cơn
giông lại nổi lên, trời càng ngày
càng xám xịt, bỗng nghe tiếng la từ
phòng lái:
- Có tàu
nhỏ rượt theo mình rồi đó nghe !
- Chạy lẹ
lên, mình tới hải phận quốc tế
chưa vậy anh Bảo ?
- Chắc tới rồi,
không lẽ đây là tụi cướp
Thái Lan.
- Nguy rồi, chạy
đi.
Đàn
bà con gái trong tàu không ai bảo ai, lấy
dầu máy và những gì dơ dáy để
bôi lên mặt, trông đen đúa xấu
xí để tụi cướp tha cho khỏi hãm
hiếp. Mẹ bôi cho con, họ vừa bôi vừa
khóc. Ngồi cạnh tôi là một cô
gái tên là Dung, trạc tuổi tôi 17, 18
gì đó và cũng ra đi một mình.
Dung cũng bắt chước bôi dầu máy đầy
mặt, vẻ lo sợ, chúng tôi vẫn không
biết con tàu rượt theo là cướp
Thái Lan hay cũng có thể là tàu quốc
doanh Việt Nam, chỉ biết điềm dữ nhiều
hơn lành, vì lúc đó trời gần
tối và mưa gió mịt mù, ống
nhòm cũng không dùng được. Tàu
kia bắt đầu nổ súng, tiếng súng
có lẽ là trung liên, bị át đi bởi
tiếng máy tàu và tiếng sóng, chỉ
nghe “lụp bụp” và tiếng đạn bay
líu chíu trên đầu. Thuyền chúng
tôi tắt hết đèn và tống hết
ga, cuối cùng tối quá thì tàu kia mới
bỏ cuộc. Dung là người duy nhất bị trúng
đạn. Viên đạn xuyên từ vai tới ngực,
máu ra lênh láng. Chúng tôi xé
áo băng vết thương cho Dung, cả tàu
không có thuốc gì cầm máu, chỉ biết
rửa bằng nước biển.
Tàu đi suốt
đêm trong cơn bão, mọi người đều
mệt lả nên cũng không giúp gì
hơn được cho người bị thương.
Ngày thứ ba thì bão dứt, song đến
ngày thứ tư thì Dung không còn dậy
được nữa vì đã mất máu
quá nhiều. Tôi nghe tiếng những người
đàn bà khóc sụt sùi thì biết
Dung đã ra đi. Chúng tôi cầm tay nhau
đọc kinh và tôi không dám nhìn khi
người ta quấn nàng bằng chiếc mền rồi
thả xuống biển. Dung ở lại đó
mãi mãi, phần những người còn lại
trên tàu, từ thể xác đến tinh thần
gần như đã tê bại, vì biết
đâu số phận mình rồi cũng như
nàng, sẽ chết trên cái biển nước
mênh mông này.
Qua ngày thứ
năm, lương thực trên tàu đã cạn,
nước cũng còn rất ít, chỉ để
ưu tiên cho con nít, đàn bà và những
người đuối sức. Bỗng nhiên có một
con chim bay lượn trên tàu, chúng tôi hy vọng:
hay đã gần đến đất liền hoặc
hòn đảo nào đây mà có chim
bay ra. Suốt hai ngày thứ sáu và thứ bảy
có một đàn cá heo bơi theo tàu, bay
nhảy đùa giỡn. Tôi cảm thấy vui
vì ít ra cũng có dấu hiệu của sự
sống. Thế rồi sự sống đã đến
khi sừng sững trước mặt chúng tôi
có một chiếc tàu lớn. Mọi người
nhốn nháo đứng dậy vẫy tay, la hét
kêu cứu: “Được vớt rồi bà
con ơi, sống rồi con ơi!” Vậy mà con
tàu cứ tỉnh bơ rẽ sóng, nhiều
người trên tàu lớn đổ xô ra xem,
họ còn chụp hình chúng tôi nữa, rồi
hững hờ đi luôn. Mọi người nằm bệt
ra vì thất vọng. Suốt ngày thứ tám
và thứ chín, chúng tôi gặp rất nhiều
tàu ngoại quốc nhưng không tàu nào
dừng lại, mà cũng chẳng thương
tình cho chút đồ ăn nước uống.
Nước và lương thực đều
đã cạn, máy tàu cũng đã
hư sau những lần xả hết ga đuổi theo
các tàu lớn. Ngày thứ mười,
tàu thả trôi, nước vào ngập cả
khoang nhưng không ai còn có sức tát nữa.
Đói và khát hoành hành, trẻ con
khóc như ri, cha mẹ chúng phải cho chúng
uống cả nước tiểu. Tôi và mấy
người đàn ông không chịu nổi
cái nóng và khát nên nhảy xuống
biển ngâm mình, hy vọng cái mát sẽ
làm dịu cái khát trong người. Mấy
người bàn nhau:
- Bây giờ
mà gặp tàu lớn
nữa, tôi sẽ nhảy xuống bơi liền
đến, chắc họ thấy chết sẽ cứu.
Chứ ở đây trước sau gì cũng chết
đói thôi.
Chiều ngày
thứ mười, tôi còn nhớ là ngày
25 tháng 7 năm 1985, đang nằm chờ chết
thì tôi thấy xa xa, một con tàu hiện ra,
ngày càng rõ và có vẻ đi về
hướng chúng tôi. Khoảng nửa tiếng
sau, nó ở trước mặt, thật hùng dũng
với năm cái bình tròn khổng lồ
màu vàng nổi lồ lộ trên biển xanh.
Mọi người lúc ấy đã quá
đuối và tuyệt vọng, không buồn
kêu cứu nữa, chỉ nằm thoi thóp vì
khát nước. Tôi thấy trên boong tàu lớn
có một người đi ra. Tôi vươn sức
tàn cầm cái áo vẫy liên hồi.
Người đó kinh ngạc nhìn xuống, rồi
chạy vào trong kêu thêm nhiều người nữa.
Con tàu đi ngang để lại những đợt
sóng khổng lồ muốn nhận chìm chiếc
ghe bé nhỏ. Thế rồi phép lạ
đã đến, tôi thấy trước tàu
lớn không còn sóng chẻ ra nữa,
hình như nó dừng lại.
Hy vọng
tràn trề. Có tàu vớt rồi sao? Có
nước uống, có đồ ăn rồi sao? Con
tàu mang cờ Panama, lớn kinh khủng, che mát cả
một vùng biển. Đàn ông chúng
tôi chỉ còn
độc nhất chiếc quần xà lỏn,
thân thể chỉ còn da bọc xương,
vươn hết sức ra mà gào thét
và đưa mấy đứa con nít ra cho họ
thấy. Một chiếc cầu thang được hạ
xuống, ba người mặc áo phao, trang bị
súng ngắn cẩn thận bước xuống thang.
Họ ra hiệu cho chúng tôi đến gần,
nhưng chúng tôi làm dấu bảo rằng
tàu không chạy được. Họ quăng
dây kéo lại, hỏi bằng tiếng Anh. Với
vốn liếng tiếng Anh chút đỉnh học ở
Việt Nam, chưa bao giờ tôi thấy quý bằng
lúc này.
Họ hỏi
chúng tôi có mấy người, từ đâu
đến; rồi giới thiệu họ là người
Mỹ, sẽ cứu chúng tôi. Nghe nói tàu
Mỹ, cả ghe reo hò mừng rỡ; "Thoát rồi,
thoát chết thật rồi bà con ơi!", chứ
gặp phải tàu Liên Xô thì chúng chở
về Việt Nam thì toi mạng. Các thủy thủ
thả thang dây xuống, nhưng nhiều người đứng
dậy không nổi nên họ nhanh nhẩu ôm từng
người dìu lên cái cáng rồi
kéo lên tàu. Lên được trên
tàu, nhìn lại chiếc ghe rách nát nhỏ
như một hột đậu, chúng tôi vừa
thương vừa sợ. Họ đánh đắm
chiếc ghe, chắc là theo luật hàng hải.
Nhìn chiếc tàu từ từ chìm xuống
mà mọi người nghĩ rằng mình như
đang còn ở trên đó.
Chúng tôi
đi thẳng từ địa ngục lên tới
thiên đàng. Trong đời tôi chưa bao giờ
mừng như vậy. Thủy thủ đoàn ân cần
săn sóc, người yếu được
đưa thẳng vào clinic, đầy đủ dụng
cụ như bệnh viện để chuyền
“serum” cho lại sức. Chúng tôi
được chia hai, đàn ông đàn
bà cho tắm rửa sạch sẽ bằng xà
bông thơm. Sau đó được dẫn
vào kho lựa quần áo mới tinh mặc
vào, tuy rộng thùng thình nhưng sạch
quá, thơm quá! Bác sĩ khám xong,
chúng tôi ra dùng bữa tối. Cả tàu
khoảng 20 thủy thủ, gồm 3 phụ nữ,
xúm lại phục vụ những người
khách đen đúa vì nắng biển, chỉ
còn hai con mắt và hàm răng cười biết
ơn. Cảm động quá, nhiều bà ôm
chầm mấy cô Mỹ mà khóc tức tưởi.
Ăn xong thuyền trưởng cho gọi tôi và một
người nữa biết tiếng Anh lên văn
phòng. Ông cho biết
tàu này chở gas từ Nhật về. Ông ta
rất hiểu hoàn cảnh của thuyền nhân
Việt Nam nên đã hai lần ra tay cứu người
tị nạn, tàu của chúng tôi là
tàu thứ ba. Ông đã liên lạc với
đất liền, và dự định sẽ
đưa chúng tôi đến Singapore, nơi
đó có trại tị nạn của Liên Hiệp
Quốc.
Chúng tôi
quá mừng vì biết chắc mình
đã “lọt”, đêm đó tôi
không ngủ được. Chỉ mới tối
hôm qua đây, còn ngủ với cơn
đói khát, thân tàn ma dại, cái chết
rình rập; thế mà bây giờ đã
giường êm nệm ấm, đồ ăn thức
uống không thiếu thứ gì. Y như một giấc
mơ kinh hoàng. Ngày hôm sau, mọi người
được dẫn đi chơi khắp tàu.
Đám con nít được cho kẹo
sô-cô-la và uống Coca thỏa thích; Nhỏ
đến lớn mới được uống Coca, đứa
nào cũng chảy nước mắt và ợ
lên rồn rột, làm mấy thủy thủ
cười nắc nẻ. Họ vô cùng thân
thiện, còn cho mỗi đứa trẻ ít tiền
đô la Mỹ để khi lên đảo có
cái mà dùng.
Thế rồi
chúng tôi đến Singapore. Thành phố từ
xa trông rất đẹp, quá hiện đại.
Chúng tôi đứng trên boong tàu mà miệng
há hốc vì chưa bao giờ thấy cái
gì đẹp như vậy. Rồi có phái
đoàn từ trong trại ra, có cả một
người Việt Nam tên là Dì Mười
lên tàu đón chúng tôi. Chia tay với
thủy thủ tàu Capricorn, ai cũng bùi ngùi.
Sau khi lấy địa chỉ của họ bên Mỹ,
chúng tôi hứa nếu qua được Mỹ sẽ
tìm đến thăm. Mấy cô Mỹ ôm từng
đứa con nít lên, không dấu được
lệ. Xuống tàu nhỏ, cặp bến rồi
lên xe bus, chúng tôi ai cũng đi nghiêng ngửa
vì đã lâu không lên đất liền,
trông thật tội nghiệp và buồn cười.
Xe chở qua các thành phố Singapore thật rộn
rịp văn minh rồi về trại tị nạn
trên đường Hawkins Road. Đồng bào Việt
Nam trong trại ùa ra đón chúng tôi.
Cuộc hành
trình cuối cùng đã kết thúc.
Tôi say sưa ôm lấy tự do. Chợt nhớ về
Dung, người con gái ngồi bên tôi
đã chết và được thủy táng
lặng lẽ trên biển Đông, tôi không
khỏi ngậm ngùi rơi nước mắt. Dung
bây giờ đã về đâu, đã nằm
trong bụng cá hay lẻ loi đi về một miền
xa lạ nào. Tôi nhớ đến Thiện,
người bạn của tôi và hàng
ngàn người bất hạnh đã chết
trên vùng biển đó. Hình như
chính linh hồn họ đã dẫn đưa những
con tàu của anh em đồng bào đến bến
bờ bình yên. Cầu mong hương hồn của
họ được về đến bến thanh
bình và giấc mơ của họ cuối
cùng cũng thành sự thật: TỰ DO
NGUYỄN VĂN LỘC
(Nguyen Anh Tuan 135 sưu tầm,
LiH CoCo chuyển)