TẾT MẬU THÂN, TỪ
MỘT GÓC PHỐ
(Võ Thị Điềm Đạm)
Cuộc chiếc kéo dài gần mười
năm như chìm quên hẳn trong những
ngày thành phố Phan Thiết rộn ràng
đón xuân về. Nhất là nơi lòng
những đứa trẻ tuy được sanh ra và
lớn lên với cuộc chiến, những đứa
trẻ dầu có bà con tham gia cả hai đầu
chiến tuyến, thì chiến trận thỉnh thoảng
nghe đến này, hoàn toàn vắng bóng
trong tâm trí luôn bận rộn với
hương thơm bánh mứt, với cảnh chợ
đêm ngày càng đông rộn và nhất
là nỗi mong chờ anh chị đi học hay đi
làm tuốt trong Sài Gòn về nhà ăn Tết.
Sau tiệc Tất Niên, cũng là ngày
cúng đưa Ông Táo về Trời,
được nghỉ học, những đứa trẻ
phố Ba Mươi Căn chiều chiều rong chơi
ngoài đường để được
hòa mình với quang cảnh nhộn nhịp chuẩn
bị Tết của con đường Hải Thượng
Lãn Ông. Không làm gì hết ! Chỉ ngắm,
trầm trồ, đánh giá và rộn vui trong
quang cảnh tất bật mà hân hoan của
người lớn. Đường Nguyễn Hoàng, Trần
Quý Cáp, Lương Ngọc Quyến, Hải Thượng
Lãn Ông là những con đường nối
liền thành phố Phan Thiết với các
làng quê Lại An, Phú Long, Ngã Hai, Xuân
Phong, Đại Nẫm, Phú Hội… đó
là những con đường nhộp nhịp nhất
vào mùa Tết. Xe đạp chất những
cành mai mang đầy mầm nụ còn ửng
xanh. Chậu hoa cúc, thược dược, vạn thọ…
sắc màu rực rỡ chất đầy xe ngựa,
xe lam và hai đầu thúng kéo cong cái
đòn gánh nhịp nhành theo bước
chân các dì, các chị. Cam,
bưởi, quýt, chuối… tươi mát
mượt mà xếp ngay ngắn trong hai đầu
thúng làm trĩu nặng bước chân chị
thôn nữ.
Hôm nay đêm 27, bà Tư Xuân vừa
xay xong phiên lúa cuối năm, hai túi áo
lót phía sau cánh áo bà ba dầy cộm
nên lũ con được phát tiền đi chợ
đêm. Đường xá càng đông, nỗi
mong chờ được tiền đi chợ đêm
càng thôi thúc, nên vừa được tiền
là hai chị em Thi và Thông đèo nhau
trên chiếc xe đạp màu bạc thẳng
đường Hải Thượng Lãn Ông, tới
ngả tư Kho Bạc, quẹo phải.
Thi nhảy xuống, phụ đẩy cho Thông gồng
sức đạp lên dốc cầu. Cầu gỗ lỏng
lẻo, bánh xe đạp tưng tưng, chưa kịp
ê mông thì Thi lại gồng hai tay giữ chặt
yên xe khi Thông gác chân lên sườn xe
thả nhanh xuống dốc cầu. Vèo một
cái là Thi và Thông đã bỏ lại
sau lưng tiệm vàng Thành Kim, tiệm sách
Vui Vui và nhiều tiệm nữa nằm dọc dốc
cầu.
Gởi xe đạp ở rạp ciné Bình
Thuận ngay ngã Năm Quốc Tế, Thi và
Thông, mỗi người một nẻo, len lỏi theo
dòng người từ đầu đường Gia
Long, con đường chính của phố Phan Thiết,
con đường tập trung những tiệm hàng
quan trọng. Thường ngày, đây là
đường một chiều. Khoảng một tuần
lễ trước Tết, chợ đêm được
nhóm họp ở từ đầu vườn
bông cho hết con đường Gia Long nên xe cộ
bị chận để nhường chỗ cho hai
dãy hàng xạp đâu lưng nhau, nằm giữa.
Dùng cây kim băng má đưa, Thi
cài cẩn thận nắp cái túi quần bộ
đồ màu tím xậm điểm hoa trắng
nhỏ li ti. Không chắc
lắm, thỉnh thoảng Thi rờ cái túi nhỏ
bên hông bụng, rờ coi tờ giấy bạc
má mới cho còn nằm đó không. Mắt
ngắm nhìn hàng quán, đầu Thi tính
toán, cân nhắc, so đo và ước
mơ…
Mơ … Cái bóp nylon màu xanh có
hình cô gái cười thiệt đẹp
bên ngoài, mở ra có ít nhất bốn
ngăn và phải có ngăn plastis trắng trong
để bỏ tấm hình đã được
cắt từ báo Thế Giới Ngày Nay của
ba. Cái khăn mù xoa màu trắng, thêu viền
chung quanh và cành hoa in ở góc. Cây viết
nguyên tử giống của nhỏ Thanh được
người cậu từ Sài Gòn về cho, khi bấm
nút xanh xuống thì viết được mực
xanh, khi bấm nút đỏ xuống thì viết
được mực đỏ. Cái kẹp tóc
có nơ sa-teng bóng mượt, chỉ cần bấm
ở một đầu là tóc được kẹp
chắc in. Cái băng đô co dãn được
cho dễ mở xuống, mang lên, phải màu xanh mới
đẹp. Một quai nón lá bằng vải nhung
mượt mà màu đen hay màu xanh giống của
chị Thảo. Một đôi dép mủ màu
vàng lợt lợt, quai có nhiều lỗ li
ti… Phải ăn một ly chè đậu đỏ
bùi bùi của hàng nước đá
ông Tàu ngay ngã tư gần tiệm sách
Hiệp Thành. Phải mua hộp kẹo bạc hà
màu xanh lá cây, ngậm viên kẹo
tròn mềm trên lưỡi, hít một
cái là hơi mát chạy xuống cuống họng,
xuống tới bụng. Phải ăn một tô phở
tiệm ông Tàu và bỏ thật nhiều
tương đen cũng như tương đỏ, rau
quế, ớt lát. Phải mua gói hột dưa
để khi cắn nhớ thấm nước miếng
ươn ướt cho môi đo đỏ. Phải…
Tiệm hàng hai bên đường có
thêm nhiều mặt hàng nên người ra
người vô nườm nượp. Đặt biệt
là hai hàng sạp giữa đường với
những hàng hóa chỉ đặt biệt cho Tết.
Bánh in bột trắng tinh chen lớp đậu xanh mỏng
ở giữa, phải nhai từ từ vì nếu cố
ngốn là dễ bị nghẹn cổ. Những hộc
cốm khối chữ nhật có lớp giấy kiếng
đủ màu sắc bọc phía ngoài và
hai đầu được điểm trang bằng
cánh hoa giấy. Bánh đậu xanh khô
màu vàng lợt lợt chỉ cần đưa
lên mũi là mùi vani lẫn với mùi
đậu xanh rang thơm chạy thẳng xuống cổ
họng, được gói thành từng gói
vuông vức bằng giấy kiếng trắng trong.
Bánh bột năng thơm mùi vani hay nước cốt
dừa cũng được gói ghém thẩm mỹ…
Tất cả được xếp ngay ngắn bên cạnh
những chai rượu, hộp trà, hộp bánh
Tây bọc bằng giấy kiếng vàng, đỏ.
Và mứt ! Mứt mãng cầu trắng
đục ngọt ngọt chua chua và dẻo đẹo
nên phải liếm sạch lớp giấy kiếng trắng
bao. Mứt dừa cọng dài quăn quăn vừa
béo vừa ngọt đủ màu sắc ẩn
dưới lớp đường trắng tinh. Mứt
bí đao trắng tươi chỉ toàn vị
đường ngọt tận kẽ răng nên
thường còn xót lại trên dĩa. Mứt
khoai lang lát to có nhiều lỗ, vàng
vàng bùi bùi với lớp đường trắng
bao quanh. Mứt gừng lát vàng vàng có
hình dáng kỳ cục không miếng nào
giống miếng nào, khi ăn phải nhai thật
nhanh để vị cay không kịp làm cuống họng
nóng bưng bưng. Mứt gừng nguyên củ chỉ
nhìn thấy là hít hà nhưng trông hấp
dẫn quá nên con nít hay lén lén cắn
một chút ở đầu hay liếm lớp
đường bên ngoài. Mứt hột sen
tròn trĩnh kiêu sang, bùi bùi mùi vani,
vì đắt tiền nên chỉ để
dành cho người lớn hay lâu lâu được
má chia cho vài hột đỡ thèm. Mứt me
trái dài cong cong có vị chua thanh thanh hòa
với vị ngọt đậm, vừa dẻo lớp
đường, vừa sừn sựt cơm me sống thấm
hàn the cho nên ăn một trái cũng chưa
đã, phải mút sạch gân và cuống…
Hơn chục loại mứt, nằm kế nhau trên những
cái thúng lớn, đầy vun, khêu gợi tuyến
nước miếng lũ trẻ con luôn thèm ngọt
và chỉ dám đứng ngắm nhìn. Quần
áo, giày dép, nón, đồ chơi…
trăm thứ, ngàn kiểu, treo bày ngập mắt,
mặc sức mà ngắm, mà lựa, mà ước
mơ.
Người lên kẻ xuống, người
xách giỏ kẻ tay không, tay xăm xoi món
hàng, miệng chuyện trò rôn rả, lời
mời mua dẻo đẹo, tiếng trả hàng
kèo nài… không khí rộn ràng
đêm chợ ngày 27 giảm dần, giảm dần…
khi bầu trời đầy trăng sao xuống thấp.
Chân chưa mỏi, mắt chưa no nhưng túi
thì không còn một xu, Thi đi ngược
đường Gia long, hướng đến chỗ gởi
xe đạp, dáo dác tìm Thông.
Chưa tới đầu đường, Thi thấy
Thông tay vịn ghi đong xe đạp, chân
nhón cao, ráng chúi đầu vô
đám đông con nít đang bao quanh một
hàng đồ chơi bày trên một tấm
nylon bên lề đường. Tay
giữ chặt cái bóp màu xanh có nhiều
ngăn đã được chọn mua với bao
nhiêu tính toán hơn thiệt, Thi chen vô
đám đông. Tưởng gì ! Té ra
hàng đồ chơi giống hàng ở đầu
chợ phía bên vườn bông ! Con khỉ bận
áo cánh đỏ, tay đánh trống lia lịa.
Con gà trống đi đi, đầu gục xuống
ngẩng lên. Con cóc xanh khi nhấn nút thì
nhảy chồm vài bước. Con chó mủ
cái đầu lắc qua lắc lại, cái
đuôi quẫy quẫy… Từng món, từng
món một được ông chủ hàng vặn
dây thiều, biểu diễn. Búp bê, súng
mủ, súng gỗ, bộ tô chén nhỏ li ti
đủ màu, con vịt mủ, con heo đất…
tất cả ra hết sức để quyến níu
bước chân đám trẻ với vài
đồng dính túi mà ước mơ
thì cả bao bố đầy.
Tay
vịn chặt yên xe đạp, Thi ngồi yên sau,
đang tập ngồi một bên, hồi hộp
không kém khi Thông thả xuống dốc cầu.
Con dốc cầu dài ngàn-dặm! Lần nào
cũng vậy, cứ đạp xe từ phố về
nhà, thả cái dốc cầu này là cả
Thi và Thông đều mang cảm giác vừa sợ
vừa khoái. Sợ, muốn dắt xe xuống dốc
thì lại tiếc cái cảm giác gió
mát thổi vào mặt, tiếc cảm giác hồi
hộp khi bánh xe đang vù vù thì phải
thắng lại ngay ngã tư Kho Bạc để quẹo
cua. Nhưng nếu dắt xe đi bộ xuống dốc
thì phải liếc ngó vô vườn bông
lớn tối om có mấy cây vông cao ngất
trời và biết đâu có ma thòng
vòng treo mớ ruột lủng lẳng trên
đó. Liếc mắt bên trái, Tiểu Khu
có vòng rào kẽm gai bao quanh, có
gương mặt những ông lính lúc
nào cũng nghiêm nghiêm nghị nghị, bước
chân khẩn cấp, nhìn cũng đủ thấy
ơn ớn. Ánh sáng từ bên Tiểu Khu
không đủ để phá xuyên những
bóng đen bao trùm vườn bông bên kia
đường đầy bí hiểm ban đêm
và làm tăng trí tò mò nhiều
tưởng tượng của những đứa trẻ
thích đọc truyện ma Người Thứ
Tám.
***
Năm nay lệnh đình chiến ba ngày
nên Phan Thiết có nhiều công chức,
quân nhân về nhà ăn Tết. Nhà Thi
có anh Ánh con cô Ba của Thi dẫn cả
bé Bi và bé Ti từ Sài Gòn về. Mấy
nhà hàng xóm có vài chú đi
lính xa, anh chị đi học tuốt trong Sài
Gòn hay ngoài Qui Nhơn… cũng lần lượt
về. Nhà nhà vui cảnh xum vầy có xoong
măng kho vàng tươi, có bánh tét
nhân đậu xanh với miếng mỡ béo ngậy
treo lủng lẳng trong bếp, có những hộc cốm
khối chữ nhật thơm mùi gừng cay, có
chồng bánh tráng mè đen chất cao cả
mét, có xoong thịt kho nước dừa
được điểm thêm chục trứng vịt
trắng mơn mơn, có cành mai đầy nụ
vàng ưng ửng nôn nao bung nở… Khí
xuân mát mẻ khiến lòng người
hân hoan rộng mở. Bàn thờ đầy
bông trái và nhang đèn không bao giờ
tắt làm tăng thêm lòng kính trọng
hướng về tổ tiên trong những ngày trọng
đại của năm. Và từ ngày mai, lời
chúc tụng thật lòng cho nhau ngày đầu
xuân khiến người người cảm thấy
thương yêu nhau hơn, xóa đi những bon
chen tranh dành trong năm qua…
Như thường lệ, sáng mồng một,
chị em Thi theo ông Tư Xuân về Đại Nẫm
để thăm ông bà ngoại, bà nội,
ông nội Tám, ông nội Mười, bác
Tư Hoành và nhiều bà con khác. Tiếng
là theo ba nhưng Thi và Thông một chiếc xe
đạp, chị Thảo chở Thanh, hai chiếc xe đạp
thi nhau, bỏ ông Tư Xuân chở thằng con trai
út thủng tha thủng thỉnh phía sau. Đến
cuối con đường đất rộng dọc
đường rày, băng qua đường
rày là tới khu tập trung, nơi bà nội
đã được đưa về căn nhà
nhỏ ở với cô Sáu.
Như tất cả dân Đại Nẫm
trên, bà nội được đoàn Xây
Dựng Nông Thôn chia một phần đất nhỏ,
cấp nhu liệu xây nhà, và di chuyển
vào khu tập trung này. Người dân Đại
Nẫm, ai cũng mang tâm trạng nửa mừng, nửa
bực tức khi phải vào ở trong vòng
đai khu tập trung nằm dọc đường
rày xe lửa, dưới sự kiểm soát chặt
chẽ của quân đội Việt Nam Cộng
Hòa. Mừng vì không còn sống trong cảnh
ngày-lính-đêm-mấy-ổng và
không phải cung cấp lương thực thuốc
men theo lời nửa xin nửa yêu cầu của mấy
ổng. Bực tức vì bị bắt buộc ở
nơi nhà cửa chật hẹp với chỉ
chút đất vườn bao quanh, mặc dù ban
ngày ai cũng được phép về chăm
bón ruộng vườn, thâu hoa lợi. Mừng
vì không còn lo sợ nằm giữa hai lằn
đạn trong những trận chạm súng. Bực
vì cảnh sống tập trung, trái với bản
chất người nông dân. Muốn hay không, mừng
hay bực, thì ai ai cũng hiểu đây là
cách ly gián Việt Cộng với dân, để
Việt Cộng không còn cơ hội dùng
dân làm bình phong. Nhà ông bà ngoại
Thi cũng như nhiều nhà ở Đại Nẫm
dưới không phải di chuyển vào khu tập
trung vì gần vòng đai bao quanh khu tập trung
và có Cán Bộ Xây Dựng Nông
Thôn thường xuyên tới lui.
Cũng từ đó, sau khi bác Xã mất,
bàn thờ ông nội dời về nhà Thi,
bà nội yếu nhanh, nhà bà nội không
còn rộn rịp cảnh Tết như trước.
Cây cối trong vườn không được
dán giấy điều đỏ mừng xuân.
Bàn thờ đơn sơ ba ngày Tết. Con
cháu tản mác khắp nơi. Tết là về
chỉ để thăm bà nội theo phong tục chứ
lũ cháu không còn chờ lì xì, cũng
không mong bánh mứt. Ở khu tập trung, nhà
chật hẹp, vườn không có cây khế,
cây me nên lũ cháu mau chán. Chơi
được nửa tiếng là bốn chị em rủ
nhau băng ngã sau, ra khỏi khu tập trung, về
nhà ngoại cách đó năm phút đạp
xe cẩn thận trên bờ ruộng khô chật hẹp.
Đống rơm cao vẫn nằm trên
đám ruộng khô rạ không còn quyến
rũ những đôi chân ham vui. Căn nhà
chòi gần con mương trước nhà
không còn kêu giữ bước chân con trẻ.
Mặc dù thường xuyên về ngoại, hầu
như mỗi tuần, nhưng ngày Tết sao tự
nhiên làm lòng nôn nao. Ông giáo
Tâm, ông ngoại Thi sống thật bình dị,
sáng chiều trên chiếc võng đong
đưa dưới gốc me ngâm nga đọc tới
đọc lui mấy tập thơ xưa, cần mẫn
đan cái rổ, cái sàng không bao giờ
tròn trịa. Ông bà Giáo sống với
hai đứa cháu nội có người cha tập
kết chết từ lâu và người mẹ
đã bước thêm bước nữa. Đạm
bạc thường ngày nhưng Tết nhất
thì rộn ràng không kém ai. Bản chất
nghệ sĩ của ông Giáo được
bà Giáo nuông chiều những ngày vui
xuân nên máy hát dĩa được vặn
giây thiểu liên tục, cả ngày vang vang
câu vọng cổ. Hoa bình, hoa chậu và cả
hoa trong tranh điểm tô cảnh Tết từ
nhà bếp lên tới nhà trên.
Buổi điểm tâm trang trọng ngày mồng
một ở nhà chưa kịp tiêu. Bỏ
dép, ngồi xếp bằng trên bộ ván, bốn
đứa cháu ngoại lại được thưởng
thức món bánh tráng cuốn măng kho
có thêm nửa cái trứng vịt bùi
bùi. Dĩa mứt trên bàn trước tủ
thờ cẩn xa cừ có hai chân đèn
bóng loáng và nhang đèn ấm cúng,
sạch trơn sau khi lũ cháu làm một
vòng ngắm nhìn những tấm tranh giấy vẽ
hoa màu rực rỡ được ông ngoại
treo trên tường. Theo cố tật, chơi trong
nhà được một lúc là lũ
cháu rảo ra vườn tìm trái mãng cầu
chín mùi núp sau chùm lá xanh, kiếm những
trái ổi trái mùa nằm chót vót
trên cành cây cao…
Thảo, chị kế Thi, vừa bước
vòng khỏi chuồng heo sau nhà, giật mình
khi thoáng thấy một bóng đen bỗng
dưng biến mất sau bụi chuối hột lá to
xanh gần giếng nước phía nhà ông
Hương. Tự nhiên, Thảo rợn người.
Nãy giờ, mang cái cảm giác bị theo
dõi bởi những ánh mắt đâu
đó quanh vườn, nay cái bóng đen
như một bằng chứng cho cảm giác, làm
Thảo mất vui, kêu Thi về. Ngay lúc
đó, Thi cũng có cảm tưởng như
vườn nhà ngoại hôm nay sao bỗng dưng rộng
quá, vắng quá và hình như có
ánh mắt ai đó bám lưng mình,
bám bước chân mình. Không hẹn, hai
chị em không dám nhìn quanh, chạy vụt
vô nhà, thưa ngoại về.
Cẩn thận vượt mấy bờ ruộng,
băng qua đường rày xe lửa, bốn chị
em, hai chiếc xe, đạp vội đạp vã.
Bóng đen, cảm giác bị theo dõi,
ánh mắt bám sau lưng, cả Thảo và
Thi đều sờ sợ nhưng không kể cho nhau
nghe vì chỉ là mang máng. Về đến
đầu đường, trước bệnh viện
Phan Thiết, quang cảnh rộn rịp những nhóm
người tụ quanh bàn tài xỉu, bàn bầu
cua làm tiêu nhanh cảm giác ơn ớn trong
vườn nhà ngoại.
Một ngày quá bận rộn ! Ăn uống
thả giàn, hết đánh bài xì
dách thì xoay ra đánh bài cào,
phé tố… Mê chơi, trời xập tối cũng
chẳng màng. Bụng no, chân mỏi, cười
to nói lớn… mệt mà vui nên không
đợi nhắc biểu, chị em Thi mạnh ai nấy
lo tìm gối, tìm chỗ ngủ. Tiền lì
xì của ba má, bà nội, bà ngoại,
được Thi xếp ngăn ngắn trong cái
bóp xanh có hình ca sĩ Giáng Thu nghiêng
đầu cười duyên chiếm cả ngăn bọc
plastic trong suốt. Dấu cái bóp thiệt sâu
trong ngăn tủ riêng dưới bàn thờ
ông nội, Thi yên tâm rửa chân leo lên
bộ ván gõ nâu bóng, dành được
cái gối ôm, lăn đại vô góc gần
cửa số, ngủ như mê. Ngày mồng một
đẫm hương khói trang trọng trên
bàn thờ qua mau trong hân hoan và hương vị
yên bình mùa Tết tràn đầy giấc
ngủ cô bé đang học lớp đệ lục
háu ăn, ham chơi.
***
Tiếng pháo nhà ai đốt dữ
quá làm Thi dụi mắt ngồi dậy mà
cái đầu còn ngất ngư giấc ngủ nồng.
Mơ mơ theo bàn tay ai đó kéo xuống nền
xi măng mát, bước chân loạng choạng
vô nhà trong. Lại đùng đùng, cụp
cụp, liên tục nhưng không liên tu như
pháo dây đêm giao thừa ! Lần này
thì không phải pháo. Tiếng súng ! Gần
lắm ! Giọng bà Tư Xuân gay gắt kêu hối
hai đứa con gái lớn, vô nhà trong khi hai
người này còn dùng dằng vì bị
phá giấc mơ nhiều mộng đẹp của
tuổi mới biết liếc mắt. Thi tỉnh hẳn.
Cả nhà nhốn nháo khi tiếng người
kêu nhau ơi ới ngoài đường. Ông
Tư Xuân chậm rãi nhấc cây đà
ngang để mở cánh cửa gỗ lớn có
nhiều lớp xếp.
Chưa kịp đẩy cửa thì có tiếng
đập cánh cửa sắt bên ngoài, tiếng
cô Tám, cô Mười:
- Anh Tư, chị Tư… chạy… chạy
anh chị…
Vẫn thái độ điềm tĩnh, đẩy
hé một cánh cửa gỗ, ông Tư
Xuân hỏi:
- Sao mà chạy ? Chạy đi đâu vậy
?
Cô Tám làm việc bên tòa Tỉnh,
cô Mười học ở Sài Gòn về
ăn Tết, nhà ở đầu chợ Gò, tay
xách bị mang, trả lời hấp tấp:
- Việt Cộng, Việt Cộng nhiều lắm…
chạy vô nhà thương…
- Đụng ở đâu ?
- Phía trong chợ Gò, phía cầu
Bà Bác Xì, Việt Cộng đào hầm
vô tới chợ Gò… Việt Cộng nhiều
lắm… nhiều lắm… chắc Việt Cộng
đào hầm trong xóm từ lâu mà
không ai biết gì hết… nhiều lắm…
khắp xóm…
- Mấy cô đi trước đi.
Đứng sau lớp lưới sắt bao trước
hàng ba, chen giữa ba má, chị em Thi ngóng ra
đường vẫn còn sáng trưng dưới
ánh đèn từ cây cột trụ xi măng
kiên cố. Từng gia đình, kẻ gánh,
người mang bao bị, dẫn dắt nhau, kêu nhau.
Dòng người từ chợ Gò, đầu
đường Hải Thượng Lãn Ông đổ
dồn vê bệnh viện Phan Thiết tìm nơi ẩn
náu qua đêm. Giọng kêu không mấy
gì hoảng hốt cho lắm. Tiếng chân cũng
chẳng dồn dập.
Lòng Thi vui vui vì tưởng "được
chạy giặc" như mọi người nhưng
xìu ngay xuống khi ông Tư Xuân dồn cả
mấy đứa con vô hầm trú ở nhà
trong. Cả năm nay, Việt Cộng pháo kích
liên tục. Pháo kích vô đồn
lính, Tiểu Khu thì ít mà trúng nhằm
nhà dân thì quá thường. Lạ một
điều: Quanh Tiểu Khu, Tòa Tỉnh, ty Cảnh
Sát, Phòng Nhì, trại Đinh Công
Tráng, trại Trinh Tường… nói chung những
khu quân sự đáng là mục tiêu cho những
trận pháo kích của Việt Cộng đều
cách xa khu dân cư, hay chung quanh có bãi
đất trống rộng. Vậy mà nhà dân
bị trúng pháo kích đều đều,
nhiều đến nỗi mỗi nhà có điều
kiện đều xây hầm trú. Phố Hải
Thượng Lãn Ông nằm xa trại gia binh, xa
Phòng Nhì, xa đồn Đinh Công Tráng
và có một ưu điểm là gần
sát bệnh viện Phan Thiết, vậy mà
ông bà Tư Xuân cũng như đa số
đều xây hầm trú vì xóm trong bị
trúng pháo kích mấy lần.
Nhà ở phố Ba Mươi Căn, nguyên
thủy nhà nào cũng giống như nhau, bên
ngoài cũng như bên trong. Hàng ba, phòng
khách, phòng trong, một khoảng trống có
hồ nước và nơi tắm giặt, phòng
sau, nhà bếp, vuờn đất bồi nên chẳng
trồng được cây trái gì nhiều.
Phòng khách và phòng trong có mái
đúc xi măng, nằm giữa những căn
nhà, coi như bốn bề kiên cố. Nhưng muốn
an toàn hơn, ông bà Tư Xuân dùng bộ
ván gõ dầy được tấn cao để
dễ chui ra chui vô, phía trên, những bao
cát nhà binh được tấn chung quanh,
trên bộ ván. Tối tối, ông bà bắt
lũ con cũng như người làm ngủ trong hầm
vừa đủ hai chiếc chiếu. Ông bà nằm
ở cái giường kế bên. Được ngủ
chung, lúc đầu thì vui lắm, lũ con giỡn
chơi cả đêm mới chịu yên. Được
vài hôm, nóng quá, lũ con tự động
tìm đường thoát thân, ra nhà sau ngủ
cho thoáng mát. Nhưng đêm nào nghe tiếng
pháo kích đâu đó là ông
bà dựng đầu lũ con dậy, lôi vô hầm.
Một cực hình ! Lũ con cằn nhằn nhèo
nhẹo vì giấc mơ lượm được tiền
bị cắt đứt.
Ngoài đường láo xáo mà
ông bà Tư Xuân thì điềm tĩnh
bàn tán làm sự náo nức của lũ
con trước sự kiện quá ư là hấp
dẫn giữa đêm mồng một xìu xuống
từ từ. Xìu nhưng tai vẫn vểnh cao. Gọi
là lớn lên trong chiến tranh, ở gần
nhà thương nên chứng kiến thường
xuyên những người mẹ, người vợ trẻ
than khóc mỗi lần xe cứu thương chở
lính bị thương về bệnh viện sau một
trận đụng độ, chị em Thi chưa bao giờ
thực sự đối diện trực tiếp với
chiến tranh như đêm nay. Nhất là khi nghe Việt
Cộng tràn về đầy xóm Chợ Gò,
không xa nhà mình bao nhiêu. Việt Cộng !
Thi nghe nói thường ngày. Họ hàng nội
ngoại Thi ở Đại Nẫm có nhiều người
theo Việt Cộng lắm. Anh Chín Òn, chị
Năm Thống, anh Ngọc… bỗng nhiên biến mất.
Nghe nói theo Việt Cộng, vài năm là nghe
nói chết, chết hết. Ba má cấm tiệt
chị em Thi ngủ lại nhà nội, nhà ngoại
vì sợ bị Việt Cộng bắt hay dụ dỗ.
Việt Cộng ám sát dượng Mười, tịch
thu lúa của má Thi, pháo kích vô
đám hát bội, giựt mìn sập cầu…
nhưng chị em Thi chưa thấy Việt Cộng bao giờ.
Ông Tư Xuân khép cửa từ lâu,
bắt lũ con ngủ lại. Dễ gì ! Một tai lắng
nghe lời ba má bàn tán, một tai lắng
nghe tiếng người xôn xao ngoài đường,
lòng nôn nôn nao nao nên mắt không chịu
khép. Đầu óc người mẹ hoạt
động chớp nhoáng. Một sáng kiến nẩy
nhanh trong đầu bà Tư Xuân. Sáng kiến
là vị thần cứu tinh cho lũ con. Sáng kiến
làm không khí dưới ánh đèn
néon thêm hào hứng vui nhộn hẳn
lên, quên đi cảnh chạy giặc "hấp
dẫn" bên ngoài cánh cửa gỗ dầy.
Bà Tư Xuân quyết định: "Phải cho
tụi nhỏ ăn no bụng, bảo đảm, lỡ
có chạy…"
Miệng nói tay làm, không dám nấu
nướng, bà Tư Xuân xuống bếp
khiêng thúng bánh tét vô nhà trong. Sau
khi cắt chia cho mỗi đứa con một lát
bánh tét dầy, bà Tư Xuân dặn:
”Nếu có gì phải chạy thì mỗi
đứa cầm theo hai đòn bánh tét
mà phòng thân.” Nghe sao vui quá ! Càng
hấp dẫn hơn khi lũ con nghe ba má bàn:
“Chia sẵn cho mỗi đứa một ít tiền
!”
Giấc ngủ đến mau khi cái bụng
căng cứng chất nếp béo thơm và nỗi
náo nức lẫn trong tiếng súng đì
đùng đâu đó đi vào cơn
mơ có túi tiền đầy, một số tiền
lớn chưa bao giờ được cầm trong tay.
Ngoài phòng khách, ông Tư Xuân châm
tách trà nóng, bà Tư Xuân têm
thêm miếng trầu, hai người ngồi bên
cái radio Philip màu đen, lóng tai nghe tin tức,
thì thào bàn tán.
Mùng hai, chưa bửng sáng, bà Tư
Xuân vội hâm măng kho, thịt kho, cắt
bánh tét… Ông Tư Xuân nấu trà
cúng. Bữa ăn sáng mùng hai hôm nay cũng
trang trọng như sáng mùng một nhưng
hơi im lặng hơn và kết thúc nhanh hơn.
Dĩa bánh tét nhiều lớp, tô măng kho
vàng bóng, tô thịt kho nâu nâu có
mấy trứng vịt luộc trắng xen lẫn, dĩa
đồ chua có củ kiệu cay cay, rổ bánh
tránh mè đen… không làm lũ con
quên được chuyện chạy giặc ngoài
đường đêm qua.
Bụng vừa no cứng thì tiếng xôn xao
ngoài đường rõ dần, dồn dập dần.
Cánh cửa gỗ lớn mở, nhưng cánh cửa
lưới sắt ngoài hàng ba vẫn cài chặt.
Ngoài đường, người gánh, kẻ
đeo, lũ lượt đi ngang nhà. Nhưng lần
này thì ngược chiều và không
có tiếng kêu gọi nhau, bình tĩnh hơn,
như đã chuẩn bị cả đêm, chỉ
chờ trời sáng là lên đường.
Người từ xóm Tỉnh, Đại Tài di tản
vô thành phố.
Trên ghế salong gỗ nâu, ông Tư
Xuân vẫn điềm tĩnh bên ly trà
khói lờ mờ và dĩa mứt gừng
vàng ẩn dưới lớp đường trắng
tinh, thờ ơ nhìn ra đường. Dường
như chuyện di tản này diễn theo đúng
như ông đã suy đoán. Hay đầu óc
ông đang lo tính nhưng không muốn để
lộ ra ngoài. Năng động hơn, náo nức
hơn, bà Tư Xuân mở cánh cửa lưới
sắt, ra đường hỏi thăm:
- Đụng lớn không ?
- Chưa đụng.
- Sao mà chạy ?
- Việt Cộng nhiều lắm.
- Việt Cộng nhiều lắm. Mấy ổng
không cho dân chạy vô thành phố.
- Sao lại không cho dân chạy ?
- Chắc sợ dân chạy là Mỹ bỏ
bom, bị pháo đại bác.
- Tụi tui cứ chạy đại. Cũng may
là mấy ổng không bắn theo.
- Mấy ổng cấm thì cấm, mình chạy
cứ chạy. Thế nào Mỹ cũng bỏ bom.
- Tết mà bỏ
bom gì.
- Tết nhứt
gì tụi Mỹ.
Nắng càng
lên, người di tản càng lúc càng nhiều.
Đến khi đoàn người từ Đại Nẫm
vai gánh vai mang đi ngang qua nhà, ông Tư
Xuân mới ra đường hỏi thăm. Như
hàng xóm, ông bà Tư Xuân đón
bà con vô nhà, những người không
có họ hàng bên phố. Từ phòng
khách xuống nhà bếp, người ra, người
vô, chật nêm. Thế là… bánh
tét, xoong măng kho, xoong thịt kho… hết sạch
!
Cảnh nhà nhộn
nhịp chưa từng thấy. Người lớn lo
âu bàn bàn tán tán. Con nít háo
hức ngóng chuyện, lòng vui rộn ràng
không chút âu lo. Không còn nghe tiếng
súng, ham vui với anh chị em họ hàng bên
nội lẫn bên ngoại bỗng dưng tụ tập
về nhà mình, Thi không hề thắc mắc
tại sao ông bà ngoại không di tản như
mọi người.
Anh chị em bà con
tụ tập càng lúc càng đông,
chú bác bàn bạc, cô dì diễn suy,
người di tản ngoài đường từng tốp
ngừng chân kể chuyện… nên quay qua, quẩn
lại là trời sụp tối. Và cơn mê
đánh bài ngày Tết bị quên nhanh, quần
áo mới cũng không thiết tha diện khoe, ngay
cả hàng phở ông Tàu hay ciné bên
phố cũng chẳng hề nghĩ tới.
Liên tiếp mấy
ngày, rau cải, thịt thà bà con đem theo cứ
thế mà xào nấu, cứ thế mà dọn
ra, nồi cơm này tiếp nối nồi cơm kia.
Tới bữa cơm, không ai mời ai, không ai
phân chia, vậy mà tự động đàn
ông vào ngồi ở bàn ăn, đàn
bà xếp bằng ngồi trên bộ ván, con
nít mỗi đứa một tô cơm rủ nhau
ra gốc cây bần nhà sau vừa ăn vừa
tán dóc. Bà con lui tới đông đảo
trong nhà nhưng không rộn ràng tiếng
nói cười như ngày đám giỗ.
Dầu có bệnh
viện Phan Thiết nằm trước mặt như một
bình phong cho những trận pháo kích của
Việt Cộng vào ban đêm, nhưng vì
cách vài trăm mét là Phòng Nhì,
cách độ năm trăm mét là đồn
Đinh Công Tráng nên vị thế phố Ba
Mươi Căn không được coi là nơi
an toàn cho lắm. Đêm đêm, tiếng
pháo kích dọa dẫm, tiếng đạn
đì đùng đây đó khiến phố
Ba Mươi Căn càng ngày càng vắng vẻ
và bà con từ từ tìm nơi tạm
trú bên phố, xóm Cồn gần biển. Gia
đình ông bà Tư Xuân vẫn kiên
trì, không chịu di tản.
***
Gần sáng, tiếng
lao xao ngoài đường làm chị em Thi thức
dậy, vội chen nhau giữa ba má đang đứng
phía sau cửa lưới sắt, để ngóng
chuyện. Giữa đường lộ và tường
rào sơn vôi trắng dọc theo bệnh viện
là đường mương rộng, sâu.
Sâu đến nỗi con nít bị cấm
không được chơi bên đó vào
mùa mưa vì sợ chết đuối. Nghe ba
má hỏi chuyện, bàn tán, Thi hiểu
là những người lính lom khom dưới
đường mương bên kia đường
đang tiến về sân vận động Quang Trung
để làm vòng đai phòng thủ
thành phố và tăng lực lượng
phòng thủ cho đồn Đinh Công Tráng nằm
cách phố Ba Mươi Căn độ năm
trăm mét.
Cảm giác
bình an và niềm cảm kích dấy trong
lòng khi Thi nhìn những gương mặt
đăm đăm nghiêm trọng dưới nón
sắt hướng về phía sân vận động.
Thấy một vài người quăng những hộc
cốm qua bên kia đường, bà Tư Xuân
nhanh chóng chạy vô nhà, lấy mấy hộc
cốm quăng tiếp viện. Thế là, nhà
nào còn bánh tét, còn cốm đều
thay nhau quăng về hướng những người
lính đang dấn thân giải thoát khu phố.
Gương mặt những người lính lom khom
dưới đường mương bên kia vui
lên thấy rõ. Tiếng thì thào cám
ơn, tiếng hỏi thăm nho nhỏ, không khí
thân mật tình quân dân làm giảm
đi tâm trạng âu lo vì đang nằm giữa
hai chiến tuyến.
Tiếng người
cô, con ông nội Tám, ở tạm nhà
ông bà Tư Xuân mấy ngày nay, nói
nho nhỏ: "Đừng cho !" làm Thảo ngạc
nhiên. Đầu óc Thảo đánh một dấu
hỏi thật to: "Sao lại biểu đừng cho ?
Lính là phe mình mà ! Lính đánh
đuổi Việt Cộng mà !" Thắc mắc
đó, rồi quên đó vì người
cô này không nói gì thêm nữa.
Ngoài đường
êm re, không khí hơi rờn rợn, không cần
bị cấm đoán, lũ con tự hiểu là
phải ở nhà, mấy ngày nay. Lạ một
điều là lần đụng trận này,
không hề có tiếng xe cứu thương,
không tiếng người kêu khóc. Như vậy
là không ai bị thương ?
Chị Hai Cao nóng
lòng tìm mọi cách trở lại nhà
ông bà Tư Xuân làm chị em Thi mừng
như lâu ngày mới gặp lại. Không phải
mừng vì có người dọn dẹp rửa
chén mà vì trong hoàn cảnh hiểm nguy ai
cũng muốn có những người thân
yêu của mình bên cạnh như để
chia sẻ, như để bảo bọc nhau, để
thấy yên lòng hơn, cho mình, cho người.
Pháo kích
liên tục mấy ngày, mỗi đêm, quang cảnh
vắng hoe từ ngoài đường cho tới trong
nhà vì bà con đã di tản vô
thành phố. Tin thằng Thanh con bác Hòa
Hưng cách nhà ông bà Tư Xuân một
căn bị trúng đạn pháo kích mất
một hòn giái không làm chị em Thi
cười khoái chí mặc dù thằng
này ưa gây chuyện đánh lộn với
mình. Chị em Thi lo lắng bàn tán: "Vậy
là thằng Thanh sẽ không có con sau này hở
? Tội nghiệp nó !” Đang sống trải
cùng hoàn cảnh mà hoạn nạn dọa dẫm
sát bên lưng, con nít quên hết mọi
thù hằn nhỏ nhặt, tự nhiên thấy
thương nhau, thấy lo cho nhau.
Tin yêu cầu đồng
bào di tản vào thành phố vì Mỹ sẽ
bắt đầu bỏ bom ngày mai làm rúng
động những gia đình ở phố Ba
Mươi Căn, những gia đình kiên trì
còn bám trụ. Đêm chưa khuya lắm,
ông bà Tư Xuân quyết định
đưa gia đình vô nhà thương ẩn
náu qua đêm. Bà Tư Xuân nhét
vô túi quần mỗi người con một
ít tiền, cài kim băng, dặn tới dặn
lui không được mở ra. Bánh tét
không còn nữa nhưng gạo dự trữ ra
giêng bán còn cả chục bao bố. Bà
Tư Xuân dồn nhét nước nắm,
đường muối, gạo vô tất cả
các giỏ xách, chia cho bốn đứa con lớn,
mỗi đứa một giỏ. Chị Hai Cao gánh một
đầu thúng là gạo, một đầu
thúng là bé Út mới được hai
tuổi.
Khu bảo sanh lầu
đúc an toàn nên những người di tản
đều dồn đến, chen nhau tìm chỗ ngủ.
Không đủ chỗ ngủ chung phòng, ông
Tư Xuân và hai thằng con trai phải ngủ
phòng kế bên, phòng sanh. Bây giờ Thi mới
hiểu là tại sao đụng trận mấy
ngày nay mà không có tiếng xe cứu
thương. Toàn bộ nhà thương, nhân
viên, bệnh nhân đã được âm
thầm di tản từ lâu. Đến nỗi khi
đi ngang nhà xác, sợ, nhưng Thi và
Thông vẫn tò mò nhìn vô, tìm
nhìn xác chết thường nằm trên bậc
xi măng chờ người thân đem về
nhà. Vắng hoe !
Nửa đêm, rầm…
rầm…! Pháo kích, pháo kích ngay cả
nhà thương, ngay cả nhà bảo sanh, ngay
phòng bên cạnh, ngay phòng sanh. Tiếng
bà Tư Xuân hoảng hốt: “Ba mày
đâu… có sao không ?” Tiếng người
xao xáo, tiếng chân chạy tới chạy lui, tiếng
bà Tư Xuân đẫm nước mắt:
“Thằng Năm bị thương… ba
mày…” Nghe đến đó, Thi chạy ra
hành lang, nhanh chân chen được tới nơi
chị Thảo đang đứng thút thít
khóc. Trên bàn sanh, Thông nằm đó,
nằm im re trong quanh cảnh náo loạn của
phòng sanh.
Hai trái pháo
kích nổ ngay cửa sổ phòng sanh, mảnh
đạn, kiếng vỡ, văng tứ hướng
nhưng không gây thương tích nặng nề
chi cho lắm. May mà dụng cụ cứu thương
còn trong tủ nên ông Tư Xuân dầu
không phải là y tá nhưng cũng biết
băng bó nên đi tới đi lui chỉ người
này cầm máu, người kia sát trùng,
người nọ băng bó… Thái độ
bình tĩnh, điềm tĩnh trong công việc của
ba làm chị em Thi an lòng. Quay nhìn kỹ bệnh
nhân trên bàn sanh, Thi thở nhẹ nhõm.
Thông ngồi dậy từ lâu, nhe răng cười,
nụ cười cố nở ra như để làm
an lòng mọi người, như để chứng
minh rằng vết thương bên hông không dễ
gì làm thằng con trai đang tuổi đổi
giọng đớn đau lâu.
***
Trời hơi bưng
bửng sáng, đoàn người ẩn náu
trong bệnh viện bắt đầu khăn gói trong
khi tiếng phóng thanh từ chiếc trực thanh
lượn qua lượn lại khu phố Ba Mươi
Căn yêu cầu tất cả phải di tản qua phố,
bên kia sông Cà Ty. Khi đi ngang nhà
mình, Thảo nằng nặc đòi cho chạy
vô một chút. Nhanh mắt, Thảo chợp ngay
cái bàn chải đánh răng, chạy ra. Thấy
chuyện vô lý như vậy mà ông
bà Tư Xuân không buồn la đứa con
gái “lắm chuyện” làm chậm bước
chân di tản. Hình như khi một đứa con
vừa thoát nạn, khi nỗi hiểm nguy gần kề,
lòng cha mẹ bao dung hơn, chiều con hơn.
Băng qua ngã ba,
đoàn di tản đi dọc sát theo dãy
nhà phía trái đường Hải Thượng
Lãn Ông. Vừa tới đầu đường
chợ Gò, một chiếc xe nhà binh nằm
chơ vơ chận ngang bờ lề. Xác người
lính ngồi ngoẹo đầu ở băng trước,
trông như chết từ lâu là hình ảnh
chết chóc đầu tiên Thi thấy trong những
ngày giặc giã này. Con đường vắng
hoe, nhà cửa bỏ ngỏ, khí xuân sáng
sớm lành lạnh rợn người hối
thúc bước chân vừa đi vừa chạy.
Vượt qua Tiểu
Khu vắng vẻ, đến đầu cầu, mọi
người thở nhẹ nhõm khi thấy
đoàn lính đứng kiểm soát xem coi chừng
Việt Cộng đi chen giữa dân. Ai cũng phải
trình thẻ căn cước, khai rõ nhà ở
đâu. Bên kia đầu cầu, nhiều
đám đông đứng chờ để hỏi
thăm tình hình và đón bà con về
nhà tạm trú. Con sông Cà Ty vẫn
bình thản trôi như mọi ngày nhưng
hôm nay thêm trọng trách chia đôi phố
thị, bên hậu phương, bên chiến tuyến.
Ông trưởng ty
trẻ tuổi độc thân nhường phòng
mình trong tòa nhà ty Ngư Nghiệp cho gia
đình ông Tư Xuân. Có phòng
riêng chỉ để ngủ ban đêm, cả
ngày, ông Tư Xuân và lũ con canh chờ
để leo bên đứng trên ban-công xem
máy bay thả bom. Bà Tư Xuân và chị
Hai Cao lo cơm nước dưới nhà bếp, thỉnh
thoảng chạy lên hỏi thăm coi khu nhà
mình có bị bom chưa.
Khi thì leo lên
thành ban công, khi thì chen giữa đám
đông tụ tập ở đầu cầu, chị
em Thi hồi hộp theo dõi trận thả bom bên
kia sông. Cổ nhóng cao chờ máy bay quần
trở lại, tai vểnh rộng nghe người lớn
bàn tán, Thi quên đói. Không phải
quên đói vì lo cho số mạng nhà
mình dưới trận mưa bom mà vì
tò mò chuyện người lớn bàn tới
luận lui. Người đoán Việt Cộng hết
đường chạy thoát, người trách Việt
Cộng đào hầm trong xóm nên Mỹ bỏ
bom, người trách Mỹ không kiêng cữ ba
ngày Tết… Trách thì trách, máy
bay cứ lượn trên không trung.
Hết chiếc
này đến chiếc kia, nối tiếp nhau,
liên tiếp mấy ngày, máy bay quần thảo
khu vực bên kia sông Cà Ty, khu vực Phú
Trinh có con đường Hải Thượng
Lãn Ông là chính. Không biết nơi
phát xuất máy bay, chỉ cần nghe tiếng rền
rền vang lên là mọi người nhốn
nháo nhóng cổ nhìn về hướng
Phú Trinh. Trên không, máy bay tiến tới,
bình thản và ngang nhiên. Phần bụng
dưới mở ra từ từ, cả chục trái
bom dài nhẹ nhàng rơi, rơi từ từ
trong khi máy bay vẫn tiếp tục bay tới.
Bùng… bùng… khói bụi bốc cao
trước khi tiếng đất rung chuyển kịp
làm náo động đám đông bên
nay sông đang hồi họp theo dõi. Trên
không cao hơn, khi phần bụng dưới từ từ
khép lại, máy bay bình thản và ngang
nhiên bay đi.
Từng tấm tole bay
cao, nhìn xa như những tấm giấy vụn bị
gió chiều thổi tung. Thế là đồng
bào bên đây sông tụ từng
đám đông, bắt đầu bàn
đoán khu nhà nào bị trúng bom. Êm
êm được mười phút, tiếng
máy bay quần trở lại, vẫn bình thản,
vẫn ngang nhiên. Và… những trái bom lại
nhẹ nhàng rơi. Đất Trời lại rung chuyển,
nhao động. Tole trắng bụi mờ lại tung bay.
Lòng người dân bên đây sông lại
nhói đau khi biết rằng trong đám tole trắng
đó có mái nhà thân yêu của
mình, trong đám bụi mù đó có
sách vở, có chén tô men xanh đời
ông cố để lại, có dĩa nhạc,
có hình ảnh gia đình chụp những dịp
giỗ Tết… Tiếng thở dài không dấu
diếm trong đám người nhóng cổ
trông về bên kia bờ sông khi máy bay thản
nhiên mất hút trên không. Giọt nước
mắt không muốn giữ lại trong đám
người di tản đang dõi nhìn những
trái bom nhẹ nhàng rơi ngay khu nhà
mình.
Cả ấp Phú
Trinh trở thành tử địa của Việt Cộng.
Lính kiểm soát chặt chẽ dọc sông
Cà Ty, làng Đại Tài, Đại Nẫm,
Xuân Phong, Trinh Tường… Việt Cộng đang
ẩn núp trong các đường hầm quanh khu
chợ Gò, cầu Bác Xì không có
đường thoát. Đất Trời không bao
dung được mạng người nữa.
***
Quân đội dọn
xác Việt Cộng bày hàng dài ở
sân vận động Quang Trung trước khi cho đồng
bào tạm hồi cư. Tạm hồi cư nghĩa
là được về xem coi nhà cửa, thu dọn,
chiều tối phải trở qua bên đây
sông vì tình hình chưa được
yên hẳn. Bước chân vừa đi vừa chạy,
cả gia đình đi dọc đường bờ
sông để về nhà. Những ngôi nhà
trên ngọn đồi cao gần trường Nữ
tiểu học, tường ngói đổ nát,
là hình ảnh đập vào mắt, làm
mọi người càng lo âu cho số phận
căn nhà của mình.
Cứ thế, sưốt
con đường về nhà, những hố bom
sâu rộng như ao rau muống, những căn
nhà chỉ còn phần mái lửng lơ, những
đống gạch nát ngổn ngang bên cạnh những
ngôi nhà may mắn chỉ long cánh cửa hay sập
cái cổng… tất cả làm cho bước
chân người hồi cư thêm hồi hộp.
Thật lạ ! Cả phố Ba Mươi Căn vẫn
còn nguyên, máy bay bỏ bom hướng
này nhiều lắm mà. Những cây cột
đèn vẫn đứng vững dầu cho thân cột
xi măng cốt sắt đang mang trăm ngàn cây
đinh dài bốn centimet của đạn “rắc
kết”, loại đạn nổ tung là bắn
ra cả ngàn cây đinh, loại đạn chống
trận chiến biển người. Thi nghe nói vậy
!
Nhưng… khi
vào nhà, qua phòng khách và phòng
trong, cảnh tượng đổ nát hiện ngay
trước mắt: Nhà bếp và vuờn sau bị
bom. Không phải chỉ nhà Thi, nhà nào cũng
vậy, chỉ bị bom phần sau. Hay thật ! Máy
bay bỏ bom bay tuốt trên trời cao cũng biết
nhắm, biết canh. Phía sau khu phố Ba Mươi
Căn là khu sình lầy, tiếp nối với
vùng cầu Bác Xì, nơi Việt Cộng
làm ổ, đào hầm. Máy bay chỉ việc
bỏ bom ở khu sình lầy đó để chận
đường rút chạy của Việt Cộng,
đâu cần phải bỏ bom cả con đường.
Thế là, bề mặt ba mươi căn nhà của
dãy phố chỉ bị lởm chởm những
cây đinh của đạn “rắc kết”,
tường bên trong loang lổ vì hơi bom
làm rung chuyển và chỉ có nhà bếp
với vườn sau mới chính là nạn
nhân chiến tranh.
Kế bên nhà
Thi là nhà ông Lân, công an thứ lớn
thời ông Diệm. Sau năm 63, ông Lân di chuyển
ra Trung, để lại bà vợ và mấy
người con cỡ tuổi Thông và Thi, sống
trong âm thầm khép kín. Gia đình
ông bà Tư Xuân ngấm ngầm không
ưa ông Lân vì ông thuộc phe đàn
áp Phật Tử, đàn em của ông
dòm ngó nghi ngờ những người bà con
của Thi là Việt Cộng, đám con của
ông chuyên nghề chê cười đạo Phật
và không thèm ăn bánh trái sau
đám giỗ ông nội. Cả xóm hồi
cư nhưng thiếu gia đình ông Lân.
Đáng mừng !
Đáng mừng
là vì căn gác phía sau nhà ông
Lân bị bom, sách báo bay tơi tả, bay qua
vườn nhà ông bà Tư Xuân. Cả một
món quà quí báu ! Chị em Thi tranh nhau
lượm, thèm thuồng nhìn sân sau nhà
hàng xóm trống vắng bóng người
nhưng nhan nhản sách báo. Thèm đọc lắm
nhưng không dám leo rào qua lượm.
Thông và Thi lấy cây khều khều mấy
quyển tạp chí gần hàng rào mà
lòng run, mắt dáo dác. Run vì sợ ba
má rày, vì sợ người nhà ông
Lân về bất ngờ.
Một tuần,
ngày về nhà, đêm qua ty Ngư Nghiệp ngủ,
ai dọn dẹp mặc ai, chị em Thi say mê ngấu nghiến
mớ sách báo “lượm được”
ngoài sân sau. Đến khi hồi cư hẳn, chờ
thêm vài ngày vẫn không thấy ai trong
nhà ông Lân trở về, Thông và Thi rủ
nhau “thám hiểm” căn gác phía sau.
Căn gác rộng, chỉ có cái giường
đơn, bàn viết và báo chí…
ôi ôi là báo, tuần báo, nguyệt
san… ngập sàn, ngập mắt hai đứa trẻ
háu đọc. Thế là, mắt trước mắt
sau, quơ nhét vô lưng quần, nhảy rào,
chạy vô nhà, ngả lưng, đọc.
Một ngày
làm vài chuyến “thám hiểm” vẫn
không thỏa lòng tham, thấy ba không la
rày, Thông và Thi đi đến quyết định:
Dọn chớ không nhét lưng quần nữa. Thế
là, thùng nguyệt san Quê Hương,
thùng tạp chí Phổ Thông, thùng tạp
chí Bách Khoa, thùng nguyện san Thế Giới
Ngày Nay… lần lượt về nằm ở
phòng trong, dưới bộ ván. Thưởng thức
mớ sách báo hiếm quí mà ông
Tư Xuân lâu lâu mới mua, lòng kính
phục chủ nhân, tức ông công an
đáng ghét tên Lân nẩy nở dần dần
trong lòng chị em Thi. Đáng quí trọng lắm
chớ, người đã bỏ tiền đặt
mua những loại tạp chí giá trị như vầy,
người đã đọc hết những tờ
báo đáng quí này, người biết
quí trọng sách báo nên mới xếp gọn
gàng vô từng thùng... Và cũng là một
bài học cho chị em Thi: Công an của ông Diệm
cũng có thể là một trí thức thứ
thiệt vậy !
Đời sống
nhanh chóng trở lại bình thường.
Nhưng không bình thường cho dân quê, họ
chưa được về chăm sóc vườn
tược nên rau cải trở nên hiếm hoi
và lên giá. Và cũng không bình
thường cho con trẻ vì trường học vẫn
đóng cửa nên lũ con mặc sức
ngày đêm say mê với những thùng
sách báo.
***
Anh Phúc, đang học
lớp đệ nhị trường Phan Bội Châu,
người anh bà con có chung ba đời ông
cố nên chị em Thi kêu má anh khi thì
cô Năm, khi thì dì Năm, khi là mợ.
Anh ít nói, nhưng Thi thích anh vì lần
nào ghé nhà ông Giáo Ba, dầu đang
ngồi học, anh đều ra vườn tìm cho Thi
khi thì trái mãng cầu chín ngọt bị
chim ăn một phía, khi thì chùm mận hồng
ưng ửng. Anh đưa cho mà không hỏi,
không đùa, không nói chi cả làm Thi
vừa thích vừa ngán ông anh cả ngày
cắm cổ học. Nhà ông nội của anh ở
Đại Nẵm dưới nên không bị
đưa vô trại tập trung. Ba anh mới mất
việc nên gia đình phải dọn về Đại
Nẫm và sống nhờ vào luống cải,
đám rau.
Mấy ngày nay, cả
gia đình anh tá túc nhà Thi, chờ lệnh
được hồi cư. Nóng ruột cho
đám bắp cải chắc xanh mướt mà
không thu hoạch được, anh Phúc, chị
Danh và cô Năm tranh thủ về lại Đại
Nẫm để cắt cải. Ỷ y lần đầu
an toàn, thâu hoạch được hai gánh bắp
cải, ba má con cô Năm về Đại Nẫm
lần thứ hai.
Chị em Thi rơm rớm
nước mắt khi nghe tiếng cô Năm khóc
ưng ức, nước mắt chị Danh chảy
dài trên gương mặt trắng hồng, những
người em của anh Phúc thút thít
khóc. Anh Phúc bị bắn chết ! Người lớn
bàn tán, mấy người nhỏ loay hoay từ
nhà trước ra nhà sau để ngóng chuyện,
rồi suy diễn theo khả năng hạn hẹp của
minh.
Cô Năm hít
nước mũi, kể:
- Nghe tiếng
súng, bốp… bốp… đang lui cui gần bếp
nên tui với con Danh chạy lẹ vô hầm. Thằng
Phúc đang gánh nước tưới
đám bắp cải ở ngoài.
- Đụng trận hả
?
- Không. Chỉ hai
tiếng súng. Nghe tiếng súng gần quá, bụng
cũng lo, chờ không thấy động tịch, tui
chạy ra thì thấy nó nằm đó,
máu đỏ cả ngực áo sơ mi trắng
có huy hiệu trường trung học Phan Bội
Châu. Nó nằm giữa đám cải bẹ
xanh. Tui với con Danh sợ run khi thấy mắt nó
nhìn trừng trừng về hướng con suối
phía hông vườn.
- Có ai ở gần
đó không?
- Không, im re.
Nhìn về hướng suối thì thấy hai
thùng nước đổ ngổn ngang, cây
đòn gánh nằm cách bờ suối mấy
bước.
- Chắc nó bỏ
chạy.
- Chết liền
há ?
- Tui lay, tui kêu
mà nó không ư không hử, đầu quẹo
qua một bên.
- Ai bắn ?
- Không biết !
- Bị trúng mấy
viên ?
- Tui không biết,
nhưng tui nghe chỉ có hai tiếng súng bộp…
bộp.
- Nó tưới cải
chớ có làm gì đâu mà bắn
nó.
- Ai bắn ?
- Không biết !
- Bây giờ
nó nằm ở đâu ?
- Tui chạy qua kêu
dượng Tư phụ khiêng nó vô nhà.
- Cầu trời mấy
ổng cho yên đặng còn về mà
chôn nó.
Ngày hôm sau,
dì Năm và chị Danh sắm sửa nhang
đèn, ít bánh trái về lại Đại
Nẫm để chôn anh Phúc. Một đám
tang không có người đưa, không tiếng
mõ câu kinh, không dám khóc than
thương tiếc. Ngôi mộ đào vội
vã, đắp vừa cao hơn mặt đất
được gang tay, chôn vùi người con trai
tuổi mới mười tám đang sách
đèn chuẩn bị thi tú tài một,
vì chết tức tưởi nên mắt vuốt
hoài không chịu khép.
***
Toán công chức
Bình Thuận đi từng nhà để
đánh giá sự thiệt hại sau vụ bỏ
bom để Mỹ bồi thường. Số tiền bồi
thường sẽ được tính theo mức
độ hư hại để chủ nhân đủ
khả năng sửa nhà lại như cũ. Ngồi
dậy, thưa chào đoàn thanh tra, chị em Thi lại
ngả lưng trên bộ ván, chân vắt
chéo, tiếp tục say mê với tạp chí
Phổ Thông, Quê Hương… Đoàn thanh
tra ra nhà sau, xem qua sự hư hại, trở lại,
đi qua nhà kế và đám trẻ vẫn
tiếp tục nằm dài trên bộ ván say
mê đọc.
Không biết
vì ông Tư Xuân cũng là công chức
của tỉnh hay lòng rộng rãi, đoàn
thanh tra đánh giá hư hại của nhà
Thi là 80% trong khi mức hư hại thật sự chừng
20%. Được món tiền bồi thường lớn,
ông bà Tư Xuân sửa nhà sau khang trang
hơn cả trước khi bị bỏ bom mà vẫn
còn dư tiền đóng thêm bàn ghế,
tủ kiếng.
Được bồi
thường, nhà nào cũng được bồi
thường, có nhà cất lại trang trọng
hơn, lên lầu cao hơn, nhưng cũng có gia
đình không chịu sửa chữa nên mấy
năm qua đi mà dư tích trận bỏ bom Tết
Mậu Thân vẫn còn.
Năm sau, nghe tin đồn Việt Cộng rút
kinh nghiệm thất bại Tết Mậu Thân, sẽ
tấn công lần nữa, bà Tư Xuân cho gia
đình ăn một cái Tết mini vào giữa
tháng mười một. Cũng đầy đủ
cốm, bánh tét, măng kho, thịt kho nhưng
không trang trọng náo nức như những
năm trước vì chung quanh không ai ăn Tết
chung. Thế là năm đó, gia đình
ông bà Tư Xuân ăn Tết hai lần.
Võ Thị Điềm
Đạm
(Bai Chuyen)