Chuyện CÁI NÓN LÁ
(Phạm Tín An Ninh)
Lần "đáo xứ cố
hương" vừa rồi, tôi có theo bà vợ Ninh-Ḥa
đến thăm ngôi trường Trần B́nh Trọng,
để t́m lại chút kỉ niệm xưa, mà bà cho là dễ
thương nhất trong đời một người con
gái, cho dù đến bây giờ tất cả chỉ là
như khói như sương mà sao cứ măi c̣n đọng
lại ở đâu đó trong hồn nàng. Ngôi trường
đă thay tên từ cái thuở thiên hạ đổi đời,
sau cái ngày hai miền thống nhất để "miền Nam th́ nhận họ, c̣n miền
Bắc th́ nhận .. hàng", nên không c̣n cái cảm giác thân quen, mặc
dù bây giờ chúng tôi vẫn đang trở lại bằng
những con đường xưa lối cũ.
Chúng tôi đến vào đúng lúc tan
trường. Nh́n các em học tṛ từng nhóm bước ra
khỏi cổng mà ḷng dạ cứ bồi hồi, nhớ
da diết một thời xa xưa cũ. Những em học
sinh bây giờ dường như có ít nhiều khác với bọn
chúng tôi xưa. Đặc biệt trong đám nữ sinh, có
thiếu đi cái điều ǵ đó. Măi đến khi về
nhà, ngồi bàn bạc lại chuyện xưa- nay, chúng tôi mới
khám phá ra cái điều thiếu vắng ấy chính là: Cái
Nón Lá.
Không hiểu từ lúc nào, Cái Nón Lá đă
biến mất trong những cô học tṛ, những cô con gái
dễ thương ở quê tôi. Cái Nón Lá với những chiếc
quai hồng, quai đỏ, quai tím, quai xanh .. đă một
thời làm khổ biết bao nhiêu thằng con trai và cũng
đă từng làm giàu thêm cho kho tàng văn chương thi
phú. Bây giờ làm sao t́m lại được cái cảnh "nghiêng nghiêng vành nón che làn tóc .. ",
" mùa hè Ninh Ḥa nắng mờ con mắt, tôi đứng
nh́n em đội nón qua cầu " và tôi không hiểu nếu "Ninh Ḥa, những ngày trời trở
gió" th́
các nàng sẽ lấy cái ǵ để che .. cái áo. Hèn ǵ ông nhà
thơ Lê Hân ở tận bên Canada, đă biết dùng cái cặp
táp để thay cho Cái Nón Lá .. trong bài thơ Nữ Sinh thật
dễ thương:
Cặp ôm che .. ngực xuân th́
Em đi hoa cỏ thầm th́ trông theo
Áo dài tay đỡ ṿng eo
Hai bên hông hở thơ trèo vào thăm
.....
Tôi dám chắc như đinh đóng cột
là chàng trai Ninh Ḥa đa t́nh nào trạc tuổi tôi ngày ấy,
cũng đă từng có thời chạy theo hoặc chết
lên chết xuống v́ những cái quai nón hồng, đỏ,
tím, xanh .. buớc ra từ các cổng trường Trần
B́nh Trọng, Bán Công, Đức Linh .. hay xa hơn nữa là
Vơ Tánh, Huyền Trân, Lê Quí Đôn, Tương Lai, Kim Yến
.. ở Nha Trang. Nhưng đẹp và dễ thương
hơn vẫn là những mối t́nh học tṛ trường
huyện. Ngày đó, có nhiều chàng (và nàng) thuộc ḷng bài
thơ .. khi không có nón .. của ông Nguyễn Bính. Nhiều cô
cậu đă nắn nót chép bài thơ "Bươm Bướm
Ngày Xưa" dấu kỹ trong ngăn cặp táp .. và cả
trong ngăn nào đó của trái tim mới bắt đầu
đập .. lạc nhịp của ḿnh. Bây giờ, nếu
có dịp trở lại Ninh Ḥa, đứng trước cổng
ngôi trường cũ, chắc chắn từ một
nơi thật sâu trong kư ức, bài thơ xưa sẽ
"đột xuất" trở về:
Học tṛ trường huyện ngày
xưa ấy
Em tuổi bằng anh, lớp tuổi
thơ
Những buổi học về không có
nón
Đội đầu chung một lá sen
tơ
Lá sen vương phấn hương sen
ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái
tóc
Theo về tận cổng mới tan
mơ
Em đi phố huyện tiêu điều
lắm
Trường huyện giờ xây kiểu
khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới nhớ
T́nh anh như chuyện bướm
xưa thôi ..
Cuộc đời vốn đă là những
hố bờ ngăn cách. Vậy mà chiến tranh (và đau
đớn thay cả đến lúc có ḥa b́nh nữa) th́ cái
thế hệ của những " ngày xưa thân ái " đó
lại chia ĺa tứ tán. Kẻ chân mây người góc bể.
Kẻ ở người đi ai cũng .. đoạn
trường. Vậy mà trong trời đất bao la lại
có những con đường chạy theo kiểu ṿng tṛn
khép kín, để bao nhiêu năm sau, ở một thành phố
có cái tên lạ hoắc nào đó trên xứ người, nhiều
chàng bất ngờ "đụng đầu" tái ngộ
với "cái quai nón" ngày xưa, hoặc đă từng
đội chung "lá sen tơ" của một ngày nàng
quên mang theo nón lá. Tôi đă từng nghe được khá nhiều
tâm sự của các chàng Ninh Ḥa, bây giờ tóc đă hoa râm:
Nửa đời mới gặp lại
nhau
Ngước nh́n mái tóc ngả màu thời
gian
Cái ngày cùng học trường làng
Chép thơ Nguyễn Bính gởi sang cho
ḿnh
Đêm nằm nhớ nụ cười
xinh
Lá sen tơ ấy chúng ḿnh cầm tay
Thế mà nay .. đau ḷng thay
Cái con bướm trắng đă bay xa rồi
Mỗi người ở một
phương trời
Vẫn không quên được cái thời
xưa xa
Cho dù nay đă ông bà
Lá sen tơ ấy vẫn là sen tơ
Ước ǵ trở lại tuổi
thơ
Để .. cùng đội lá sen tơ với
ḿnh ..
Riêng tôi, một thằng lính lang thang dọc
đường số 1, vậy mà trời xui đất
khiến thế nào cũng đă từng lỡ dại yêu một
cái quai nón tím Ninh-Ḥa. Ngày ấy mỗi lần lái xe qua
trường Trần B́nh Trọng mà không t́m ra cái quai nón tím
là tôi buồn đến ..tím
gan tím ruột. Mà cũng lạ, trường Trần B́nh Trọng
ngày ấy có biết bao quai nón đủ màu, đủ sắc,
cớ sao tôi lại phải ḷng cái quai màu tím. Hay tại tôi
là lính chiến, nên cứ tưởng cái quai nón màu tím là..
"rừng tím hoa sim, tím những chiều hoang biền biệt".
May quá, có một nhà thơ gốc Khánh Ḥa viết giùm tôi cái
"thiên t́nh sử "đó:
O con gái tóc dài - quai nón tím
Chiều ni về - O có nhớ ai không
Guốc khua chi - cho đây nhói cả ḷng
Áo trắng quá - khiến hồn đây
khờ khạo
O cười duyên - khoe dăm ba hạt
gạo
Cho đây vay một hạt - để
no ḷng
Sợ nửa khuya về bên ngọn
đèn chong
O dẫm lấm những tờ thư
đây viết
Cứ nguưt háy đi - cứ lườm
cứ liếc...
Miễn O đừng biền biệt
tháng năm xanh
Miễn sáng - trưa - chiều O cứ
quẩn quanh
Sau cửa lớp - ngập ngừng
như bụi phấn
Ngày hai buổi tan trường ngang mấy
bận
Đứng bên đường đây cứ
măi ngó mong
Quai nón tím ơi - khói thuốc thả
ṿng
Không dám gọi - dù chỉ lời
thăm hỏi
O cứ đi qua - chẳng chờ - chẳng
đợi
Chẳng đoái hoài đến một
gă khờ si
Những ngả đường cũng
năm bảy lối đi
Sao ḷng đây chỉ O quai nón tím ..!
(Phan Thị Ngôn Ngữ)
Nhưng mà tội nghiệp cho cô nàng có
quai nón tím, bởi "đời một người con gái
- ước mơ rất nhiều song trời cho không
được mấy- đến khi đi lấy chồng
chỉ c̣n một mối t́nh mang theo", mà khốn khổ
thay thằng chồng ấy lại chính là tôi. Bởi v́ sau
đó nàng đành phải bỏ cái quai nón tím để khốn
khổ mà làm vợ .. lính. Và từ ngày thằng lính ấy
chui vô cái " trại cải tạo khoan hồng" của
người anh em, th́ cho dù nàng có mở mắt hay nhắm mắt
ǵ th́ cũng chỉ thấy có một .. chân trời tím ngắt.
Câu ca dao quen thuộc ở cái xứ thơ Ninh Ḥa "Trời mưa th́ mặc trời
mưa, tôi không có.. nón trời chừa tôi ra" đă
không c̣n linh ứng với riêng nàng. Trong những người
vợ lính ở cái xứ Ninh-Ḥa hiền khô, trời đă
không chừa nàng ra, nên phải làm thân con c̣ lặn lội bờ
sông .. với đủ thứ trăm cay ngh́n đắng.
Nhưng cuối cùng "người hại người,
chứ ông Trời lại thương người vô tội",
nên bây giờ những cái quai nón .. ấy lại trở
thành những "khúc ruột ngàn dặm của quê
hương" nơi có "chùm khế ngọt, mà em ..
không được quyền trèo hái bao giờ" !!
Tưởng đâu chạy sang xứ
người ta làm Việt kiều yêu .. tự do, là thoát
được bao điều hệ lụy bởi ông chồng
gốc lính. Nào ngờ cái ông chồng ấy bây giờ cũng
vẫn vô tích sự. Mấy lần nhớ con gái ở xa,
nàng định khăn gói một ḿnh sang thăm, nhưng thấy
tội nghiệp ông chồng, nên đành phải trả vé
máy bay. Nàng đă oán trách lầm Kách Mệnh. Nàng bảo là
hơn tám năm cải tạo mà ông chồng vẫn không chịu
tiến bộ. Kách Mệnh dạy: "Có sức người
th́ sỏi đá cũng thành cơm", c̣n khổ thay ông chồng
tôi th́ "gạo đổ vô nồi (điện) rồi
mà vẫn không chín nổi thành cơm".
Nhưng có một Chiếc Nón Lá khác, quai
không màu không sắc, lại làm tôi xúc động mỗi lần
nhớ tới.
Năm 1976, tôi bị chuyển tù từ
Nam ra Bắc, mà lại tới một nơi xa tít mịt
nùng: Lào Cai. Ba năm sau, ông anh bá quyền Trung quốc quên lời
hẹn ước "môi hở răng lạnh", dở
tṛ muốn dạy người đồng chí Việt Nam
anh hùng một bài học, bèn xua quân tràn qua biên giới,
đám tù tụi tôi bèn làm một cuộc "hành quân" thần
tốc xuống Yên Bái, rồi sau đó chạy một mạch
vào tận Nghệ Tĩnh. Trại tù nằm sát biên giới
Lào. Vào mùa hè gió Lào thổi sang nóng đến cháy gan cháy ruột.
Một hôm bọn tù tôi đuợc đi
lao động để t́m "vinh quang", nhưng trời
nóng quá, nên cứ đi vài chục mét th́ tất cả tự
động chui vào mấy bụi cây ven đường.
Đám tù có nhiệm vụ san mặt bằng trên một cái
đồi trọc để chính quyền đưa dân
dưới thấp lên, vừa "ổn định"
đời sống vừa làm một cứ điểm chống
quân "bành trướng Bắc Kinh". Trời nóng
hơn lửa đốt, mà cái đồi th́ không c̣n một
bóng cây, nên đám tù bọn tôi chỉ c̣n có "trời
đội đầu, chân đạp đất"
như ông Từ Hải của nàng Kiều.
May mắn là tôi vừa qua một cơn
kiết lỵ, nên đuợc phân công nấu nước
cho anh em. Phải xuống duới chân đồi mới có
nước. "Đồng chí" quản giáo
"đe" trước là phía dưới có khu nông
trường mà đa số là đàn bà con gái. Chớ có bén
mảng tới để "quan hệ" với nhân dân
chân chính là bị cùm trong hầm núi. Tôi vốn nhát gan nên rất
sợ mấy cái hầm tối trong hốc núi. Một lần
có nhiệm vụ mang xác người bạn tù bị chết
trong hầm núi ra, tôi mới biết cái địa ngục
có thật này. Là một cái hang được moi ra từ
chân núi đá, vừa đủ chỗ cho một thân người
nằm. Khi kéo xác anh bạn tù ra, bọn tôi lạnh toát cả
người. Không phải v́ sợ thây ma, (v́ chính những
thằng tù c̣n sống cũng có khác cái thây ma là bao), nhưng
v́ bọn tôi nh́n thấy mấy con rắn, không biết có tội
t́nh ǵ với Kách Mệnh mà đă tự giác chui vào để
cùng "học tập cải tạo" với mấy
anh tù khốn khổ nhất trên hành tinh này!
Trong lúc nấu nước, vừa cái
nóng của trời, cái nóng trong gió lào thổi tới, cộng
với cái nóng của lửa bốc lên, tôi bị choáng váng
v́ say nóng, bèn chui đại vào một lùm cây "cứt chồn"
nằm. Chợp mắt vài phút, nghe có tiếng sột soạt,
tôi giật ḿnh tỉnh giấc. Ngồi dậy định
chui ra th́ bất ngờ thấy phía trước mặt có
cái Nón Lá. Tôi dụi mắt tưởng nằm mơ, chứ
tôi đâu có cây đèn thần để đọc ra ba
điều ước bao giờ. Lúc này mà có cái Nón Lá, c̣n hơn
cả mấy vị "cứu tinh của dân tộc",
nhưng nghĩ đến mấy con rắn trong cái hầm
núi là tôi đành "bỏ của chạy lấy người".
Nh́n Chiếc Nón Lá nằm trong gang tấc mà với tôi sao xa
thật ngàn trùng. Vừa bước đi, tôi nghe từ một
bụi cây trước mặt, tiếng thỏ thẻ
như chim:
- Anh ǵ ơi ! Anh ǵ ơi ! Tôi cho anh chiếc
nón, trong đó có mấy củ khoai luộc, anh cứ khẩn
trương cầm lấy. Tôi đă cảnh giác kỹ rồi,
chẳng có ai phát hiện đâu.
Bỗng dưng tôi trở thành một thằng
tù vừa được no lại vừa lăng mạn: Thằng
tù có nón !
Sau này khi được chuyển vào Nam
rồi ra trại, tôi bàn giao Chiếc Nón ân t́nh này cùng cả
câu chuyện cô gái nông trường cho người bạn
tù trẻ hơn tôi bốn tuổi mà hai thằng đă từng
kết nghĩa anh em. Sau ngày vượt biên, tôi t́m cách liên lạc
với gia đ́nh anh. Tôi nghiệp người bạn trẻ
dễ thương đă chết sau gần một năm
tôi chuyển trại.
Ở miền Bắc, người ta xem
thường con gái nông trường nên ví von "con gái nông
trường như chiếc giường bệnh viện".
Sau này, mỗi lần nghe ai nhắc tới câu nói đó, tôi
cảm thấy như chính ḿnh bị xúc phạm. Tôi chỉ
nghe tiếng nói, nhưng chưa thấy mặt người
con gái ấy bao giờ. Nhưng Chiếc Nón Lá với cái
quai chỉ bằng một sợi giây, có cái màu ướt
đẫm mồ hôi, tôi không bao giờ quên. Cầu mong cho
người con gái nông trường Thanh Chương ngày
đó, giờ đây được sống yên lành, không phải
bán ḿnh sang Đài Loan, Hàn Quốc để nuôi cả một
gia đ́nh khốn khó.
Hôm rời Việt Nam, khi bước vào
phi trường Tân Sơn Nhất, bất ngờ tôi nh́n thấy
một lô Nón Lá. Nhưng mà tôi c̣n buồn hơn là "những
ngày không t́m thấy .. nón", V́ những chiếc Nón Lá này
đang lắc lư trên đầu những bà đầm
già đen, trắng. Có lẽ các công ty du lịch Việt
Nam, "những mũi nhọn xung kích của thiên niên kỷ
mới", giới thiệu Cái Nón Lá với khách bốn
phương như là một giá trị văn hoá quê nhà,
nhưng họ có biết là cái giá trị đó đang ngày
mai một ngay trên chính quê hương của Nón ??
Tôi nhớ tới cái cảnh mấy ông
nghị viên, dân biểu bên Mỹ, bên Tây trong những mùa
tranh cử ở những vùng có nhiều cử tri gốc
Việt, thường mặc áo dài, có khi đội cả
khăn đống .. để vận động kiếm
phiếu. Không biết bà con th́ sao, có vui v́ thấy thiên hạ
"yêu" văn hóa ta hay không, chứ riêng một thằng
có thói xấu bảo thủ như tôi th́ không thấy đẹp
chút nào mà c̣n hơi ngượng .. v́ có cảm giác chiếc
áo dài, khăn đống của ḿnh bị người ta
.. lợi dụng.
Về tới Na Uy, tôi đem câu chuyện
Cái Nón Lá bây giờ tự dưng biến mất ở các cổng
trường .. bên quê nhà, kể cho mấy ông bạn già
như là "món quà của một kẻ đi xa về",
th́ lại nghe thêm được một chuyện buồn
cũng về cái Nón:
Có một ông già Việt kiều gốc
nhà quê yêu nước, được con cháu bảo lănh sang
đoàn tụ. Sống trên cái xứ Bắc Âu nhỏ bé
nhưng vốn có đời sống cao hàng nhất nh́ trên
trái đất, ông già được nuôi nấng kỹ quá,
bơ sữa thừa mứa, mỗi năm lại
được cấp tiền đi du lịch ṿng ṿng, nên
đâm ra .. rửng mỡ nhờ thần dược Viagra.
Ông về Việt Nam liên tục, hết
nói cất nhà từ đường, rồi xây mộ gia tộc.
Hết chuyện tư ông lại mở tấm ḷng bác ái ..
làm chuyện công: xây đ́nh xây miểu chưa xong lại sửa
sang trường học .. giúp viện mồ côi .. Kỳ thực
th́ ông đem tiền về xây nhà giữ trẻ, mà chỉ
nuôi có mỗi một em. Đó chính là .. cô bồ nhí, tuổi
đáng cháu nội của ông. Khốn thay cho những tên Việt
kiều già mất nết. Cái tin này đến tai bà vợ
già .. vốn mê đọc truyện Kiều nên có máu Hoạn
Thư .. Bà huy động một đám con dâu, con gái đă
từng có nhiều huy chuơng trong những cuộc chiến
đánh ghen, cùng về Việt Nam với bà chiến đấu.
Ông già sợ quá, bèn đi t́m thầy bùa gốc Chàm c̣n sót lại
từ lúc công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu cho vua Chế
Mân của xứ Chiêm Thành. Theo lời dạy của ông thầy
bùa, ông già Việt kiều đi t́m mua Cái Nón Lá có bài thơ
t́nh .. xứ Huế, để ông thầy yếm bùa "
khờ " vào Cái Nón.
Không ngờ bà vợ lại có tài
"t́nh báo" c̣n hơn cả đám CIA của Mỹ chống
khủng bố al Qaeda, nên nhất cử nhất động
ǵ của ông chồng già .. dịch bà đều "nắm
bắt" kịp thời !
Bà kéo đám quân thiện chiến về
đúng vào mùa hè đỏ lửa. Ông chồng biết bà vợ
rất sợ ông Trịnh Công Sơn xúi người ta "
Gọi Nắng ..", bèn mang Cái Nón Lá vào tận phi
trựng đón nữ tướng quân. Khi bà vợ vừa
bước ra khỏi phi trường, ông chạy tới
xum xoe, đưa Cái Nón lên âu yếm che đầu bà. Bà vung
tay giật ngay Cái Nón vất xuống đất đạp
tan tành. "Thừa thắng xông lên" bà cắt mái tóc mới
nhuộm của ông già, rồi định cắt thêm .. một
cái ǵ nữa đó. Cả phi trường náo lọan, công
an bảo vệ phải xông vào cứu ông già thoát nạn,
trước sự ḥ reo của tất cả mọi
người vừa chứng kiến một tấn tuồng
hay ..
Tôi nghĩ, nếu lỡ xui, hôm ấy có
tôi, chắc tôi không thể nào mở miệng ra cười
đư ợc, mà có khi tôi c̣n khóc. Không chỉ khóc v́ trong
đám Việt kiều, có những gă già mất nết, mà
khóc v́ đau ḷng và tội nghiệp cho.. cái Nón Lá. V́ nó có tội
t́nh ǵ ?
Trong lúc ở quê nhà, cùng "tiến nhanh
tiến mạnh " lên một nền "kinh tế thị
trường theo định hướng xă hội chủ
nghĩa", các em nữ sinh, các cô con gái dần dần bỏ
rơi Cái Nón Lá, th́ một ông già vừa mới xa quê mấy
năm, vốn coi trọng truyền thống cha ông, lại
sớm bán linh hồn cho quỷ, và dùng Cái Nón Lá vào một việc
"cực kỳ" kém văn hóa. Thử hỏi một
thằng gốc nhà quê như tôi làm sao mà không buồn cho
được.
Viết tới đây tự dưng tôi
liên tường tới một điều, mà cứ mỗi
lần nghĩ tới là ḷng thấy nhói đau. Nói theo kiểu
mấy ông nhà văn th́ "dường như đang có những
nhát chém hư vô" nào đó ở trong ḷng.
Cũng kể từ lúc những nữ
sinh, những cô con gái Việt Nam dần dần bỏ
rơi cái Nón Lá, th́ cũng là lúc số phận của những
người phụ nữ một thời " anh hùng bất
khuất trung hậu đảm đang" vốn là con
cháu của các "chị ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh,
chị hai năm tấn quê ở Thái B́nh" đi đến
chổ cùng tận của nỗi .. thê lương.
Trong lịch sử dân tộc ta, dường
như chưa có thời kỳ nào mà số phận của
nhiều người con gái, phụ nữ Việt Nam lại
bi thương rẻ rúng như bây giờ.
Hơn một trăm ngàn ( xin nhắc lại:
một trăm ngàn) các cô gái, mà trong đó có hơn 60% các em ở
tuổi vị thành niên đă phải sang Campuchia và Thái Lan
làm gái điếm. Hơn sáu chục ngàn cô gái bị lừa
(và bị bán) sang Đài Loan, Hàn Quốc, nói là để làm
vợ, nhưng thực ra chỉ làm nô lệ và nô lệ
t́nh dục cho bọn lưu manh. Một số đông bị
hiếp tập thể hay hiếp luân phiên bởi những
gă đàn ông bệnh hoạn trong một đại gia
đ́nh, vốn cũng chẳng khấm khá ǵ. Rồi sau khi
tả tơi, bị bán rẻ lại cho những ổ mại
dâm mạt hạng. Oái ăm và đau đớn thay, bọn
đàn ông khốn kiếp này lại là đám con cháu của
" bọn phản động Tưởng Giới Thạch
và bọn Pác Chung Hy từng sang Việt Nam đánh thuê cho
đế quốc Mỹ năm nào ! Hàng vạn cô gái vị
thành niên sang hành nghề gái điếm bên Nga. Cái nôi của
một chế độ mà đă có thời được
đàn em cúc cung tung hô "vạn tuế ", nơi mà
đă có một nhà thơ lớn viết một bài thơ
để đời: "thương cha th́ thương một
mà thương ông (Stalin) th́ thương đến mười",
cho một ông nhà thơ đàn em hùa theo ca ngợi " đồng
hồ Liên Xô đẹp hơn đồng hồ Thụy Sĩ",
" trăng nước Nga tṛn hơn trăng nước
Mỹ" ! Bây giờ th́ cái thành quả " Kách Mệnh
tháng 10 " đó đang bày bán khắp các chợ trời ở
biên giới các nước bắc Âu: Từ huy
chương, phù hiệu, cờ xí .. cho đến những
cô con gái, mà cha mẹ ông bà vốn một thời là đồng
chí của Stalin !)
Chưa bao giờ người con gái Việt
Nam lại đem bày hàng rao bán ở bên Singapore, Hàn Quốc,
như là những cộng rau héo úa của buổi chợ
chiều. Từng nhóm những cô gái quê, trần truồng
như nhộng, sắp hàng đi tới đi lui, quay
trước quay sau, để cho những gă Tàu già, nghiện
hút, tàn tật tha hồ chọn lựa.
Trong nước, th́ từ thành phô, đến
thôn quê, từ vùng xuôi đến "vùng sâu vùng xa",
nơi nào cũng dẫy đầy gái điếm ! Điếm
bây giờ có đủ hạng bậc, chẳng khác ǵ một
đội quân gái với đầy đủ các cấp
quân hàm: từ ca sĩ, diễn viên điện ảnh,
người mẫu, hoa khôi, á hậu .. đến những
cô sinh viên, đang c̣n theo học hoặc vừa mới ra
trường. Bi thảm và thương tâm nhất là các em
gái học tṛ nghèo, tuổi mới mười ba, mười
bốn cũng phải bán dâm. Mà khốn nạn thay những
kẻ mua dâm lại là những ông thầy và đám quan lại
quyền thế của triều đ́nh.
Từ vụ ông tiến sĩ TCP/TCTDTT
Lương quốc Dũng hiếp dâm một bé gái 13, đến
ông TGĐ PMU18 Bùi tiến Dũng, cứ mỗi lần cùng
bọn tham quan đánh bạc là có các cô xinh đẹp trần
truồng ngồi sẵn một bên để các ngài xả
xui ngay tại chỗ. Rồi đến ngài thứ trưởng
Nguyễn Việt Tiến rửa ghế với mấy cô
người mẫu trần truồng ngồi trong những
chậu sứ, rượu ngoại được thay nhau
đổ từ trên đầu xuống khắp châu thân, chảy
qua đủ ngơ ngách của các nàng kiều nữ, để
đám nịnh thần cụng ly chúc mừng quan lớn ! Mới
nghe, tôi cứ mơ hồ như chuyện chỉ có trong
phim tàu của cái thời có nhiều bạo chúa.
Mới đây, hơn mười em học
tṛ nghèo, tuổi mới 14, 15 ở cái huyện Ḥa An hẻo
lánh trên tận Cao Bằng heo hút gió mưa bị ép bán dâm cho
một ông thầy đang làm quan trong Sở Giáo Dục và
Đào Tạo tỉnh. Rồi một ngài Trung tá Phó Trưởng
Công An Thị Xă Cao Bằng cưỡng bức mua dâm một
em gái mồ côi tại Trung Tâm Bảo Trợ Xă Hội Tỉnh
Cao Bằng chưa đến tuổi 15.
Hèn ǵ một cô nghệ sĩ ưu tú Hát
Chèo, bộ môn văn hóa cổ truyền đang được
cổ vơ hồi sinh, lại bỏ chèo để làm "má
ḿ" chuyên cung cấp những cô gái loại "hàng xịn".
Một cô sinh viên của một trường đại học
danh giá ngay giữa ḷng thủ đô, " Hà Nội .. niềm
tin yêu và hy vọng của núi sông hôm nay và mai sau", lại
trở thành tú bà, chuyên cung cấp nữ sinh viên cho các ngài
đại gia mà phần lớn là đám hoạn quan lớn
bé của triều đ́nh thời mở cửa. Trong khi ấy
th́ các quan lớn dùng tiền nhà nước đánh bạc,
cá độ cả tiền tỷ, cả đến gần
ba triệu đô la! Đă vậy các quư tử, công
nương dốt nát của quí ngài c̣n được
đi du học "ăn chơi " đó đây bằng
tiền của E Việt Nam Giao Chỉ !
( Tôi cũng xin nói rơ: tất cả những
tin tức này đă được đăng tải công
khai trên các báo Công An, Thanh Niên, Tuổi Trẻ của nhà
nước, chứ không phải từ những tên phản
động, hoặc những phần tử " diễn
biến ḥa b́nh" nào đâu nhé ).
Trong một bài thơ khá dài và thật cảm
động gởi cho một em bé nghèo phải sang bán ḿnh
cho các nhà chứa ở Bangkok, nhà thơ Trần Trung Đạo
(một người trẻ có trọn tấm ḷng với
quê hương, đất nước, hiện tị nạn
tại Hoa Kỳ) có một đoạn:
Lịch sử Việt Nam
Vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận
Nhưng chưa bao giờ đen tối
như hôm nay
Ông cha ta có khi phải xuống biển
t́m ngọc trai
Lên non t́m ngà voi trầm hương châu
báu
Có những lúc cả ḍng sông thắm máu
Có nhiều khi xương trắng gởi
rừng sâu
Nhưng chưa một lần trong bốn
ngàn năm
Có những cô gái Việt Nam
Phải sang xứ người bán thân
nuôi miệng
Tủi nhục này không bao giờ rửa
sạch
Nỗi đau này không phải của
riêng em
Mà của mọi người c̣n một
chút lương tâm
Và c̣n biết như thế nào là quốc nhục
.. .. ..
Trách nhiệm này xin hỏi thuộc về
ai ? Câu trả lời thuộc quyền "sở hữu
trí tuệ" của các bạn. Tuy nhiên nếu có bạn
nào bảo trách nhiệm này thuộc về Nhà Nước là
tôi cực lực phản đối.
Bởi cái thằng vốn "duy tâm biện
chứng" tôi xin lư luận một cách rất "lô
gíc" theo kiểu tam đoạn luận như sau:
Đây nhất định không phải
là trách nhiệm của nhà nước ( hay là chính quyền
), mà đích thực là của nhân dân. V́ trong xă hội xhcn,
nhà nước chỉ quản lư, chính quyền chỉ là
"công bộc", c̣n nhân dân mới làm chủ ( chắc
các bạn ai cũng cũng thấy ở Việt Nam ta, trừ
duy nhất cái Kho Bạc Nhà Nước, c̣n tất tần tật
cái ǵ cũng của nhân dân: Chính quyền Nhân Dân, Quân Đội
Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Ṭa Án Nhân Dân ..) mà đă là làm chủ (
nhất là làm chủ tập thể) là đích thị trách
nhiệm phải thuộc về nhân dân rồi. Tôi xin đề
nghị là: đưa nhân dân ra Ṭa án Nhân Dân xét xử. Và nếu
tôi vinh dự được làm bồi thẩm Nhân Dân (lại
.. nhân dân), tôi xin các đồng chí nhân dân nhất trí:-
- chiếu theo điều 1/HV của bộ
luật dân sự thời vua Hùng dựng nước
- thi hành lời di chúc của cha Lạc
Long Quân và mẹ Âu Cơ
- xét rằng, Chiếc Nón Lá là biểu
tương cho phụ nữ Việt Nam, anh hùng bất khuất
trung hậu đảm đang
- xét rằng Chiếc Nón Lá là chứng
tích của bao cuộc t́nh học tṛ dưới cành hoa
phượng đỏ
- xét rằng Chiếc Nón Lá đă góp phần
làm giàu cho thi ca và làm đẹp cho quê hương có bốn
ngàn năm văn hiến
- xét rằng Chiếc Nón Lá đang có thành
tích trong kế hoạch kinh tế vĩ mô: góp sức to lớn
cho ngành Du Lịch nước nhà.
- Xét rằng chính các cô gái Việt Nam
đă phản bội, dần dần bỏ rơi Chiếc
Nón Lá, nên đă đưa người con gái nước ta
vào bao cảnh lầm than, khốn khổ, đoạn
trường như hiện nay.
- Đề nghị h́nh thức kỷ luật:
- Em nữ sinh nào bỏ Nón Lá, khi vào pḥng
thi sẽ không được mua trước đề thi
như ở Hà Tây và Cai Lậy (Tiền Giang), nơi có đến
536 bài thi giống nhau như đúc!
- Người đẹp nào bỏ Nón Lá
sẽ không được mua chỗ vào học tiếp viên
hàng không Giao Chỉ với giá rẻ 20.000 đô la Mỹ.
- Bà nào bỏ Nón Lá, sẽ không được
làm bồ nhí cho các ông quan trong Pờ Mu 18.
Dù sao, tôi cũng xin cám ơn Cái Nón Lá,
đă cho thế hệ chúng tôi thật nhiều kỷ niệm,
để mỗi lần hồi tưởng về một
quá khứ xa xăm, lại thấy trong ḷng lâng lâng nỗi
nhớ. Không chỉ nhớ Cái Nón Lá có quai hồng, quai tím ..
hay mấy mối t́nh học tṛ vụng dại, mà nhớ một
thời mà cả .. đất trời và ai nấy cũng dễ
thương. Thôi th́, xin mượn đỡ mấy câu
thơ của ông Khoa Hữu mà thay cho lời tạ từ
cùng cái Nón Lá ngàn đời yêu dấu:
Trăm năm hạt cát vô cùng
Trăm năm ta vẫn một ḷng nhớ
em ..
Bắc Âu, một
ngày không có đêm.
PHẠM TÍN AN NINH
(ThanhMinh sưu tầm, PKO chuyển)