SẮT
SON
(Phạm Tín An Ninh)
Không ngờ
tôi lại là người bưng tấm ảnh chị Ngà
theo sau quan tài của chị. Và cũng chính tôi là người
đào huyệt chôn chị. Đám ma của chị có lẽ
là một đám ma buồn nhất mà tôi chứng kiến.
Có cái chết nào lại không buồn. Những ngày ở
trong trại "cải tạo", tôi đă từng khiêng
xác vài người bạn tù đi chôn ở ven triền núi
hoang vắng đến lạnh lẽo, trong cảnh nhá nhem
của buổi chiều đông trên khu núi rừng Việt Bắc.
Nhưng đó là chuyện trong
tù, c̣n hôm nay ngay trên làng quê ḿnh, chị Ngà đến nơi
an nghỉ cuối cùng mà không có một người ruột
thịt tiễn đưa, ngay cả cái áo quan cũng do bà
con láng giềng góp tiền mua cho chị. Chị nằm bên cạnh cha mẹ
cùng người em trai, trên một ngọn đồi đầy
những cỏ may và cây hoa bộng giếng, nh́n xuống
cái làng quê mà gần cả một đời chị sống
quanh quẩn ở đây, cô đơn, lặng lẽ. Chôn cất xong, mọi người
ra về, tôi nán lại, dựng tấm bia bằng gỗ
trước mộ chị. Khi ngồi một ḿnh nắn
nót viết cái tên của chị lên tấm gỗ, nước
mắt tôi ràn rụa, mơ hồ như thấy ḿnh
đang trở về cái thời nào đó thật xa xăm.
Ngày xưa
cha tôi làm thầy giáo, dạy trường Pháp Việt. Tôi mồ
côi mẹ từ lúc mới lên ba, cho nên những ngày đi dạy
học ông thường dắt tôi theo. Đến lớp,
ông giao tôi cho mấy anh, chị học tṛ lớn của ông
để tôi vừa chơi vừa học. Nhờ vậy
mà lúc c̣n bé tí xíu tôi đă biết "con ngựa cheval nhảy
qua ḥn núi montagne ăn cỏ herbe uống nước de leau".
Trong số
các anh chị dạy tôi học, tôi thích nhất là chị
Ngà. Chị là con gái lớn của ông bà Tần, chuyên nuôi tằm,
bán tơ, một gia đ́nh thuộc hàng khá giả trong làng,
có ngôi nhà ngói lớn, ở cách nhà ông bà nội tôi chỉ mấy
cái vườn cây. Chị Ngà có làn da trắng, mái tóc thật
dài. Lúc nào gặp tôi chị cũng cười và nói năng
nhỏ nhẹ. Nghe cha tôi nói lại, chị hiền lành
ngoan ngoăn và học rất giỏi, nên là một trong số
học tṛ cưng của cha tôi. Thấy tôi mồ côi mẹ,
lại là con của thầy ḿnh, nên chị rất
thương tôi. Ngay cả những ngày nghỉ, chị cũng
thường ghé lại nhà ông bà nội, dắt tôi đi
chơi, mua cho tôi mấy con ḅ, con gà bằng đất. Có
điều tôi ít khi đến nhà chị, v́ rất sợ
những con tằm. Tôi bảo đó là những con sâu, mặc
dù chị tốn bao nhiêu công sức để nói về lợi
ích của con tằm đă làm nên tơ lụa, và những
con bướm đẹp đẽ đang bay ngoài vườn
kia là hoá thân từ chính những con tằm. Nhưng lúc ấy
tôi nghĩ là chị đă kể từ một chuyện thần
thoại nào đó nên không tin những điều chị
nói.
Cả một
thời ấu thơ, lớn lên ở nhà ông bà nội, ngoài
cô Út ra, chị Ngà là người mà tôi gần gũi nhiều
nhất. Chị có một người em trai tên Ngọc, lúc
nhỏ tôi rất phục tài đá banh của anh. Gần
như không trận bóng nào có anh mà thiếu tôi trong hàng khán giả
nhi đồng. Nhờ anh mà đội bóng cùa làng tôi giữ
chức vô địch mấy năm liền trong huyện.
Tôi mê anh đá banh, nhưng nhiều cô gái trong làng th́ mê anh
đẹp trai, cao lớn. Sau này anh đăng vào lính thủy
quận lục chiến. Nghe nói anh đánh giặc hăng lắm,
nên mới ba năm đă lên tới chức trung sĩ. Lâu
lâu về phép dắt theo cô bồ có mái tóc quăn, trông anh
oai phong lắm.
Khi tôi từ
giă quê lên tỉnh học, cũng là lúc chị Ngà ra nghề
làm cô giáo, dạy một lớp nhỏ trường làng, rồi
lấy chồng. Tôi cũng vinh dự được mời,
và quà cưới tôi cho chị hôm ấy là bức tranh chân
dung của chị do chính tay tôi vẽ. Tưởng chồng
chị là ai, hoá ra là anh Phúc, cũng là học tṛ của cha
tôi, học trên chị một lớp, người cùng làng.
Nghe nói anh học giỏi, nhưng thầm lặng, ít nói và
không thích giao du với bạn bè. Anh là con trai một của
bà ba Tịnh. Bà góa chồng từ lúc nào tôi không biết. Chỉ
nghe người ta bảo ông Tịnh theo vợ bé, là một
cô đào trong gánh hát rong, rồi biệt tăm luôn.
Anh Phúc thi
đậu lấy bằng primaire, nhưng viện cớ mẹ
goá con côi, nên không đi làm công chức như những
người khác, mà lại tự ḿnh khai thác một khu
vườn bên kia sông Gốc, trồng nhiều loại cây
và có ao nuôi cá. Trong làng ai cũng khen anh biết tính toán và có
ḷng hiếu thảo.
Trong đám học
tṛ của cha tôi cũng có vài anh khác ngắm nghé chị Ngà,
nhưng vâng lời cha mẹ, chị lấy anh Phúc, bởi
anh là con một của bà mẹ góa, được nhà
nước cho miễn dịch, khỏi phải đi lính
xa nhà, để chị c̣n được gần gũi
săn sóc ông bà khi đến tuổi già. Đám cưới
nhà quê, nhưng khách khá đông, mà hầu hết là bạn học
của hai người và cũng là học tṛ của cha tôi.
Trong lễ cưới, sau khi cô dâu chú rể lạy tạ
cha mẹ hai bên, rồi xin được lạy cha tôi một
lạy để đền ơn sư. Cha tôi cầm tay
anh chị dặn ḍ nhiều thứ, tôi không nhớ hết,
chỉ c̣n mang máng hai tiếng thủy chung.
Từ ngày chị
Ngà lấy chồng tôi ít có dịp gặp lại chị. Mặc
dù nhà chồng chị cũng không xa mấy, nơi ven làng,
bên con sông Gốc, mà phía bên kia sông là khu vườn của
anh Phúc và cánh rừng tiếp giáp với dăy Trường Sơn.
Tôi gặp lại
chị đúng vào một ngày buồn. Chỉ đứng
nh́n chị ấy khóc. Anh Ngọc, em trai duy nhất của
chị, bị tử trận đâu trong Rừng Sát. Cha mẹ
chị ngất xỉu khi nhận chiếc quan tài mà không hề
được báo trước. Đám ma hôm ấy nghiêm
trang lắm, có cả ông quận và mấy anh lính bồng
súng chào đi theo. Tôi d́u chị đi sau linh cữu, tiễn
đưa anh Ngọc đến nơi an nghỉ cuối
cùng.
Điều
làm tôi - và nhiều người - ngạc nhiên là trong đám
ma của anh Ngọc, không ai nh́n thấy mặt anh Phúc, chồng
chị. Mọi người th́ thầm "cha nào con nấy,
chắc là lại mê con đào hát nào, bỏ con Ngà rồi! "
Tội nghiệp
cho chị và oan cho anh Phúc. V́ trước đó mẹ anh
Phúc đă thay mặt con trai xin lỗi gia đ́nh sui gia, bởi
anh Phúc ốm nặng bất ngờ phải nằm bệnh
viện.
Hai tháng sau, một
trận lụt lớn tràn qua làng tôi, kéo theo một số
nhà cửa và trâu ḅ, nhưng không có ai chết, ngoại trừ
cái tin anh Phúc bị nước cuốn đi, khi anh c̣n ở
khu vườn bên kia sông Gốc, chưa kịp về nhà. Mẹ
anh Phúc rước thầy ngồi đồng đi t́m xác
anh Phúc suốt mấy ngày liền, nhưng người ta
nghĩ là xác anh đă trôi ra biển.
Trong nhà cũng
lập bàn thờ, nhưng chị Ngà nhất định
không chịu để tang. Chị bảo linh tính báo cho chị
biết là anh Phúc, chồng chị vẫn c̣n sống. Có thể
trôi giạt đến một nơi nào đó rồi
được người ta cứu như câu chuyện
nàng Thúy Kiều mà chị thường đọc cho cha mẹ
chị nghe ..
Tôi rời
quê vào Sài g̣n học, rồi sau đó đi lính. Lâu lâu nghỉ
phép về quê, tôi t́m đến thăm chị. Sau ngày cha mẹ
mất, chị nghỉ dạy học, bán ngôi nhà ngói lớn
của ông bà, đem tiền bạc về xây lại ngôi nhà
mẹ chồng thành ngôi nhà lớn ba gian, mua luôn cả khu
vườn bên cạnh có trồng đủ loại cây
ăn trái. Chị dành lại một số tiền mở một
nhà máy xay xát nhỏ, nuôi bà mẹ chồng bị đau bệnh
mấy năm nay, chỉ nằm một chỗ.
Trong làng, có
người th́ bảo chị ấy "khôn nhà dại chợ,
bán nhà cha mẹ để gây dựng nhà chồng, và mang cả
bàn thờ cha mẹ, em út sang bên ấy, không sợ tủi hổ
vong linh". Nhưng cũng có người, trong đó có ba
tôi, th́ khen chị, bảo là "xuất giá th́ phải tùng
phu, con Ngà nó làm vậy là đúng theo sách thánh hiền !".
Không hiểu có phải v́ chị nghe lời dặn ḍ của
ông Thầy, từng khai tâm và d́u dắt chị nên người,
thuộc ḷng hai chữ thủy chung, nên dù chồng đă biệt
tích từ lâu, chị vẫn ở vậy, thờ phụng
nhà chồng, trong lúc chị vẫn c̣n trẻ và có nhan sắc
trong vùng. Có mấy ông thầy giáo ở xa đổi tới
từng mon men đến chị nhưng chị khước
từ.
Ngày mẹ chồng
chết, cũng chỉ có mỗi một ḿnh chị mặc
áo tang. Nghe nói cái đám ma đúng vào một ngày gió mưa, ảm
đạm. Người ta không chỉ thương cho
người chết, chẳng có chồng con trong phút lâm
chung, mà c̣n tội nghiệp cho cả cô dâu, một ḿnh cô
đơn đi sau quan tài, tiễn đưa bà mẹ chồng
về nơi chín suối, mà cũng đưa cuộc đời
ḿnh vào chốn quạnh hiu.
Chiến
tranh càng lúc càng leo thang. Sau ngày mấy ông tướng nghe
theo Mỹ hạ bệ và giết hai anh em ông Ngô đ́nh Diệm,
không biết đất nước có thực sự khá
hơn không, nhưng ở quê tôi th́ không c̣n b́nh yên như
trước nữa. Một vài người làm việc trong
chính quyền bị ám sát. Cứ vài ba tuần lại có một
cuộc đụng độ giữa các toán dân vệ với
quân du kích. Ba tôi phải bỏ quê, về sống ở thành
phố, giao ngôi nhà từ đường của ông bà nội
cho cô Út tôi chăm nom thờ phượng.
Tôi về
phép thăm ba tôi đúng vào ngày giỗ ông nội, nên hai cha con
cùng về thăm quê. Tôi gặp chị Ngà khi vừa bước
chân vào nhà ông nội. Chị đến đây từ sáng sớm,
phụ cô tôi dọn dẹp nhà cửa, bàn thờ, chùi bóng mấy
bộ lư đồng và mấy tấm liễn. Thấy
ba tôi, chị ṿng tay cúi đầu thưa Thầy như cái
hồi c̣n bé. Chị nắm tay tôi, miệng nở nụ
cười. Nhưng nh́n trong đôi mắt chị, tôi thấy
phảng phất buồn.
Không biết
ba tôi thay đổi quan niệm từ lúc nào, sau đám giỗ,
ông bảo tôi t́m chị Ngà, dặn chị ở lại cho
ông nói chuyện. Ông khuyên chị Ngà nên bước thêm bước
nữa, hy vọng c̣n sinh đẻ được để
có mụn con, hầu tránh cảnh tuổi già đơn chiếc,
chẳng có ai lo lắng cho ḿnh. Hôm ấy tôi cũng phụ
họa nhiều điều và hứa sẽ làm mai cho chị.
Lần này Chị không một mực khước từ,
nhưng xin để tang mẹ chồng cho đủ ba
năm. Tôi giận chị nhưng cũng cảm phục tấm
ḷng thủy chung của chị.
Tháng tư bảy
mươi lăm, khi chị Ngà chưa măn tang mẹ chồng,
th́ cả miền nam để tang cho đất nước.
Cái "đại thắng mùa Xuân" của những
người Cộng sản đă gây biết bao nhiêu thê
lương tang tóc. Ba tôi bị bắt trong lúc tôi c̣n theo
đơn vị từ Cao nguyên "di tản chiến thuật"
vào các địa danh xa lạ ở tận Long An tham dự
những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn
tẻ. Miền Nam mất. Trong lúc những người Cộng
Sản ngơ ngác ḥ reo chiến thắng, tôi lặng lẽ
quá giang đủ các loại xe trở về quê. T́m tới
trại tù Đá Bàn, một mật khu lúc trước nằm
sâu trong núi, nơi ba tôi bị giam giữ, nhưng cuối
cùng tôi vẫn không được phép gặp ba tôi. Tôi về
nhà ông nội thăm bà cô út và thắp hương từ biệt
trước bàn thờ gia tộc.
Cô tôi đau
ḷng cho biết, người kư lệnh bắt ba tôi là một
anh học tṛ của chính ông ngày trước. Anh bỏ nhà
lên núi rồi tập kết ra Bắc. Bây giờ đang giữ
một chức vụ khá lớn trong Uỷ Ban Quân Quản.
Cô tôi chưa kể hết câu chuyện th́ chị Ngà đến.
Chị nắm chặt hai bàn tay tôi, không nói điều ǵ.
Tôi thấy chị đang khóc. Tôi nghĩ là chị
thương và lo lắng cho cha con tôi trong cái cảnh sa
cơ này. Tôi lấy lại b́nh tĩnh, chưa kịp nói lời
trấn an, th́ chị nh́n tôi nghẹn ngào:
- Em, em .. xin
Thầy và em tha thứ cho chị. Chị không ngờ .., chị
thật sự không ngờ.
Và chính tôi cũng
không ngờ. Anh học tṛ kư lệnh bắt cha tôi chính là anh
Phúc, chồng của chị. Tôi rút nhanh tay ra khỏi bàn tay
của chị.
Dường
như đây là lần đầu tiên trong đời, nh́n
những giọt nước mắt - mà lại nước
mắt của một người rất gần gũi
thân quen - ḷng tôi dửng dưng không hề xúc động.
Tôi có cảm giác đắng cay của một người
bị lừa gạt và phản bội. Tôi giận cho t́nh
đời và thầm ân hận là cha tôi đă từng "nuôi
ong tay áo".
Tôi từ biệt
làng quê và bà cô cả một đời nuôi nấng chăm
lo cho tôi từ thời tấm bé, bước vào trại "cải
tạo" với ngổn ngang trăm mối trong ḷng. Tự
dưng tôi mất mát gần như tất cả mọi thứ
trên đời, kể cả những t́nh cảm mà tôi cứ
ngỡ là nó sẽ không bao giờ mai một.
Hơn tám
năm trong nhiều trại tù từ nam ra bắc, bị hành
hạ đói khổ khốn cùng. Tôi sống c̣n có lẽ là
nhờ những giấc mơ về quá khứ. Trong đó
tôi bắt gặp lại hầu hết bóng dáng những
người thân yêu của cái thời hạnh phúc. Và khuôn mặt
xinh đẹp hiền hậu dễ thương của chị
Ngà vẫn thường hiện lên rơ nét, mặc dù khi đầu
óc tỉnh táo, tôi đă cố gắng xua đuổi h́nh ảnh
ấy ra khỏi kư ức mệt mỏi của ḿnh. Tôi
thương chị mà hận chị. Tôi nghĩ là chị
đă đồng lơa với nhà chồng để lừa gạt
chúng tôi hơn mười mấy năm qua.
Ra khỏi
tù, tôi không được phép về sống chung với vợ
con ở thành phố Ninh Ḥa, quê vợ. Lư do hết sức
đơn giản là : chính quyền ở đó không nhận
tôi tạm trú. Công an tỉnh bắt buộc tôi phải về
"tŕnh diện chính quyề" nơi sinh quán. Tôi lại
một ḿnh khăn gói về quê cũ, mà ở đó chỉ
c̣n một bà cô già góa bụa sống âm thầm trong ngôi nhà từ
đường có mái ngói âm dương của ông bà nội
tôi để lại.
Nghe tin tôi về,
bà con hàng xóm đến thăm. Mới hơn tám năm mà
trông ai cũng già nua, khắc khổ. Trong số đó tôi
để ư một người đàn bà, đứng ngoài cửa
nh́n tôi, đôi mắt thất thần, đầu tóc rối
bù, áo quần rách rưới bẩn thỉu. Tôi ngờ ngợ
nhớ tới một người. Nhưng khi vừa đứng
lên định bước tới hỏi thăm, th́ bà ta vụt
chạy về phía sau vườn. Tôi ngẩn người
khi cô tôi bảo nguời đàn bà ấy chính là chị Ngà, vợ
anh Phúc ngày xưa. Buổi tối, sau khi dắt tôi lên
căn nhà thờ thắp hương lạy ông bà, cô tôi
đóng kín cửa, khêu ngọn đèn dầu, ngồi kể
cho tôi bao nhiêu nỗi niềm tâm sự.
Cha anh Phúc -
theo lời tiết lộ sau này từ những đồng
chí thân tín của anh Phúc thực ra không hề theo một ả
hát rong nào cả, mà bỏ làng vào bưng từ khi anh Phúc mới
lên mười. Ông đă chết từ lâu, nhưng hàng
năm vợ con vẫn nhận được thư ông do
một vài người lạ mặt mang tới. Trong mấy
lá thơ, hầu hết là "động viên" tinh thần
anh Phúc nối gót cha đi làm "kách mệnh". Trước
khi lên núi, anh Phúc làm quen, rồi tỏ ra yêu chị Ngà,
nhưng thực ra đó là kế hoạch đă được
các "đồng chí thủ trưởng" giao cho anh
Phúc phải thi hành, để giải quyết việc nuôi
nấng mẹ của Phúc, mà bọn họ biết là bà
đă trở thành goá bụa từ lâu rồi.
Những ngày
làm vườn bên kia bờ sông, anh Phúc đă hoạt động
cho phía bên kia. Dưới căn hầm trong khu vườn
là sào huyệt từng che dấu cho nhiều cán bộ. Sau một
trận tấn công chiếm trụ sở xă bất thành, sợ
hành tung bại lộ, anh Phúc đă lên núi rồi tập kết
luôn ra Bắc, sau khi dựng lên vở kịch chết trôi
trong trận lụt năm nào.
Tất cả
mọi việc không phải chỉ để qua mắt mọi
người, mà c̣n đánh lừa cả chị Ngà. Chị
nhẹ dạ cả tin, nên ban đầu cứ tưởng
chồng ḿnh c̣n sống bị trôi giạt ở đâu
đó, nên vẫn chờ đợi trong hy vọng. Sau một
thời gian dài bặt vô âm tín, chị mới nghĩ là anh
đă chết. Tội nghiệp, chị không hề biết
là ḿnh đă bị lừa dối để uổng phí cả
một đời xuân sắc.
- Thế bây
giờ ông Phúc ở đâu và v́ sao chị Ngà lại ra nông nỗi?
Tôi hỏi.
- Sau ngày "giải
phóng" chưa đầy một tháng, thằng Phúc
đưa vợ con từ ngoài Bắc vô đây, giành lấy
ngôi nhà do công sức của con Ngà gầy dựng, trong
đó phần lớn là tài sản của chính cha mẹ nó.
Con Ngà phải ra phía góc vườn che một cái cḥi tranh
để trú nắng trú mưa.
- C̣n cái máy
xay xát ở đâu mà trông chị nghèo khổ đến
như vậy ? Tôi thắc mắc
- Họ mang
vào hợp tác xă. Thời gian đầu họ cho con Ngà làm
công nhân xay lúa, nhưng lại trả lương bằng bo
bo. Chỉ sau vài tháng tất cả các máy xay xát tâp trung về
huyện, nó bị mất việc.
- Bây giờ
gia đ́nh ông Phúc vẫn c̣n bên ấy? Con không muốn có ngày
gặp mặt ông ta.
- Thực ra
nó giành nhà, nhưng chỉ ở một vài tháng rồi cho
gia đ́nh một "đồng chí" nào của nó cũng
từ ngoài Bắc vào tá túc, trong khi chờ chia chác những
ngôi nhà lớn mới tịch thu. Sau đó thằng Phúc bán cả
nhà lẫn vườn tược lại cho người
khác, vào thành phố nhận một chức hàm lớn
hơn. Con Ngà nó phát điên từ dạo ấy. Ngày nghe tin
ba con chết trong trại tù cải tạo, nó như một
kẻ không hồn. Ban đêm, người ta nghe tiếng nó
gọi Thầy ơi, Thầy ơi rồi khóc nức nở.
Tôi theo cô Út,
đi dọc theo phía sau mấy khu vườn, t́m đến
chị Ngà. Trong căn cḥi lụp xụp tối tăm, chị
Ngà đang ngồi thẫn thờ trên cái giường tre
như một pho tượng cũ. Trên đầu giường
có ba tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc,
em chị, nhem nhuốc, úa màu. Không ngờ cái ngày đổi
đời, người chồng biệt tăm bao nhiêu
năm bây giờ bỗng dưng về, trở thành ông lớn
th́ cuộc đời của chị lại tàn tạ bi thảm
như hôm nay. Tôi ngồi xuống bên cạnh chị, ôm
đôi vai gầy c̣m của chị mà trong ḷng tựa hồ
như bao nhiêu vết chém.
- Chị Ngà
ơi, chị vẫn măi măi là chị của em mà. Em
thương chị và sẽ lo lắng cho chị.
Chị Ngà ngồi
bất động. Rồi bất ngờ ̣a lên khóc. Cô cháu
tôi càng dỗ dành an ủi, chị lại càng khóc to hơn,
tôi nghe tiếng ấm ức nghẹn trong cổ họng chị.
Tôi năn nỉ,
khóc lóc với chị bao nhiều lần mới đón
được chị về ở chung trong nhà ông nội.
Tôi mang mấy tấm ảnh của cha mẹ chị và anh
Ngọc về để một góc trên bàn thờ gia tộc.
Từ ngày ấy chị khá hơn xưa. Những lúc ngồi
tâm t́nh với cô cháu tôi, chị vui vẻ b́nh thường
như thuở c̣n con gái, nhưng cũng có nhiều đêm
khuya chị ngồi trước bàn thờ lẩm bẩm một
ḿnh và khóc sụt sùi. Từ ngày có chị, tôi cũng thấy
ḿnh đỡ bớt cô đơn, và có lúc c̣n thấy ḿnh hạnh
phúc trở lại với cái thời thơ dại.
Vậy rồi
chị ĺa bỏ thế gian này cũng thật bất ngờ.
Buổi sáng thức dậy sớm, tắm rửa xong chị
thay quần áo mới, kẹp lại mái tóc, trông chị trẻ
ra. Cả ngày hôm ấy chị cười đùa hồn
nhiên vui vẻ, ngồi ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của
những ngày tôi c̣n bé, và chị c̣n là cô học tṛ cưng của
ba tôi. Khi vui, trí óc chị trở nên minh mẫn lạ
thường. Chị c̣n nhớ bao nhiêu điều mà chính
tôi đă quên từ lâu lắm. Trước khi đi ngủ,
chị c̣n ôm đầu tôi vào ḷng, nhại một câu hát
đă lâu "may mà có em đời c̣n dễ thương ..".
Và sau đêm hôm ấy, chị không bao giờ thức dậy
nữa.
Trước
ngày vượt biển, phải cắt ruột bỏ quê
mà đi, tôi đến nghĩa trang gia tộc thắp
hương cho ông bà và mẹ tôi, rồi đến thăm
mộ chị cuối cùng. Trong lúc cầm ba nén hương
đứng trước mộ chị, tôi nghĩ đến
thuyết luân hồi của nhà Phật, và h́nh dung bây giờ
chị Ngà đang sống ở một thế giới khác,
xinh đẹp và rất hạnh phúc với một người
chồng xứng đáng, bởi chị là một nguời
đàn bà thánh thiện, sắt son.
Một con
bướm trắng không biết từ đâu bay lại
đậu trên tấm bia bằng gỗ, mà chính tay tôi đă
dựng lên cho chị, nhịp nhịp đôi cánh rồi vụt
bay theo cơn gió lốc, biến mất trong bầu trời
xanh.
-
Viết vào ngày giỗ thứ hai mươi của chị
Ngà -
© Phạm Tín An Ninh
(Trịnh
Cuối
Huôn sưu
tầm
và chuyển)